XỨ HAZARAN
Bờ Đê Nước Pháp không hẳn là một thành phố, vì nơi này không nhà cửa, không đường sá, chỉ có những túp lều lợp bằng ván hoặc giấy dầu và lớp đất mỏng. Nó được gọi như vậy, có lẽ vì đây là nơi sinh sống của người Ý, người Nam Tư, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Bồ Đào Nha, người Algeria, người châu Phi, những người thợ hồ và thợ lấp đất, và những nông dân không chắc tìm được việc làm, cũng không rõ mình sẽ ở lại một năm hay chỉ đôi ba bữa. Họ đến đây, tại Bờ Đê này, gần những đầm lầy quanh cửa sông, họ dừng lại nơi mà họ có thể sinh sống, và dựng lều ở đó chỉ trong vài giờ. Họ mua ván từ những người đã bỏ đi, mấy tấm ván cũ nát và thủng lỗ chỗ đến độ ta có thể nhìn thấu cả bầu trời. Để lợp mái, họ cũng lại dùng ván, hoặc những tấm giấy dầu lớn, hoặc những mảnh tôn uốn lượn, nếu may mắn tìm ra, được giữ chặt bằng những cọng sắt và vài viên sỏi nhỏ. Mấy lỗ hổng được lấp bằng những khúc vải vụn.
Đó là nơi Alia sống, phía tây Bờ Đê, cách nhà Martin không xa lắm. Nó đến đây cùng lúc với chú, từ những ngày đầu tiên, khi chỉ có hơn chục căn lều thưa thớt và mặt đất vẫn còn mềm với những đồng cỏ rộng lớn và các hàng sậy nằm bên bờ lầy. Ba mẹ nó đột ngột qua đời trong lúc nó chẳng biết làm gì ngoài việc chơi đùa cùng những đứa trẻ khác, và dì của Alia đã đem nó về sống với bà. Bây giờ, sau bốn năm, Bờ Đê đã được mở rộng, lấn qua tả ngạn cửa sông, trải từ dốc đường lớn ra tận biển, với hàng trăm con phố nhỏ đắp bằng đất nện và nhiều túp lều đến nỗi không tài nào đếm xuể. Mỗi tuần lại có nhiều chuyến xe tải đến dừng trước lối vào Bờ Đê, thả những gia đình mới và đưa những gia đình khác rời khỏi đây. Trên đường đi gánh nước, hay mua gạo và cá mòi ở hợp tác xã, Alia dừng lại để quan sát những người mới tới lục đục dựng lều trên những chỗ đất còn trống. Đôi khi cảnh sát cũng tới trước cổng Bờ Đê để kiểm tra và ghi tên những người mới đến và những người rời đi trong một quyển sổ.
Alia nhớ rất rõ cái ngày đẹp trời mà Martin đến đây. Lần đầu nó nhìn thấy chú, là khi chú bước xuống xe tải cùng những người khác. Gương mặt và bộ đồ trên người chú đã bạc trắng vì bụi, nhưng nó nhận ra ngay. Đó là một người đàn ông kỳ lạ, cao và gầy, gương mặt sạm nắng, trông giống như một thủy thủ. Người ta có thể tin rằng chú đã già, do những nếp nhăn trên trán và hai bên má, nhưng chú có một mái tóc dày và đen tuyền, và đôi mắt còn sáng hơn cả mặt gương. Alia nghĩ chú có đôi mắt hay nhất Bờ Đê này, thậm chí là hay nhất đất nước này, biết đâu đấy, vì lẽ đó mà nó đã để ý ngay đến chú.
Nó ngồi yên khi chú đi qua. Chú bước đi chậm chạp nhìn quanh như thể chỉ đến đây để tham quan và chiếc xe tải sẽ lại đưa chú ra đi trong vài khắc nữa. Nhưng chú đã ở lại.
Martin không sống ngay trung tâm Bờ Đê. Chú sống ở cuối đầm lầy, nơi ta bắt gặp những viên sỏi đầu tiên của bờ biển. Đó là nơi mà chú dựng lều của mình, một mình trên mảnh đất ấy, cái mảnh đất mà trước đây chẳng ai thèm đoái hoài tới, vì nằm quá xa con lộ chính và những trạm nước ngọt. Nhà của chú quả thực là ngôi nhà cuối cùng của thị trấn.
Martin tự mình dựng nhà, chẳng cần ai giúp đỡ, và theo Alia nghĩ thì đó cũng là ngôi nhà thú vị nhất vùng này, theo cách riêng của nó. Đó là một túp lều tròn, không có một lỗ thông nào ngoài cánh cửa chính thấp bé, mà chính Martin cũng không thể đứng thẳng người mà chui lọt. Mái nhà lợp bằng giấy dầu, như những căn khác, nhưng dưới dạng nắp vung. Khi nhà của Martin hiện ra, từ xa, trong màn sương sớm, hoàn toàn đơn độc giữa khoảng đất rộng lớn, nằm ở lưng chừng đầm lầy và bờ biển, nó dường như to hơn và cao hơn, hệt như một tòa tháp trong các lâu đài.
Đó cũng là cái tên mà Alia gán cho nhà của chú, ngay từ những ngày đầu tiên: lâu đài. Người dân ở đây không thích Martin lắm và có hơi chế giễu chú ấy, như bác quản lý hợp tác xã chẳng hạn, họ cứ bảo nhà chú trông như một ổ chó, nhưng là vì họ ganh tị đấy thôi. Cái đó mới thật là lạ, bởi vì Martin rất nghèo, nghèo hơn bất kỳ ai trong thị trấn này, nhưng ngôi nhà vắng cửa sổ ấy mang vẻ huyền bí nào đó, gần như là uy nghi, khiến những người chung quanh không tài nào hiểu nổi, trông nó thậm chí còn có phần đe dọa.
Martin sống một mình ở đó, xa cách. Quanh nhà luôn luôn im ắng, nhất là khi đêm về, một sự im ắng khiến mọi thứ trở nên xa xăm và huyền ảo. Khi nắng chiếu trên thung lũng đầy bụi mù và trên đầm lầy, Martin ngồi trên một thùng gỗ, trước cửa nhà. Người ta không thường đi về phía ấy, có lẽ vì sự im ắng thực sự đe dọa họ, hay có lẽ vì họ không muốn quấy rầy Martin. Thỉnh thoảng, vào buổi sáng, hoặc khi trời vừa về đêm, có vài phụ nữ đi tìm cây khô, và những đứa trẻ trở về từ trường học. Martin rất thích lũ trẻ. Chú trò chuyện với chúng thật dịu dàng, và chúng là những người duy nhất mà chú thực sự cười tươi. Lúc ấy, đôi mắt của chú đẹp tuyệt vời, sáng như mặt gương mài từ đá, chan chứa một thứ ánh sáng trong vắt mà Alia chưa nhìn thấy bao giờ. Mấy đứa trẻ cũng rất mến chú, vì chú biết kể chuyện và còn đặt nhiều câu đố. Thời gian còn lại, Martin không thực sự làm gì, nhưng chú biết sửa những món đồ be bé: bánh xe đồng hồ, đài phát thanh, hay mấy trục pit-tông trong bếp dầu. Chú làm thế, chẳng vì mục đích gì, chú không muốn động đến tiền bạc.
Thế là, từ khi chú đến đây, mỗi ngày người ta đều sai lũ trẻ đem ít thức ăn đến cho chú, bày trong dĩa, nào là khoai tây, cá mòi, cơm trắng, bánh mì, hay một ít cà phê nóng đựng trong ly. Vài người phụ nữ thỉnh thoảng cùng đến đây đem thức ăn cho chú, và Martin nói vài lời để cảm ơn. Rồi chú trả dĩa lại cho những đứa trẻ, sau khi ăn xong. Chú thích người ta trả công cho mình bằng cách ấy.
Alia rất thích sang thăm Martin, để nghe chú kể chuyện và ngắm màu mắt của chú. Nó lấy một mẩu bánh mì trong kho trữ lương thực, và băng ngang Bờ Đê, đến lâu đài của Martin. Khi đến nơi, nó thấy người đàn ông đang ngồi trên thùng gỗ trước nhà và loay hoay sửa một cây đèn dầu. Nó bèn ngồi xuống đất, trước mặt Martin, và nhìn chú.
Đây là lần đầu nó đem bánh mì cho Martin. Chú nhìn nó với đôi mắt lấp lánh ánh sáng và nói:
“Xin chào con, mặt trăng.”
“Sao chú lại gọi con là mặt trăng?” Alia hỏi.
Martin cười với nó, và đôi mắt chú còn lấp lánh hơn nữa.
“Bởi vì đó là một cái tên mà ta rất thích. Con không muốn ta gọi là mặt trăng sao?”
“Con không biết. Con chưa bao giờ nghĩ rằng đó là một cái tên.”
“Đó là một cái tên rất dễ thương”, Martin nói. Con có bao giờ ngắm trăng khi bầu trời thật trong và đen chưa, vào những đêm thật lạnh? Trăng khi đó rất tròn lại dịu dàng, và ta thấy con cũng như thế.”
Và kể từ ngày hôm đó, Martin luôn gọi nó là mặt trăng, mặt trăng bé nhỏ. Và chú đặt cho mỗi đứa trẻ một cái tên khi chúng đến thăm mình, khi thì là tên của một loài cây, khi là hoa quả hay một con thú, khiến chúng cười vang. Martin không nói gì về mình, và không ai dám hỏi chú. Về căn bản, mọi thứ diễn ra như thể chú đã luôn sống ở đây từ trước đến nay, tại Bờ Đê này, trước tất cả những người khác, trước cả khi người ta làm đường, xây cầu và bãi đáp cho máy bay. Hẳn là chú biết rất nhiều thứ mà những người ở đây không ai biết, những thứ xa xưa và đẹp đẽ mà chú cất giữ trong lòng, những thứ đã thắp sáng đôi mắt chú.
Đó mới là điều lạ lùng nhất, vì chú không có gì cả, thậm chí chú còn không có bàn ghế hay giường ngủ. Trong nhà Martin, chẳng có gì khác ngoài một tấm chiếu để ngủ dưới đất và một hũ nước đặt trên thùng gỗ. Alia cũng không hiểu vì sao, nhưng nó cảm giác như thể đó là mong muốn của chú, như thể chú không muốn giữ lại bất cứ điều gì. Lạ lùng thay, bởi có chút gì như ánh sáng trong vắt luôn lấp lánh trong mắt chú, như một vũng nước luôn trong trẻo và đẹp hơn bao giờ hết khi không chứa gì dưới đáy.
Vừa xong việc là Alia ra khỏi nhà dì, ôm một mẩu bánh mì dưới lớp áo, và nó đến ngồi trước mặt Martin. Nó cũng thích nhìn hai bàn tay của chú, khi chú đang sửa chữa các vật dụng. Chú có đôi bàn tay to và đen vì nắng các móng tay đều cùn, như bàn tay những người thợ hồ và thợ làm đường, nhưng nhẹ nhàng và khéo léo hơn, biết thắt nút với những sợi dây bé tí và vặn những con ốc mà ta gần như không thể thấy được. Hai bàn tay làm việc cho chú, mà không cần chú phải bận tâm, phải ngó ngàng tới vì hai mắt chú bận nhìn vào một nơi xa xăm nào đó, như thể chú đang nghĩ về một thứ khác.
— Chú đang nghĩ gì vậy? – Alia hỏi.
Người đàn ông nhìn nó, mỉm cười.
— Tại sao con lại hỏi chú như thế, mặt trăng bé nhỏ? Còn con thì sao, con đang nghĩ gì?
Alia ngẫm nghĩ một lúc, trông rất tập trung.
— Con đang nghĩ nơi đó hẳn là đẹp lắm, nơi mà chú từng ở trước đây.
— Sao con lại nghĩ vậy?
— Bởi vì…
Không tìm được câu trả lời, mặt cô bé ửng đỏ.
— Đúng vậy – Rồi Martin nói – Nơi đó rất đẹp.
— Bởi vì ở đây chẳng có gì cả, thứ gì cũng bẩn thỉu, ta phải đi lấy nước ở trạm máy bơm, lại còn có muỗi và lũ chuột cống, và tất cả mọi người đều thật là nghèo.
— Chú cũng nghèo đấy thôi – Martin nói – Nhưng chú không cho rằng đó là lý do để ta buồn phiền.
Alia lại suy nghĩ.
— Nếu nơi đó đẹp như vậy, nơi mà chú từng ở ấy… Vậy tại sao chú lại ra đi, sao chú lại đến đây, nơi mọi thứ đều hết sức… hết sức bẩn thỉu và xấu xí này?
Martin nhìn nó chăm chú, còn Alia thì tìm trong ánh sáng của đôi mắt ấy toàn bộ vẻ đẹp mà người đàn ông đã ngắm nhìn trước đây, một xứ sở rộng lớn được phản chiếu óng ánh và sâu thẳm trong màu mắt của chú, đến giờ hãy còn sống động. Giọng nói của Martin trở nên dịu dàng hơn, như những lúc chú kể chuyện cho lũ trẻ.
— Vậy con có hạnh phúc không, mặt trăng bé nhỏ, khi con được ăn no, được ăn tất cả những món mà con thích nhất, khi biết rằng bên cạnh con có một gia đình đã hai ngày rồi chưa được ăn?
Alia lắc đầu.
— Con có hạnh phúc không, nếu con đang ngắm biển cả, đất trời và hoa lá, lại còn được nghe tiếng chim hót, khi con biết rằng gần đó có một đứa trẻ đang bị nhốt một cách vô cớ, rằng đứa trẻ ấy không được như con, có thể nghe, nhìn và cảm nhận mọi thứ chung quanh?
— Không đời nào – Alia nói – Trước tiên con sẽ đến đó và mở cửa ra, và đứa trẻ ấy có thể ra ngoài.
Trong lúc nói câu ấy, Alia nhận ra mình đã tìm được lời giải đáp cho câu hỏi của mình. Martin lại nhìn nó, mỉm cười, rồi chú tiếp tục sửa món đồ đang dở dang, với một chút lơ đãng, chẳng thèm nhìn xuống hai bàn tay đang cử động của mình.
Alia không chắc câu trả lời có hoàn toàn thuyết phục không. Nó lại nói:
— Dù sao thì, nơi đó chắc phải đẹp lắm, nhà của chú ấy.
Khi đã xong công việc của mình, Martin đứng dậy và nhấc Alia lên bằng hai tay, rồi từ từ đưa nó đến mũi đất trước đầm lầy.
— Con nhìn xem – Bấy giờ chú mới nói, chỉ lên bầu trời, rồi tới nền đất phẳng và cửa sông mở ra biển cả – Đó, đó chính là nơi ta đã ở, tất cả chốn này.
— Tất cả ư?
— Phải, tất cả, tất cả những gì con đang thấy.
Alia đứng im lặng một hồi lâu, bất động, để ngắm tất cả những gì mà nó có thể nhìn thấy, đến khi hai mắt bắt đầu mệt mỏi. Nó nhìn kỹ như thể bầu trời cuối cùng rồi sẽ mở ra, bày ra trước mắt nó tất cả cung điện và lâu đài, tất cả những khu vườn đầy hoa, trái và chim chóc ấy. Nó chỉ thôi không nhìn nữa khi bắt đầu cảm thấy choáng váng.
Khi nó quay lại, Martin đã đi khỏi đây. Chiếc bóng cao và gầy đi giữa những túp lều, hướng về phía bên kia thị trấn.
Kể từ ngày hôm đó, Alia bắt đầu ngắm bầu trời, ngắm thực sự, như thể trước giờ nó chưa bao giờ được ngắm bầu trời. Những lúc làm việc trong nhà dì, chốc chốc con bé lại chạy ra ngoài chỉ để ngửa mặt lên trời. Khi trở vào, có cái gì đó vẫn rung rinh trong mắt và cơ thể của nó. Nó va phải vài thứ, bởi các võng mạc đã bị lóa.
Khi những đứa trẻ khác biết Martin từ đâu đến, chúng ngạc nhiên vô cùng. Thế là từ dạo đó, có rất nhiều đứa trẻ ở đây trong Bờ Đê này, vừa đi vừa ngửa mặt lên cao để ngắm bầu trời, và không ngừng va phải cột, và người ta cứ tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với chúng. Chắc người ta đã nghĩ rằng đó là một trò nghịch ngợm mà chúng vừa bày ra.
Thỉnh thoảng, chẳng ai hiểu vì sao mà Martin không ăn uống gì cả. Những đứa trẻ đem thức ăn tới cho chú, như mọi hôm, và chú từ chối một cách nhã nhặn, chú nói:
— Không, cảm ơn con, không phải hôm nay.
Thậm chí ngay cả Alia, khi Alia tới, với mẩu bánh mì ôm chặt trong áo, chú cười tử tế và lắc đầu. Alia không hiểu tại sao người đàn ông này từ chối thức ăn, bởi vì, quanh nhà chú, dưới mặt đất và trên bầu trời, mọi thứ đều diễn ra như bình thường. Nắng chiếu trên bầu trời xanh, có một hai đám mây trắng, thỉnh thoảng một chiếc máy bay phản lực đáp xuống rồi lại bay lên. Trên những con lộ nhỏ của Bờ Đê, lũ trẻ chơi đùa và hò hét, những người phụ nữ cất tiếng gọi chúng, và sai bảo chúng bằng đủ thứ ngôn ngữ. Alia chẳng thấy có gì thay đổi. Nhưng nó vẫn ngồi trước mặt Martin, với hai hoặc ba đứa trẻ khác, và chúng chờ chú lên tiếng.
Martin không còn như mọi hôm. Khi Martin không ăn, gương mặt chú trông già hơn, và đôi mắt của chú – sáng bất thường, mang dáng vẻ lo lắng của những người đang sốt. Chú nhìn xa xăm, phía trên đầu lũ trẻ ánh mắt chú dường như vượt qua khỏi mảnh đất trước mặt, qua khỏi đầm lầy, đến tận bên kia bờ sông và những ngọn đồi, xa đến độ phải mất nhiều tháng trời để đi đến đó.
Những ngày này, chú hầu như không nói năng gì và Alia cũng thôi không đặt câu hỏi cho chú. Người ta đến như mọi khi, nhờ chú dán một đôi giày, chỉnh lại quả lắc hay chỉ đơn giản là viết một lá thư. Nhưng Martin hầu như không trả lời, chú lắc đầu và nói rất khẽ, môi gần như không nhúc nhích:
— Không phải hôm nay, không phải hôm nay…
Alia đã hiểu ra, nó biết những ngày này chú không ở đây, rằng chú đang ở một nơi rất xa, kể cả khi cơ thể chú đang bất động, nằm yên trên tấm chiếu giữa nhà. Có lẽ chú đã về quê hương của mình, nơi mọi thứ đều đẹp đẽ, nơi mà mỗi người đều là hoàng tử và công chúa, xứ sở mà chú đã chỉ cho lũ trẻ lối vào trên bầu trời xanh.
Mỗi ngày, Alia lại đến với một mẩu bánh mới, chờ chú trở lại. Đôi khi nó phải chờ rất lâu, những lúc ấy nó hơi hoảng sợ khi nhìn gương mặt chú hõm sâu và biến thành màu xám, như thể ánh sáng đã ngừng cháy và chú chỉ còn là tro bụi. Rồi, một buổi sáng nọ, chú trở về, yếu đến nỗi hầu như không thể bước từ chỗ nằm của mình ra khoảng đất rộng trước nhà. Khi thấy Alia – cuối cùng thì chú cũng nhìn nó – chú mỉm cười yếu ớt, đôi mắt mờ căm vì mệt mỏi.
— Chú khát – Chú nói thật chậm, giọng khàn đục.
Alia đặt mẩu bánh mì xuống đất và chạy băng qua thị trấn để tìm một xô nước. Khi nó quay lại, không thở ra hơi, Martin từ từ uống nước. Chú uống ngay trong xô. Rồi chú lau mặt và hai tay, ngồi lên thùng gỗ, dưới ánh nắng và bắt đầu ăn mẩu bánh mì của Alia. Chú đi vài bước quanh nhà, đưa mắt nhìn khắp nơi. Ánh mặt trời sưởi ấm gương mặt và hai tay của chú và đôi mắt chú lại bừng sáng.
Alia ngắm nhìn người đàn ông một cách háo hức. Nó đánh bạo, hỏi:
— Trông nó như thế nào?
Có vẻ như chú không hiểu con bé nói gì.
— Cái gì trông như thế nào?
— Trông như thế nào, nơi mà chú vừa đến ấy?
Martin không trả lời. Có thể chú chẳng còn nhớ gì, như thể chú chỉ đơn giản là trải qua một giấc mộng. Chú lại bắt đầu sống và nói chuyện như trước đây, ngồi dưới ánh nắng ấm áp trước cửa nhà, sửa máy móc hư hỏng, hay lang thang trên những con phố nhỏ trong Bờ Đê và chào người qua kẻ lại.
Sau này, Alia mới hỏi:
— Vì sao thỉnh thoảng chú lại không ăn gì?
— Vì chú phải tuyệt thực – Martin nói.
Alia bắt đầu suy nghĩ.
— Tuyệt thực nghĩa là gì?
Rồi nó liền nói thêm:
— Có giống như khi ta đi chơi không?
Nhưng Martin cười lớn:
— Ý nghĩ ngộ nghĩnh làm sao! Không đâu, tuyệt thực tức là khi ta không muốn ăn gì cả.
Làm thế nào mà người ta lại không muốn ăn gì? Alia nghĩ. Chưa ai nói với nó điều gì lạ lùng như vậy. Dù không muốn, nhưng nó nghĩ tới tất cả những đứa trẻ sống tại Bờ Đê này, cả ngày tìm kiếm thứ gì để ăn, kể cả khi chúng không đói. Nó nghĩ tới những tên trộm đầy rẫy trong các cửa hàng, gần sân bay, hay những kẻ cắp trứng và trái cây trong các khu vườn lân cận.
Martin trả lời ngay sau đó, như thể chú đọc được suy nghĩ của Alia.
— Đã bao giờ con thật khát chưa, có hôm nào như thế không?
— Có ạ – Alia nói.
— Khi con đang thật khát, con có muốn ăn không?
Nó lắc đầu.
— Không, phải không? Lúc đó con chỉ thèm uống nước, rất thèm. Con cảm giác như mình có thể uống cạn nước trong giếng, nhưng ngay lúc đó, nếu người ta đưa một đĩa thức ăn lớn cho con, con sẽ từ chối, bởi vì nước mới là thứ mà con đang cần.
Martin ngừng nói một lúc. Chú mỉm cười.
— Và tương tự như vậy, khi con rất đói, con sẽ không muốn người ta cho con một ao nước. Con sẽ nói, không, không phải bây giờ, con muốn ăn trước, ăn tới chừng nào con còn ăn được, rồi sau đó, nếu còn một chỗ trống nho nhỏ trong bụng, con sẽ uống.
— Nhưng chú không ăn cũng không uống! – Alia kêu lên.
— Đó chính là điều ta đang muốn nói với con, mặt trăng bé nhỏ ạ – Martin nói – Khi người ta tuyệt thực, đó là khi họ không muốn thức ăn và cả thức uống, bởi vì khi đó họ đang khao khát một thứ khác, một thứ còn quan trọng hơn việc ăn uống.
— Vậy người ta muốn gì? – Alia hỏi.
— Thượng đế – Martin đáp.
Chú trả lời, đơn giản như thể đó là điều hiển nhiên, và Alia không dám đặt thêm câu hỏi nào nữa. Đó là lần đầu tiên Martin nói về Thượng đế, khiến con bé hơi sợ, mà cũng không hẳn là như thế, nhưng điều đó thình lình đẩy nó ra xa, rất xa, như thể toàn bộ Bờ Đê rộng lớn với những túp lều lợp ván và đầm lầy bên bờ sông tách nó ra khỏi Martin.
Có vẻ như người đàn ông không nhận ra điều đó. Bấy giờ, chú đứng dậy, đưa mắt nhìn đầm lầy nơi những hàng lau đang đung đưa. Chú lùa tay trong mái tóc của Alia, rồi đi chầm chậm trên con đường bắc ngang thị trấn, trong lúc những đứa trẻ chạy đến hò hét mừng chú trở về.
Vào giai đoạn đó, Martin đã bắt đầu những bài học của mình, nhưng không ai hay biết. Thực ra, đó không hẳn là những bài học, ý tôi là những bài học của một giáo sĩ hay một giảng viên, vì chuyện đó diễn ra không theo một nghi thức nào, và người ta học mà không biết là mình đang học. Lũ trẻ đã quen với việc lui tới lâu đài của chú Martin, ở cuối Bờ Đê, và chúng ngồi bệt dưới đất để trò chuyện và chơi đùa, hoặc để nghe chú kể chuyện. Còn Martin, chú vẫn ngồi đó, không rời khỏi thùng gỗ của mình, tiếp tục sửa những món đồ còn dở dang, một cái chảo, một van nồi áp suất, hay một ổ khóa, và thế là bài học bắt đầu. Thường thì những đứa nhỏ sẽ đến đây, sau bữa cơm trưa, hay sau khi tan trường. Nhưng đôi khi cũng có đàn ông và phụ nữ, khi công việc đã hoàn tất, và trời nóng bức đến nỗi không thể chợp mắt. Lũ trẻ thường ngồi phía trước, ngay bên cạnh Martin, và đó cũng là nơi mà Alia thích ngồi nhất. Chúng rất ồn ào, không ngồi yên một chỗ quá lâu, nhưng Martin rất vui khi gặp chúng. Chú trò chuyện với chúng, chú hỏi chúng đã làm gì và chúng đã thấy gì, trong Bờ Đê, hay ngoài bãi biển. Có những đứa rất thích nói, chúng có thể ngồi kể lể liên tục hàng giờ. Có những đứa lặng lẽ hơn, luôn che mặt khi Martin nói chuyện với chúng.
Sau đó, Martin kể một câu chuyện. Lũ trẻ rất thích nghe kể chuyện, vì thế mà chúng đến đây. Khi Martin bắt đầu câu chuyện, ngay cả những đứa hiếu động nhất cũng ngồi xuống và thôi không nói nữa.
Martin biết rất nhiều chuyện, những câu chuyện dài và hơi lạ lùng, xảy ra trong những vùng đất xa lạ mà chú chắc hẳn đã đi qua trước đây.
Có câu chuyện về những đứa trẻ kéo nhau xuống dòng sông, trên một chiếc bè kết bằng lau sậy, và cứ trôi đi như thế qua những vương quốc kỳ diệu, những khu rừng những ngọn núi, những thành phố bí ẩn và ra tới ngoài khơi. Có câu chuyện về người đàn ông đã khám phá ra một giếng nước dẫn xuống lòng đất, nơi trị vì của Hỏa quốc. Có câu chuyện về người thương gia nọ, những tưởng có thể làm giàu bằng cách bán tuyết, lão bèn lên núi gánh tuyết xuống, nhưng khi đến dưới chân núi, lão chẳng còn gì ngoài một xô nước. Có câu chuyện về cậu bé tìm đến lâu đài của nàng công chúa mộng mị, người đã gieo những giấc mơ và những cơn ác mộng đi khắp nơi trên thế giới, câu chuyện của gã khổng lồ đào núi, của đứa bé đánh bạn với bầy cá heo, câu chuyện về thuyền trưởng Tecum đã cứu mạng một chú hải âu, và con chim đền ơn bằng cách dạy ông biết bay. Chúng đều là những câu chuyện hay, có vài lần, lũ trẻ nghe say sưa đến mức chìm vào giấc ngủ trước khi chú kể tới đoạn kết. Martin kể chuyện rất dịu dàng, vừa kể vừa làm vài động tác thỉnh thoảng dừng lại để chúng đặt câu hỏi. Khi chú nói ánh mắt chú lại rực sáng, dường như chú cũng rất thích kể chuyện cho chúng nghe.
Trong tất cả những câu chuyện mà Martin kể, lũ trẻ thích nhất câu chuyện về xứ Hazaran. Chúng không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng tất cả chúng nó đều nín thở hồi hộp khi câu chuyện bắt đầu.
Trước tiên, có một cô gái nhỏ, tên là Cỏ Ba Lá. Đó là một cái tên buồn cười mà người ta đặt cho cô, có lẽ vì cô có một vết bớt trông như Cỏ Ba Lá ngay trên má, gần vành tai trái. Cô rất nghèo, rất rất nghèo, nghèo đến độ cô chẳng có gì khác để ăn ngoài một ít bánh mì và hoa quả mà cô hái từ những bụi cây. Cô sống một mình trong một túp lều của những người chăn cừu, lạc lõng giữa đất đá và những dòng nước, mà không có ai chăm sóc. Nhưng những con thú nhỏ sống trong cánh đồng, khi thấy cô thật cô độc và buồn bã, chúng đến làm bạn với cô. Chúng thường đến thăm cô vào buổi sớm mai hoặc khi đêm về, và chúng trò chuyện để giải sầu cho cô bé, chúng ngồi thành một vòng tròn quanh cô và kể chuyện cho cô nghe, vì Cỏ Ba Lá hiểu được tiếng của chúng. Có một chú kiến tên là Zoé, một chú tắc kè tên là Zoot, một chú mòng biển tên là Pipit, một nàng chuồn chuồn tên là Zelle, và còn biết bao là bướm, bướm vàng, bướm đỏ, bướm nâu, bướm xanh. Lại có anh bọ hung thông thái tên là Kepr, và một chị cào cào màu xanh cao lớn thích phơi nắng trên những phiến lá. Cỏ Ba Lá bé nhỏ rất tử tế với chúng, vì thế mà chúng cũng rất mến cô. Một ngày nọ, khi Cỏ Ba Lá còn buồn bã hơn mọi khi, vì cô không có gì để ăn, chị cào cào xanh gọi cô. Em có muốn thay đổi cuộc sống của mình bây giờ không? Chị vừa hỏi vừa huýt sáo. Làm thế nào mà em có thể thay đổi đời mình? Cô bé thắc mắc. Em còn không có gì để ăn, và em chỉ có một mình. Em sẽ làm được nếu như em muốn. Chị cào cào bảo. Chỉ cần em tới xứ Hazaran. Xứ gì cơ? Cỏ Ba Lá hỏi. Em chưa nghe ai nhắc tới nơi này bao giờ. Để vào đó, em phải trả lời được các câu hỏi mà người gác cổng Hazaran đặt ra. Nhưng trước hết, em phải thật giỏi, thật là giỏi, để có thể trả lời. Thế là Cỏ Ba Lá đi tìm bọ hung Kepr, anh sống trên một nhánh hoa hồng, và cô bé nói: Kepr ơi, hãy dạy cho em những gì mà em cần biết, vì em sẽ tới xứ Hazaran. Anh bọ hung và chị cào cào xanh dạy cho cô gái nhỏ tất cả những gì mà chúng biết, trong một khoảng thời gian dài. Chúng chỉ cho cô cách dự đoán thời tiết, hay những gì người ta nghĩ thầm trong bụng, hay những cách hạ sốt và chữa bệnh. Chúng bảo cô đến hỏi chú bọ ngựa làm thế nào để dự đoán đứa trẻ sắp ra đời là trai hay gái, vì bọ ngựa biết được chuyện đó, và chú sẽ trả lời bằng cách giơ cả hai càng, nếu đó là con trai, và hạ càng xuống nếu là con gái. Cỏ Ba Lá bé nhỏ học tất cả những điều đó, và còn nhiều điều khác nữa, những bí mật và những điều huyền bí. Một ngày nọ, khi anh bọ hung và chị cào cào to lớn đã dạy hết những gì chúng biết, một người đàn ông đi vào làng, ông khoác trên người một bộ đồ sang trọng, trông chẳng khác nào một vị hoàng tử hay một sứ thần. Người đàn ông đi vào làng và nói: tôi muốn tìm một người. Nhưng người trong làng không ai hiểu chuyện gì đang diễn ra. Lúc này, Cỏ Ba Lá bước tới người đàn ông và nói: tôi là người mà ông cần tìm đây, tôi muốn tới xứ Hazaran. Người đàn ông thoáng ngạc nhiên, vì Cỏ Ba Lá bé nhỏ rất nghèo và trông như một kẻ dốt nát. Cô có biết trả lời những câu hỏi không? Vị sứ thần hỏi. Nếu cô không trả lời được, cô sẽ mãi mãi không thể tới Hazaran. Tôi sẽ trả lời, Cỏ Ba Lá bảo. Nhưng cô bé có hơi lo lắng, không chắc mình có trả lời được không. Nếu cô biết câu trả lời, cô sẽ là công chúa xứ Hazaran. Và đây là những câu hỏi, gồm có ba câu.
Martin nghỉ một chút, và lũ trẻ chờ đợi.
Đây là câu thứ nhất, vị sứ thần nói. Trong một buổi tiệc, cha tôi đem ra ba món rất ngon. Món nào tay tôi có thể cầm, thì miệng tôi không thể ăn. Món nào tay tôi có thể cầm, tay tôi không thể giữ. Món nào miệng tôi có thể ăn, miệng tôi không thể giữ. Cô gái nhỏ suy nghĩ, đoạn cô nói: tôi có thể trả lời câu hỏi này. Vị sứ thần nhìn cô kinh ngạc, vì trước giờ chưa ai giải được. Đây là câu đố thứ hai, vị sứ thần tiếp tục. Cha tôi mời tôi đến thăm bốn căn nhà của ông. Căn thứ nhất ở phía bắc, nghèo nát và buồn chán. Căn thứ hai ở phía đông, ngập tràn hoa lá. Căn thứ ba ở phía nam, là căn đẹp nhất. Căn thứ tư ở phía tây, khi tôi đi vào, tôi nhận được một món quà, nhưng tôi còn nghèo hơn trước đó. Tôi có thể trả lời câu hỏi này. Cỏ Ba Lá lại nói. Vị sứ thần còn ngạc nhiên hơn nữa, vì cũng chưa một ai trả lời được câu hỏi này. Đây là câu thứ ba, vị sứ thần nói. Khuôn mặt cha tôi rất đẹp, nhưng tôi không thể thấy. Kẻ hầu của tôi lại nhảy múa cho ông xem mỗi ngày. Mẹ tôi còn đẹp hơn nữa, mái tóc bà đen tuyền, mặt bà trắng như tuyết. Bà mang trên người nhiều trang sức và luôn trông chừng tôi khi tôi ngủ. Cỏ Ba Lá lại suy nghĩ, rồi cô bé ra hiệu mình sẽ giải thích các câu đố. Đây là câu trả lời đầu tiên, nó nói: bữa tiệc mà tôi được mời tới là thế giới nơi tôi sinh ra. Ba món ăn tuyệt vời mà cha tôi đã cho tôi là đất, nước và không khí. Tay tôi có thể cầm đất, nhưng tôi không thể ăn. Tay tôi có thể cầm nước nhưng không thể giữ lại. Miệng tôi có thể ăn không khí nhưng tôi phải trả lại khi thở ra.
Martin lại dừng một chút, và mấy đứa trẻ bắt đầu thò tay vốc một nắm đất và làm nước chảy giữa những các ngón tay. Chúng thổi không khí trước mặt chúng.
Đây là câu trả lời cho câu hỏi thứ hai: bốn căn nhà mà cha tôi mời tôi đến thăm là bốn mùa trong năm. Căn thứ nhất ở phía bắc, căn buồn bã và nghèo nàn nhất, là căn nhà mùa đông. Căn ở phía đông, nơi có rất nhiều hoa lá, là căn nhà mùa xuân. Căn ở phía nam, và là căn đẹp nhất, là căn nhà mùa hạ. Căn ở phía tây là căn nhà mùa thu, khi tôi bước vào, tôi được nhận một năm mới và vì thế mà nghèo hơn, bởi tôi già thêm một tuổi. Vị sứ thần gục gặc đầu ra chiều tán đồng, ngạc nhiên trước kiến thức rộng lớn của cô gái nhỏ. Câu trả lời cuối cùng đơn giản thôi, Cỏ Ba Lá nói. Người mà tôi gọi là cha là mặt trời, tôi không thể trực tiếp nhìn ông. Kẻ hầu cận nhảy múa cho ông xem là chiếc bóng của tôi. Người mà tôi gọi là mẹ chẳng ai khác ngoài đêm với mái tóc đen tuyền của mình và gương mặt sáng ngời của bà chính là mặt trăng. Những trang sức bà mang trên người là những vì sao lấp lánh. Đó chính là ý nghĩa của những câu đố. Khi vị sứ thần nghe xong những câu trả lời của Cỏ Ba Lá, ông ra lệnh cho đàn chim trên trời đưa cô gái trẻ bay tới xứ Hazaran. Đó là một xứ sở rất xa, rất xa, xa đến mức đàn chim bay trong nhiều ngày và nhiều đêm liền, nhưng khi Cỏ Ba Lá đến nơi, cô thật sự kinh ngạc, vì trước giờ cô không thể tưởng tượng ra thứ gì đẹp hơn như thế, kể cả trong những giấc mơ của mình.
Đến đây Martin lại ngừng một chút, và lũ trẻ háo hức nói: Như thế nào? Xứ Hazaran trông như thế nào?
Thì ở đấy, mọi thứ đều lớn và đẹp đẽ hơn, có những khu vườn rợp hoa và bướm, có những dòng sông trong vắt mà ta có thể nhầm là bạc, những cây cao rất cao mọc đủ loại hoa quả. Đó là nơi sinh sống của chim chóc, tất cả mọi loài chim trên thế giới. Chúng chuyển từ cành cây này sang cành cây khác, lúc nào chúng cũng líu lo, và khi Cỏ Ba Lá tới, chúng vây quanh cô bé để chào đón cô, khoác những bộ cánh kết từ lông vũ sặc sỡ, và lại múa trước mặt cô, vì chúng rất hạnh phúc khi có được một nàng công chúa như thế. Rồi đàn chim sáo bay đến, trông như những sứ thần của vua các loài chim, và chúng dẫn cô đến cung điện Hazaran. Vua xứ Hazaran là một con họa mi có giọng hát hay đến độ, khi ngài cất tiếng, tất cả đều dừng nói và lắng nghe. Bấy giờ, Cỏ Ba La sống trong cung điện của đức vua, và vì cô có thể nói ngôn ngữ của mọi loài, cô cũng bắt đầu tập hát, để trả lời ngài. Vậy là, cô bé ở lại xứ Hazaran, có lẽ bây giờ cô vẫn còn sống, và mỗi khi muốn xuống thăm mặt đất, cô hóa thành chim sẻ ngô, và bay đến thăm những người bạn của mình vẫn còn ở đây. Rồi cô lại quay về nhà, trong khu vườn rộng lớn mà cô đã trở thành một nàng công chúa.
Khi câu chuyện kết thúc, lũ trẻ nối đuôi nhau ra về, chúng quay về nhà mình. Alia luôn là đứa sau cùng còn nán lại trước nhà Martin. Nó chỉ rời khỏi đây khi Martin đã vào lâu đài và trải chiếu ra để ngủ. Nó đi chầm chậm trên những con đường nhỏ của Bờ Đê, trong lúc những ánh đèn ga lần lượt thắp lên trong những túp lều, và nó không còn buồn nữa. Nó nghĩ đến ngày mà người đàn ông ăn bận như sứ thần có lẽ sẽ đến, và nhìn quanh, cất tiếng:
— Tôi đến tìm một người.
Chính vào khoảng thời gian này, chính phủ bắt đầu lui tới nơi đây, tới Bờ Đê Xứ Pháp. Đó là những người kỳ lạ, mỗi tuần lại đến một hai lần, trong những chiếc xe hơi màu đen hay những chiếc xe tải nhỏ cam cam, dừng lại trên con đường lớn, trước lối vào thị trấn một đoạn; họ làm mọi thứ mà không rõ vì lý do gì, như đo chiều rộng của những con phố và khoảng cách giữa những căn nhà, bỏ một ít đất trong những hộp sắt, một ít nước trong những tuýp thủy tinh, và một ít không khí vào một thứ gì đó trông như là những quả bóng nhỏ màu vàng. Họ cũng đặt rất nhiều câu hỏi, với tất cả những người mà họ gặp đặc biệt là đàn ông, vì những người phụ nữ ở đây không hiểu họ nói gì mấy và, đằng nào đi nữa, cũng không dám trả lời.
Alia dừng lại trong lúc gánh nước, nhìn họ đi qua, nhưng nó biết họ không đến để tìm một người. Họ không đến đặt cho ta những câu hỏi để đưa ta đến xứ Hazaran. Mặt khác, họ không quan tâm đến bọn trẻ con, và không bao giờ hỏi chúng điều gì. Đó là những người đàn ông nét mặt nghiêm nghị, khoác com-lê xám và mang những chiếc va-li nhỏ bọc da, và một nhóm sinh viên, các chàng trai và các cô gái bận những chiếc áo thun dày cộm và trùm thêm một lớp áo gió. Những người này mới là kỳ lạ nhất, vì họ cứ hỏi những điều mà ai cũng biết, về thời tiết chẳng hạn, hay về những gia đình sinh sống ở đây, nhưng cái chính là người ta không thể hiểu nổi tại sao họ lại hỏi như vậy. Họ ghi lại những câu trả lời trong một quyển sổ như thể điều đó là rất quan trọng, và còn chụp rất nhiều hình về những ngôi nhà lợp ván như thể chúng rất đáng giá. Họ chụp cả bên trong từng căn nhà, nơi có treo một bóng đèn nhỏ sáng hơn ánh mặt trời.
Phải một thời gian sau người ta mới hiểu, khi người ta biết rằng các quý ông và sinh viên của chính phủ đến để đưa tất cả đi, thị trấn và những người dân ở đây, sang một nơi khác. Chính phủ quyết định rằng Bờ Đê không được tiếp tục tồn tại, vì nó nằm quá gần đường lớn và đường băng mà cũng có lẽ vì họ đang cần thêm đất để xây văn phòng và những tòa nhà lớn. Người ta biết điều đó vì họ phát cho mỗi gia đình vài tờ giấy, trong đó bảo rằng tất cả phải rời khỏi đây, và rằng thị trấn sẽ bị san bằng bởi những cỗ máy và xe tải. Lúc này các cô cậu sinh viên của chính phủ cho người ta xem bản vẽ thành phố mới mà họ sẽ xây dựng, ở khu vực thượng lưu. Những bức vẽ đó cũng kỳ lạ không kém, với những ngôi nhà chẳng có gì giống những thứ mà chúng tôi từng biết, những ngôi nhà bằng phẳng với những ô cửa giống hệt nhau, trông như những lỗ gạch ngói. Giữa mỗi căn nhà có một sân lớn và vài cây xanh, và mấy con đường thẳng tắp như đường ray xe lửa. Các cô cậu sinh viên gọi đó là Thành Phố Tương Lai, và khi họ nhắc tới chuyện đó với người dân nơi đây, trông họ rất hài lòng, mắt sáng long lanh và tay không ngừng vung vẩy. Phải chăng vì họ đã vẽ những bức tranh ấy.
Khi chính phủ quyết định sẽ phá hủy Bờ Đê, và không ai được ở lại, họ cần được sự đồng ý của người phụ trách. Nhưng làm gì có ai phụ trách Bờ Đê; người ta cứ sống như thế từ bấy lâu nay, vì cho tới lúc này họ chẳng cần ai phụ trách. Chính phủ bèn tìm một ai đó để làm người phụ trách, và bác quản lý hợp tác xã được đề cử. Thế là chính phủ thường xuyên tới nhà bác để nói về Thành Phố Tương Lai, và thỉnh thoảng, họ cho bác ngồi trong chiếc xe hơi màu đen để đưa bác tới văn phòng ký giấy tờ và để mọi thứ đều hợp lệ. Chính phủ lẽ ra nên đến gặp Martin trong lâu đài của chú ấy, nhưng chẳng ai nhắc tới chú vì chú sống quá xa, ở tận cuối Bờ Đê, gần đầm lầy. Dẫu sao đi nữa, chú có lẽ sẽ không muốn ký, và người ta có lẽ sẽ nghĩ rằng chú đã quá già.
Khi Martin biết tin, chú không nói gì, nhưng người ta có thể thấy rằng chú không thích. Chú đã dựng tòa lâu đài của mình tại nơi mà chú thích, và hoàn toàn không muốn sống ở nơi khác, nhất là khi đó là một trong những ngôi nhà của Thành Phố Tương Lai, trông chẳng khác gì một cục gạch.
Sau đó, chú bắt đầu tuyệt thực, nhưng lần này không chỉ kéo dài vài ngày, như trước đây chú thường làm. Đó là một đợt tuyệt thực đáng sợ, kéo dài hàng tuần liền, dường như sẽ không bao giờ kết thúc.
Mỗi ngày, Alia đến trước nhà Martin để mang cho chú bánh mì, và những đứa trẻ khác cũng đến với những đĩa thức ăn, hy vọng Martin sẽ ngồi dậy. Nhưng chú cứ nằm trên chiếu, quay mặt ra cửa, và nước da của chú trở nên nhợt nhạt vô cùng. Đôi mắt tối sầm phát ra một thứ ánh sáng xấu xí, chúng đã mệt mỏi và đau đớn vì phải nhìn liên tục. Tối, chú không ngủ. Chú cứ nằm như thế, không động đậy, nằm dài trên sàn nhà, quay mặt về phía lối vào, ngắm màn đêm tăm tối.
Alia ngồi bên cạnh chú, nó lau mặt cho chú bằng một khăn ướt để chùi sạch lớp bụi mà gió đã để lại trên mặt chú như phủ lên một hòn đá. Chú uống một ít nước trong ao, chỉ vài ngụm cho suốt một ngày dài. Alia nói:
— Chú không muốn ăn gì bây giờ sao? Con có đem bánh mì cho chú.
Martin cố nặn ra một nụ cười, nhưng miệng của chú cũng đã mệt, giờ chú chỉ có thể cười bằng ánh mắt. Alia cảm thấy trái tim mình se lại, vì nó nghĩ Martin không bao lâu nữa sẽ chết.
— Có phải vì chú không muốn rời khỏi đây nên chú không đói không? – Alia hỏi.
Martin không trả lời, nhưng đôi mắt của chú thì có, với thứ ánh sáng mỏi mệt và đau đớn của chúng. Chúng nhìn ra ngoài, qua khung cửa thấp, chúng nhìn mặt đất, hàng lau và bầu trời xanh thẳm.
— Có lẽ chú không nên đến đó ở với bọn con, trong thành phố mới. Có lẽ chú nên quay về đất nước của mình, đất nước tươi đẹp mà mọi người đều là công chúa và hoàng tử.
Bây giờ, các sinh viên của chính phủ tới thưa thớt hơn. Rồi họ hoàn toàn không tới nữa. Alia theo dõi họ suốt, khi đang làm việc trong nhà dì, hay khi đi lấy nước ở các trạm bơm. Nó nhìn xem mấy chiếc xe hơi có đỗ trên đường ngay lối vào thị trấn hay không. Rồi nó chạy thẳng đến lâu đài của Martin.
— Hôm nay họ cũng không đến! – Nó nói không ra hơi
— Họ sẽ không đến đây nữa! Chú nghe thấy không? Hết rồi, họ sẽ không đến nữa, chúng ta sẽ ở lại đây!
Tim nó đập thật nhanh, vì nó nghĩ rằng Martin chỉ cần tuyệt thực là đã có thể đẩy lùi các sinh viên ấy.
— Con chắc chứ? – Martin hỏi. Giọng của chú vang lên rất chậm, và chú hơi nhổm dậy trên tấm chiếu.
— Đã ba ngày nay họ không đến!
— Ba ngày ư?
— Giờ họ sẽ không đến nữa đâu, con chắc chắn như thế!
Nó bẻ một mẩu bánh mì và đưa cho Martin.
— Không, không phải ngay bây giờ – Người đàn ông nói – Chú phải tắm trước.
Chú tựa vào vai Alia để đi ra ngoài, chân bước loạng choạng. Nó dẫn chú tới con sông, băng qua hàng lau. Martin quỳ xuống đất và chầm chậm lau mặt. Rồi, chú cạo râu và chải tóc, từ tốn, nhưng thể chú chỉ vừa mới thức dậy. Sau đó, chú ngồi trên thùng gỗ của mình, dưới ánh mặt trời, và chú ăn bánh mì của Alia. Bấy giờ, mấy đứa trẻ khác cũng lần lượt tới đem thức ăn cho chú, và Martin nhận tất cả những gì được cho và cảm ơn chúng. Khi vừa đủ no, chú quay vào nhà, và lại nằm dài trên chỗ cũ.
— Giờ ta sẽ ngủ một chút – Chú nói.
Nhưng lũ trẻ vẫn ngồi dưới đất quanh cửa ra vào để nhìn chú ngủ.
Trong lúc chú đang ngủ, mấy chiếc xe hơi mới tinh trở lại. Ban đầu chỉ có những người đàn ông khoác com-lê xám và mang những va-li bọc da. Họ đi thẳng tới nhà bác quản lý hợp tác xã. Rồi các sinh viên kéo tới, còn đông hơn lần đầu tiên.
Alia ngồi yên, lưng dựa vào tường, trong lúc họ lướt qua mặt cô bé và đi tới quảng trường có đặt một chiếc máy bơm. Họ tụ tập ở đó và hình như đang chờ đợi điều gì Rồi những người đàn ông áo xám cũng tới đó, và bác quản lý bước nhanh cùng họ. Những ông áo xám nói chuyện với bác, nhưng bác lắc đầu, và cuối cùng, có một người, trong số những người làm việc cho chính phủ, đã thông báo cho tất cả cùng nghe, với một giọng rõ ràng và vang xa. Ông chỉ bảo ngắn gọn rằng mọi người sẽ bắt đầu xuất phát từ tám giờ sáng ngày mai. Các xe tải của chính phủ sẽ đến chở tất cả đến vùng đất mới, nơi rồi thì người ta sẽ xây Thành Phố Tương Lai. Ông còn nói rằng các sinh viên của chính phủ sẽ tình nguyện giúp đỡ dân cư chuyển vật dụng và của cải lên xe.
Alia không dám nhúc nhích, thậm chí sau khi những người đàn ông bận áo xám và các sinh viên đã rời khỏi đây cùng xe của họ. Nó nghĩ tới Martin lúc này chắc chắn sẽ chết, vì chú sẽ không đời nào muốn ăn lại.
Thế là nó bỏ đi, trốn ở nơi xa nhất mà nó tìm được, giữa mấy hàng lau gần dòng sông. Nó ngồi trên những hòn sỏi, và ngắm mặt trời lặn. Ngày mai khi mặt trời lại nằm ở vị trí này, sẽ chẳng còn ai ở đây, tại Bờ Đê này. Những chiếc xe ủi sẽ chạy qua chạy lại khắp thị trấn, húc những căn nhà về phía trước như thể chúng chỉ là những hộp diêm và rồi chỉ còn lại vết bánh xe và vài con sâu trên mặt đất đã bị chà nát.
Alia ngồi bất động thật lâu giữa những cây sậy gần dòng sông. Đêm đã về, một đêm lạnh được ánh trăng tròn và trắng soi sáng. Nhưng Ali không muốn quay về nhà dì. Nó bắt đầu bước giữa những hàng lau, dọc bờ nước, cho tới khi nó đứng trước đầm lầy. Nó đang hình dung dáng vẻ tròn tròn của lâu đài chú Martin, nằm chếch đó một chút. Nó lắng tai nghe bầy cóc kêu ộp oạp và tiếng nước sông chảy đều đều bên kia đầm.
Khi tới trước nhà Martin, nó thấy chú, chú đang đứng thẳng người, bất động. Gương mặt chú được ánh trăng soi sáng, và ánh mắt của chú như nước sông, u ám và rực rỡ. Martin nhìn về hướng đầm lầy, về cửa sông rộng lớn, nơi đống sỏi màu dạ quang bắt đầu trải rộng.
Martin quay lại nhìn nó, ánh mắt tràn trề một thứ uy lực kỳ lạ, như thể chú thực sự tạo ra ánh sáng.
— Ta đang tìm con – Martin chỉ nói.
— Chú sẽ đi ư? – Alia thì thầm.
— Đúng vậy, ta sẽ đi ngay bây giờ.
Chú nhìn Alia như đang đùa với cô bé.
— Con có muốn đi cùng ta không?
Alia bất chợt cảm thấy niềm vui nở ra trong phổi và cổ họng. Nó nói, giọng gần như hét lên:
— Chờ con với! Chờ con với!
Rồi nó chạy thật nhanh, băng qua từng con phố trong thị trấn và gõ tất cả các cánh cửa trong lúc hét to:
— Mọi người ơi, mau đến đây! Hãy đến đây mau! Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ!
Trẻ con và phụ nữ bước ra trước tiên, vì họ đã hiểu chuyện gì đang diễn ra. Rồi những người đàn ông cũng lần lượt kéo tới. Dưới phố, đám đông dân cư Bờ Đê không ngừng tăng. Họ mang theo những gì có thể, dưới ánh đèn điện, nào túi, nào thùng giấy, và một số dụng cụ làm bếp. Đám trẻ con hò hét và chạy qua chạy lại các con phố, lặp đi lặp lại cùng một câu:
— Nào chúng ta cùng đi! Nào chúng ta cùng đi!
Khi tất cả mọi người đến trước nhà Martin, có một khoảnh khắc im lặng, như một chút do dự. Ngay cả bác quản lý hợp tác xã cũng không dám nói gì, bởi lẽ đây là một điều bí ẩn mà tất cả đều cảm nhận được.
Còn chú, Martin, chú đứng bất động trước con đường mở ra giữa những hàng sậy. Rồi, chẳng nói tiếng nào với đám đông đang chờ đợi, chú bắt đầu bước vào con đường ấy, hướng về dòng sông. Thế là những người khác bắt đầu đi theo. Chú tiến lên từng bước đều đặn, không ngoảnh đầu ra sau, không do dự, như thể biết rõ mình đang đi đâu. Khi chú bắt đầu bước xuống sông, mé nước cạn, người ta liền hiểu ra chú muốn làm gì, và họ không còn sợ nữa. Mặt nước đen lung linh quanh cơ thể Martin. Những đứa trẻ nắm tay những người phụ nữ và đàn ông, và rất chậm, đám đông cũng tiến vào dòng nước lạnh ấy. Từ bên này dòng sông đen với hàng sỏi dài lấp lánh, Alia, trong lúc bước đi trên thềm nước trơn trợt, váy bám vào bụng và đùi, lặng lẽ ngắm dải âm u bên kia bờ, nơi không một ánh sáng nào chiếu tới.
Quỳnh Anh dịch