← Quay lại trang sách

LŨ MỤC ĐỒNG

Con lộ dài thẳng tắp xuyên qua xứ sở của những cồn cát. Nơi đây chẳng có gì ngoài cát, mấy bụi cây gai và cỏ khô gãy răng rắc dưới chân, và trên tất cả là bầu trời đêm đen rộng lớn. Trong gió, ta có thể nghe rõ mọi tiếng động, những tiếng động bí ẩn rờn rợn của đêm. Tiếng răng rắc nho nhỏ phát ra từ những hòn đá bị ép chặt vào nhau, tiếng cát kêu sào sạo dưới đế giày, tiếng gãy của những cành cây nhỏ. Mặt đất như trải ra vô tận, bởi những tiếng động ấy, mà cũng bởi bầu trời đêm kia và những ngôi sao không ngừng tỏa sáng. Thời gian cũng như vô tận, trôi thật chậm, đôi khi vụt nhanh khó hiểu, khi choáng váng, ngỡ như ta đang bơi qua sông. Ta đang bước đi giữa vũ trụ, như lơ lửng trong không gian, giữa những rừng sao.

Tiếng côn trùng vọng lại từ mọi phía, tiếng ken két liên hồi vang giữa bầu trời. Đó có khi là tiếng của những vì sao, những thông điệp inh ỏi đến từ không gian. Trên mặt đất không có ánh sáng, chỉ có bầy đom đóm lảo đảo trên đường. Trong đêm tối đen như đáy biển, các đồng tử giãn ra cố tìm nguồn sáng yếu ớt nhất.

Tất cả đang nghe ngóng. Thú sa mạc chạy giữa những cồn cát: thỏ sa mạc, chuột và rắn. Thỉnh thoảng gió thổi từ biển vào, và ta nghe tiếng sóng vỗ vào bờ rì rào. Gió đầy cồn cát. Trong đêm, cát bập bùng như những cánh buồm. Gió thổi, hất tung bụi cát đốt cháy da mặt và bàn tay.

Chẳng có một bóng người, nhưng ta vẫn cảm thấy sự sống hiện diện và những ánh mắt. Cảm giác đó tựa hồ đứng trong màn đêm trong một thành phố đã ngủ, như lướt qua những ô cửa sổ đang che giấu con người.

Những tiếng động cùng nhau vang lên. Trong đêm, chúng mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn. Hơi lạnh khiến mặt đất rung rinh và ngân vang, những đồng cát rộng lớn cất tiếng hát lâm râm và những lát đá thủ thỉ với nhau. Côn trùng kêu rả rích, và lũ bò cạp và rắn rết cũng vậy. Thỉnh thoảng ta lại nghe thấy biển, tiếng gầm gừ lặng lẽ của những con sóng kéo đến, tan ra trên bãi cát. Gió mang tiếng nói của biển đến nơi này, từng luồng, từng luồng một, cùng ít bụi nước.

Lúc này ta đang đứng ở đâu? Chẳng có lấy một điểm mốc nào. Chỉ có những đồi cát, những hàng cát, đồng cát rộng lớn vô hình, nơi những khóm cỏ đang run rẩy và những lá cây non kêu lách cách, tất cả, tất cả đều xa hút tầm mắt. Gần đây hẳn phải có nhà cửa, thành phố bằng phẳng, đèn đường và đèn pha xe tải. Ấy thế mà, ngay lúc này, ta chẳng biết mình đang đứng nơi đâu nữa. Gió lạnh quét đi tất cả, mài mòn tất cả bằng những hạt cát.

Màn đen rộng lớn trên bầu trời đêm hoàn toàn trơn lì và dày đặc, chỉ để lọt những ánh sáng nhỏ bé xa xăm. Trên vùng đất này, cái lạnh là kẻ chỉ huy, kẻ có tiếng nói ở đây.

Biết đâu nơi mà ta đang đi tới, ta không bao giờ có thể quay lại được nữa. Biết đâu chừng gió sẽ che đậy mọi dấu vết, như thế, với những hạt cát của mình, và gió sẽ khép lại tất cả những con đường phía sau. Rồi những đồi cát chầm chậm di chuyển, khó mà nhận ra, như những con sóng dài của biển cả. Màn đêm bao trùm lấy ta, vắt kiệt trí óc ta, khiến ta choáng váng. Tiếng biển gầm gừ từ xa kéo tới như xuyên qua một lớp sương mù. Tiếng côn trùng rỉ rả trôi đi xa xa rồi lại quay về, rồi lại trôi đi, cùng lúc tỏa ra từ bốn bề. Toàn bộ mặt đất và bầu trời đang gào thét.

Ở xứ này đêm mới dài làm sao! Đêm dài đến nỗi ta đã quên mất ban ngày như thế nào. Trên không trung, những vì sao từ từ đổi ngôi, buông mình xuống đường chân trời. Thỉnh thoảng có một sao băng kẻ một đường sáng ngang bầu trời. Nó lướt rất nhanh trên các vì sao khác, rồi tắt ngấm. Bầy đom đóm cũng chao lượn trong gió, đậu trên những cành cây bụi. Chúng ở đó, phơi ra những cái bụng lấp lánh. Từ trên đỉnh đồi cát, ta thấy bốn bề sa mạc thoắt ẩn thoắt hiện.

Có lẽ vì vậy mà ta cảm thấy sự hiện diện đó, những ánh mắt đó. Rồi xung quanh sống dậy những tiếng động này, những tiếng động nhỏ lạ lùng. Những con thú nhỏ xa lạ trốn trong những trũng cát, chui vào lãnh thổ của mình. Ta đang ở xứ sở của chúng. Chúng phát đi tín hiệu báo động. Cú muỗi chuyển từ bụi này sang bụi kia. Chuột nhảy rúc rích trong đường hang bé xíu. Giữa các lát đá lạnh, con rắn ráo cuộn mình. Chính là chúng, những cư dân ở đây, chúng thoắt chạy thoắt dừng, tim phập phồng, cổ vươn dài, mắt nhìn chăm chú. Thế giới của chúng là đây.

Ngay trước bình minh, khi bầu trời dần dần ngả sang xám, một con chó cất tiếng sủa, và bầy chó hoang đáp lại. Chúng buông những tiếng sủa dài cao vút, đầu ngửa ra sau. Cảnh tượng lạ lùng khiến người ta sởn gai ốc.

Bấy giờ không còn tiếng côn trùng kêu nữa. Những tảng đá cũng thôi răng rắc. Sương mù bốc trên mặt biển, men theo lòng suối cạn. Sương mù lững lờ trôi trên những đồi cát, lan ra như làn khói.

Sao cũng biến mất trên bầu trời. Một đốm sáng ló dạng đằng đông, bên trên sa mạc. Mặt đất bắt đầu hiện ra, không đẹp đẽ chút nào, mà xám xịt và nhợt nhạt, bởi vì đất vẫn đang ngủ. Bầy chó hoang lang thang giữa những đồi cát, tìm kiếm thức ăn. Đó là những con chó nhỏ gầy gò với tấm lưng cong và bốn chân dài. Chúng có đôi tai nhọn như của loài cáo.

Trời sáng dần, và ta bắt đầu nhìn rõ mọi thứ. Có một bãi đất bằng trải đầy những tảng đá đã cháy sém, và vài túp lều làm bằng đất nén, mái lợp bằng cọ. Mấy túp lều đã cũ nát, có lẽ là bị bỏ hoang nhiều tháng nay, chỉ trừ một túp lều nơi bọn trẻ đang sống. Chung quanh những căn nhà, là một bãi đất lớn trải đá, và những đồi cát. Sau những đồi cát là biển. Có vài con đường mòn xuyên qua bãi đất, mà những bàn chân trần của bọn trẻ và mấy bộ móng của lũ dê đã vẽ nên.

Khi mặt trời hiện ra trên mặt đất, xa xa đằng đông, cả bãi đất chợt bừng sáng. Cát trên đồi sáng như bột đồng. Bầu trời mịn và sáng như mặt nước. Bầy chó hoang tiến lại gần các ngôi nhà và đàn dê.

Đây là thế giới của chúng, trên bãi đá và cát rộng lớn này.

Ai đó đã theo các con đường mòn tới đây, giữa những đồi cát. Đó là một cậu bé ăn bận như một thị dân. Nó khoác trên vai một tấm áo ngắn bằng lanh hơi nhàu nát, và đôi giày vải đã phủ đầy bụi. Thỉnh thoảng nó dừng lại và do dự, vì những con đường rẽ đi nhiều hướng. Nó định vị tiếng động phát ra từ biển, bên tay trái của mình, rồi lại tiếp tục bước đi. Mặt trời đã ở trên cao đường chân trời, nhưng nó chưa cảm nhận được hơi ấm. Ánh sáng phản chiếu trên mặt cát buộc nó nhắm mắt lại. Gương mặt cậu bé không quen với ánh nắng, vài chỗ đã ửng đỏ, trên trán và đặc biệt là trên mũi, nơi da đã bắt đầu tróc ra. Cậu bé cũng không quen đi bộ trên cát, dễ dàng nhận ra trong cách nó vặn cổ chân khi bước trên dốc những đồi cát.

Khi tới trước bức tường màu trắng khô cằn, cậu con trai dừng lại. Đó là một bức tường rất dài để chắn bãi đất phẳng bên trong. Đứng ở mỗi đầu nhìn qua, nó lại mất hút trong đám cát. Phải đánh một vòng lớn để tìm ra lối vào. Cậu bé lại do dự. Nó nhìn ra sau, suy nghĩ về việc có lẽ nó sẽ trở về.

Ngay lúc đó, nó nghe thấy những tiếng động như giọng người nói. Chúng đến từ phía bên kia bờ tường, những tiếng la hét nghèn nghẹt, những tiếng gọi. Đó là những giọng nói trẻ con. Gió mang chúng qua bức tường, có thoáng chút huyền ảo, hòa cũng tiếng gầm gừ của biển. Bầy chó hoang sủa lớn hơn, chúng đã đánh hơi thấy sự hiện diện của kẻ mới đến.

Cậu bé leo lên bức thành và nhìn qua bên kia. Nhưng nó không thấy lũ trẻ đâu. Ở bên này tường, vẫn là bãi đất đá ấy, vẫn những bụi cây nhỏ ấy, và, xa xa, một con đường cát dịu dàng.

Cậu bé rất muốn qua đó để mà xem. Có rất nhiều dấu vết để lại trên mặt đất, có những con đường mòn, và những bụi cây được đánh dấu để chỉ đường. Trên những tảng đá, nắng chiếu sáng từng mảng mi-ca.

Cậu bé đang bị chốn này lôi cuốn. Nó nhảy qua tường, rồi bỗng dưng cảm thấy nhẹ nhàng hơn và tự do hơn. Nó lắng nghe tiếng gió và biển, nó thấy mấy kẽ nứt nơi bầy tắc kè sinh sống, mấy bụi cây nơi chim làm tổ.

Nó bắt đầu bước đi trên bãi đá. Các bụi cây ở nơi này cao hơn. Một số đã ra quả mọng đỏ.

Đột nhiên, nó dừng lại. Nó vừa nghe bên tai mình vang lên một âm thanh kỳ lạ:

“Frrrt! Frrrt!”

nghe như tiếng của những viên sỏi bị ném xuống đất. Nhưng chẳng có ai xuất hiện.

Cậu bé lại tiếp tục đi tới. Nó men theo một con đường mòn nhỏ dẫn tới một khối đá, ngay chính giữa một bãi đá nhỏ khô cằn.

Một lần nữa, nó lại nghe vang lên bên tai:

“Frrrt! Frrrt!”

Lúc này, tiếng động đến từ phía sau. Nhưng nó chỉ thấy bức tường thành, những bụi cây và những đồi cát. Không một bóng người.

Nhưng nó cứ có cảm giác ai đó đang nhìn mình. Thứ ấy đến từ mọi nơi và đến cùng một lúc với nhau, một ánh mắt dai dẳng đang rình rập, theo dõi từng cử động của nó. Người ta đã nhìn nó như thế một lúc lâu, nhưng cậu bé chỉ vừa nhận ra. Nhưng nó chẳng lo lắng gì, vì bấy giờ đã là ban ngày, và hơn nữa, ánh mắt ấy cũng không có gì đáng sợ.

Để biết xem chuyện gì sẽ xảy ra, cậu bé ngồi xổm gần một bụi cây và chờ đợi, như thể đang tìm thứ gì trên mặt đất. Một phút sau, nó nghe tiếng bước chạy. Nó đứng dậy, thấy vài bóng đen nấp giữa những bụi cây, và nó nghe một tràng cười ngặt nghẽo.

Cậu bé liền lôi một cái gương nhỏ ra khỏi túi, hướng mặt gương về phía những bụi cây. Đốm trắng nhỏ lượn lờ khắp nơi, như muốn đốt cháy các lá khô.

Bỗng nhiên, ngay giữa những nhánh cây, đốm trắng rọi vào một khuôn mặt và soi sáng một đôi mắt. Cậu bé cứ giữ tia nắng phản chiếu trên khuôn mặt đó, cho đến khi kẻ lạ mặt bị ánh sáng làm cho chói mắt và đứng dậy.

Cả bốn đứa chúng nó cùng đứng dậy. Những đứa trẻ. Cậu bé nhìn chúng, ngạc nhiên. Cả bọn đều nhỏ con, đi chân trần, bận những bộ đồ vải cũ kỹ. Gương mặt của chúng ánh màu đồng, tóc cũng ánh màu đồng thả xuống từng lọn dày. Ngay chính giữa là một bé gái có vẻ hoang dã, bận một áo ngắn màu xanh da trời quá khổ. Đứa lớn nhất trong bọn cầm trong tay phải một dây dài màu xanh lá, có vẻ như được bện bằng rơm.

Cậu bé đứng yên, nên lũ trẻ bắt đầu sáp lại gần. Chúng nói rất khẽ và cười, nhưng cậu bé không hiểu chúng nói gì. Nó hỏi chúng từ đâu đến, và chúng là ai, nhưng lũ trẻ lắc đầu và tiếp tục cười nhẹ.

Cậu bé nói, với giọng hơi tròn trịa:

—Tớ tên là… Gaspar.

Lũ trẻ nhìn nhau rồi bật cười. Chúng lặp lại:

— Gash Pa! Gash Pa!

như vậy, giọng cao vút. Và chúng cười như thể chưa từng nghe gì nhộn hơn thế.

—Cái này là gì?

Gaspa hỏi. Nó đưa tay nắm cọng dây màu xanh mà đứa lớn nhất đang cầm. Cậu bé cúi xuống và nhặt một hòn đá nhỏ dưới đất lên. Nó đặt hòn đá lọt thỏm giữa cọng dây và xoay tít ở trên đầu. Nó thả tay, cọng dây bật ra và hòn sỏi bay tít lên cao giữa bầu trời trong lúc phát ra một tiếng rít. Gaspar căng mắt nhìn theo, như hòn sỏi mất hút trong không khí. Khi nó rơi xuống đất, cách đó hai mươi mét, một đám bụi tung lên ngay chỗ nó đập xuống.

Mấy đứa trẻ khác reo lên và vỗ tay. Đứa lớn nhất đưa cọng dây cho Gaspar và nói:

—Goum!

Tới lượt cậu bé chọn cho mình một viên sỏi dưới đất và đặt vào vành ná. Nhưng nó không biết cách giữ cọng dây. Đứa trẻ có mái tóc màu đồng chỉ nó cách trượt một đầu sợi dây quanh cổ tay và gập mấy ngón tay Gaspar vào đầu còn lại. Rồi nó lùi ra sau một chút và nó lại nói:

—Goum! Goum!

Gaspar bắt đầu xoay cánh tay trên đầu mình. Nhưng sợi dây dài và nặng, và trò này khó hơn nó những tưởng. Nó quay cọng dây nhiều lần, mỗi lúc một nhanh, và đúng lúc chuẩn bị thả tay ra, nó làm sai một động tác. Sợi dây bện rít lên và đập mạnh vào lưng nó, mạnh đến độ xé toạc áo nó.

Gaspar vừa đau, vừa nổi giận, nhưng mấy đứa trẻ cười lớn đến mức cả nó cũng không thể nhịn cười. Lũ trẻ vỗ tay và hét lớn:

— Gash Pa! Gash Paaa!

Rồi chúng ngồi bệt xuống đất. Gaspar đưa chúng xem chiếc gương nhỏ của mình. Thằng bé lớn nhất đùa với tia nắng một lúc, rồi ngắm mình trong gương.

Gaspar ước gì mình biết tên của chúng. Nhưng mấy đứa trẻ này không nói được tiếng của nó. Chúng nói một thứ ngôn ngữ lạ lùng, liến thoắng và hơi khàn khàn, tạo ra một âm điệu vô cùng tương xứng với khung cảnh đất đá và những đồi cát nơi đây. Nghe như tiếng đá nghiến răng rắc về đêm, như tiếng lá kêu sào sạo, như tiếng gió thổi trên mặt cát.

Chỉ có cô gái nhỏ là còn hơi xa cách. Cô ngồi trên hai gót chân của mình, gối và bàn chân đều bị lớp áo xanh thùng thình phủ kín. Mái tóc cô bé có màu đồng đỏ và thả từng lọn dày trên vai. Cô có đôi mắt đen lay láy, cũng như đám con trai, nhưng sáng hơn cả chúng. Có một thứ ánh sáng kỳ lạ trong mắt cô, tựa hồ một nụ cười không muốn ai nhìn thấy. Thằng bé lớn nhất chỉ đứa con gái cho Gaspar và nó lặp lại nhiều lần:

— Khaf… Khaf… Khaf…

Từ đó Gaspar gọi cô bé như thế: Khaf. Đó là một cái tên rất hợp với cô.

Lúc này nắng bắt đầu gay gắt. Nó thắp toàn bộ đốm lửa của mình trên những tảng đá sắc nhọn, mấy tia sáng nhỏ nhấp nháy như có những mặt gương đâu đây.

Âm thanh của biển đã dừng hẳn, vì lúc này gió thổi từ trong lòng đất, từ trong sa mạc. Lũ trẻ vẫn ngồi đấy. Chúng nhíu mắt nhìn sang những đồi cát. Dường như chúng đang chờ đợi.

Gaspar thắc mắc làm sao chúng sống được ở đây, cách xa thành phố. Nó muốn hỏi đứa lớn nhất trong bọn rất nhiều thứ, nhưng không được. Mà chúng có nói cùng một ngôn ngữ với nhau, Gaspar cũng không dám hỏi. Chỉ vậy thôi. Đây là nơi mà ta không được hỏi.

Khi mặt trời đứng bóng, lũ trẻ rời khỏi đây để quay về với đàn cừu của chúng. Không nói với Gaspar tiếng nào, chúng bỏ đi về hướng những tảng đá lớn cháy sém, ở nơi ấy, về phía đông, đi theo một hàng một dọc con đường mòn chật hẹp.

Gaspar, vẫn ngồi trên đống đá, nhìn chúng ra đi. Nó tự hỏi mình sẽ làm gì. Có lẽ nó nên quay ngược ra sau, đi về con đường lớn, về những ngôi nhà trong thành phố, về những người đang đợi nó, ở nơi ấy, bên kia tường thành và bên kia những đồi cát.

Khi lũ trẻ đã ở khá xa, chỉ lớn bằng những con côn trùng màu đen trên bãi đá, đứa lớn nhất quay về phía Gaspar. Nó quay cái ná cỏ của mình trên đầu. Gaspar không nhìn thấy vật bay đến, nhưng nghe một tiếng rít bên tai, và hòn sỏi đập vào sau lưng nó. Nó đứng thẳng người dậy, lấy gương của mình ra và rọi tia sáng về phía lũ trẻ.

— Ga-hu-waa!

Lũ trẻ la hét với thứ giọng cao vót của mình. Chúng đưa tay ra hiệu cho Gaspar. Chỉ có cô bé Khaf là tiếp tục bước đi trên con đường mòn, không ngoảnh đầu lại.

Gaspar nhảy lên và nó bắt đầu chạy hết sức mình, băng qua bãi đất bằng, nhảy qua đá và bụi cây. Vài giây sau, nó đã đuổi kịp lũ trẻ, và chúng tiếp tục cùng nhau lên đường.

Lúc này trời rất nóng. Gaspar cởi áo ra và quấn ngang hông. Nó vắt áo khoác vải của mình trên đầu để tránh nắng. Khí nóng bị những bầy muỗi tí hon xuyên qua, kêu vo vo quanh đầu lũ trẻ. Nắng làm mấy hòn đá nở ra và mấy cành cây nổ lẹp bẹp. Bầu trời hoàn toàn trong vắt, nhưng nhợt nhạt như khí bị đun quá nóng.

Gaspar bước sau đứa lớn nhất trong đám trẻ, mắt khép hờ vì ánh sáng. Không một ai lên tiếng. Hơi nóng đã làm khô các cổ họng. Gaspart thở bằng miệng, và cổ họng nó khô rát đến độ nó phải bật ho. Nó đứng lại và nói với đứa lớn:

— Mình khát quá…

Nó lặp lại nhiều lần như thế trong khi chỉ vào cổ họng. Thằng bé lắc đầu. Có lẽ nó không hiểu. Gaspar thấy chúng không còn giống như khi nãy. Bây giờ, chúng mang những khuôn mặt khắc khổ. Da mặt chúng sạm đỏ như màu đất. Mắt chúng cũng sạm lại, ánh lên thứ ánh sáng mệt mỏi của khoáng vật.

Cô bé Khaf bước lại gần. Cô lục trong túi áo màu xanh của mình, và lôi ra một nắm hạt trông như thể đậu tằm, xanh lục và nhuyễn như bột. Khi Gaspar vừa đưa vào miệng, chúng nóng như tiêu, và ngay lập tức cổ họng và mũi của nó được tẩm ướt.

Đứa lớn nhất trong đám chỉ mớ hạt và nói:

—Lula.

Chúng lại tiếp tục cất bước, và vượt qua dải đồi thứ nhất. Bên kia đồi, có một đồng bằng giống hệt nơi chúng vừa rời khỏi. Đó là một bãi đất bằng phủ đầy đá, và cỏ mọc lên ngay giữa trung tâm.

Đó là nơi đàn gia súc đang nằm nghỉ.

Có khoảng một chục con cừu đen, vài con dê cái, và một con dê đực to màu đen hơi tách khỏi bầy. Gaspar dừng lại để nghỉ mệt, nhưng lũ trẻ không đợi nó. Chúng chạy trong rãnh đất dẫn xuống đồng bằng, và hô những tiếng kỳ quặc:

—Ha-wa! Ga-hu-wa!

như tiếng sủa. Rồi chúng huýt sáo giữa mấy ngón tay.

Bầy chó nhổm dậy và trả lời:

—Gâu gâu! Gâu gâu!

Con dê đực bật dậy và giậm móng xuống đất. Rồi nó sáp vào đàn gia súc và cả bầy thú giãn ra. Một đám bụi bắt đầu xoay quanh đàn gia súc. Chính bầy chó hoang đã vẽ nhanh những vòng tròn. Con dê đực chạy cùng lúc với chúng, đầu cúi xuống, đưa hai sừng dài bén nhọn của mình ra.

Lũ trẻ vừa tiến lại vừa sủa và huýt sáo. Đứa lớn nhất xoay ná cỏ của mình. Mỗi lần nó thả tay ra, một hòn sỏi đập vào một con thú trong đàn. Lũ trẻ vừa chạy vừa giơ tay, không ngừng hò hét:

—Ha! Ha-wa! Ha-wap!

Khi đàn gia súc đã được kéo lại quanh con dê đực, lũ trẻ chọi đá để xua bầy chó ra xa. Đến lượt Gaspar leo xuống rãnh đất. Một con chó hoang nhe nanh gầm gừ, và Gaspar cũng vậy, nó vừa xoay áo khoác của mình vừa hét:

—Ha! Haaa!

Giờ nó không còn khát nữa. Cơn mệt mỏi cũng biến mất. Nó chạy trên bãi đá, vừa chạy vừa xoay áo khoác của mình. Mặt trời đang ở rất cao trên bầu trời, cháy dữ dội. Không khí đã bị bụi bão hòa, mùi của bầy cừu và bầy dê bao trùm tất cả, thấm vào mọi thứ.

Đàn gia súc tiến lên chậm rãi, băng qua bãi cỏ vàng, về phía những ngọn đồi. Bầy thú di chuyển san sát bên nhau và kêu la rên rỉ. Con dê đực đi sau cùng, bước chân nặng nề, chốc chốc lại chúi cặp sừng nhọn xuống. Đứa lớn nhất trong bọn trẻ trông chừng con dê. Vừa đi, nó vừa nhặt một hòn sỏi và tiếng ná lại rít lên. Con dê chịu đựng một cách hung hăng, rồi nhảy dựng lên khi hòn sỏi đập vào lưng nó.

Bầy chó có vẻ hoang dại kia tiếp tục chạy quanh đàn gia súc, không ngừng kêu gào. Lũ trẻ trả lời và ném đá vào người chúng. Gaspar cũng làm theo; gương mặt nó bạc trắng vì bụi, tóc bết vì mồ hôi. Bây giờ nó chẳng còn nhớ gì nữa, nó đã quên tất cả những gì đã biết trước khi tới đây. Những con đường trong thành phố, những lớp học âm u, những tòa nhà lớn màu trắng của trường nội trú, những thảm cỏ, tất cả đều đã biến mất như một ảo ảnh trong khí nóng giữa đồng bằng hoang vu.

Mặt trời chính là nguyên nhân, trên tất cả mọi thứ, cho những gì diễn ra tại đây. Mặt trời nằm ngay giữa bầu trời sáng trắng, và bên dưới, bầy thú xoay vòng trong đám bụi của chúng. Bóng đen của bầy chó kéo qua bãi đất bằng, quay về, rồi lại quay đi. Lũ gia súc giậm mấy bộ móng sắt trên nền đất cứng, tạo ra một thứ âm thanh cuồn cuộn và gầm gừ nghe như biển cả. Tiếng hú của bầy chó, giọng than vãn của bầy cừu, tiếng gọi và huýt sáo của lũ trẻ không ngừng vang lên.

Cứ như thế, đàn gia súc men theo lòng suối, chậm rãi vượt qua dải đồi thứ hai. Cát bay trong gió, và, bị cuốn theo một cơn lốc xoáy, đáp xuống bãi đất bằng dưới bộ dạng của một vòi rồng.

Khe đất hẹp dần, hai bên bờ mọc đầy bụi gai. Bầy cừu đánh rơi mấy túm lông đen trên đường đi. Quần áo của Gaspar rách tả tơi. Hai tay nó rớm máu, nhưng gió nóng làm máu khô ngay. Lũ trẻ leo đồi không biết mệt mỏi, nhưng Gaspar trượt ngã nhiều lần trên đám sỏi.

Khi tới đỉnh đồi, lũ trẻ không dừng lại để nhìn xuống. Gaspar chưa thấy gì đẹp hơn thế. Trước mắt chúng, bãi đất bằng và những đồi cát từ từ trôi xuống, theo từng đợt sóng, đến tận đường chân trời. Đó là một mảnh đất rất lớn và gợn sóng, với những khối đá tối tăm và những gò cát đỏ và vàng. Mọi thứ đều rất chậm, rất tĩnh lặng. Ở phía đông, một vách đá trắng nhỏ cao trên bãi đất bằng, trải rộng bóng đen của mình. Giữa những ngọn đồi và những cồn cát có một thung lũng ngoằn ngoèo, độ cao hạ dần theo từng bậc. Và cuối thung lũng ấy, đằng xa kia, xa đến độ mọi thứ gần như huyền ảo, ta thấy một mảnh đất giữa các ngọn đồi: gần như xám, lục, lam, nhẹ như một đám mây, mảnh đất xa xôi kia, đồng bằng cỏ và nước. Nhẹ nhàng, dịu dàng, tinh tế như biển khi nhìn từ xa.

Bầu trời nơi này lớn hơn, ánh sáng đẹp hơn, trong trẻo hơn. Không còn bụi bặm. Gió thổi từng đợt nhỏ, suốt thung lũng, gió mát khiến người ta dễ chịu.

Gaspar và lũ trẻ đứng yên ngắm vùng đất xa xăm ấy, và chúng cảm thấy gì đó như hạnh phúc dâng trong cơ thể mình. Chúng ước mình có thể bay nhanh như ánh mắt và đáp xuống dưới kia, ngay giữa thung lũng.

Đàn gia súc không chờ lũ trẻ. Con dê đen đầu đàn thả dốc xuống sườn đồi, men theo các khe đất. Bầy chó hoang không còn sủa nữa, chạy lon ton sau đàn gia súc.

Gaspar nhìn lũ trẻ. Chúng đứng thẳng trên một tảng đá nhô ra, lặng lẽ ngắm khung cảnh chung quanh. Gió thổi quần áo chúng bay phất phơ. Gương mặt chúng đã dịu đi. Ánh sáng vàng cháy rực rỡ trên vầng trán và trong mái tóc của chúng. Cả cô bé Khaf cũng không còn giữ vẻ hoang dại của mình. Cô bé phát cho lũ con trai mấy nắm hạt có vị tiêu. Cô đưa tay ra, chỉ cho Gaspar thung lũng lấp lánh gần đường chân trời, và nói:

— Genna.

Lũ trẻ lại lên đường, lần theo vết chân của bầy cừu. Gaspar đi sau cùng. Chúng càng xuống đồi, thung lũng xa xăm kia càng mất hút sau những cồn cát. Nhưng chúng chẳng cần nhìn. Chúng cứ men theo khe đất mà đi, về hướng mặt trời mọc.

Trời đã bớt nóng. Khi chúng còn chưa kịp nhận ra, ngày đã dần tắt. Bầu trời lúc này vàng ươm, và ánh sáng không còn phản chiếu trên những mảng mica nữa.

Đàn gia súc đi trước lũ trẻ cả nửa giờ. Khi tới đỉnh một cồn cát, chúng thấy đàn gia súc đang leo lên phía bên kia, làm sụt lở cả mớ đá dưới chân.

Mặt trời lặn nhanh. Hoàng hôn trôi qua trong nháy mắt, và bóng tối bắt đầu phủ trên khe đất. Vậy là lũ trẻ ngồi trong một trũng đất và chờ màn đêm buông xuống. Gaspar ngồi bên cạnh chúng. Nó rất khát, miệng sưng vù vì mấy hạt vị tiêu. Nó cởi giày ra và thấy chân chảy máu; cát đã luồn trong giày nó và cào rách da.

Lũ trẻ nhóm một ngọn lửa bằng mấy cành cây non. Rồi một đứa trong đám con trai đi về phía đàn gia súc. Chập tối, nó trở về, đem theo một túi bọng sữa. Lũ trẻ lần lượt uống. Cô bé Khaf uống sau cùng, và đem túi sữa cho Gaspar. Gaspar uống ba ngụm dài. Dòng sữa ngọt và mát lạnh lập tức làm dịu cơn nóng trong miệng và cổ họng nó.

Hơi lạnh kéo tới từ lòng đất, như hơi thở của một hang động. Gaspar lại gần ngọn lửa và nằm dài trên cát. Bên cạnh nó, cô bé Khaf đã ngủ, và Caspar đắp áo khoác của mình cho cô. Rồi, nó nhắm mắt lại và lắng nghe tiếng gió thổi. Tiếng gió thổi cùng tiếng lửa bập bùng hòa thành một giai điệu êm tai để đưa ta vào giấc ngủ. Xa xa, bầy dê và bầy cừu kêu be be.

Một cảm giác lo lắng nhẹ đánh thức Gaspar. Nó mở mắt ra, và thứ đầu tiên mà nó thấy là bầu trời đêm lấp lánh ánh sao dường như đang ở rất gần. Mặt trăng tròn và trắng ngà tỏa sáng như một bóng đèn. Lửa đã tắt, lũ trẻ vẫn đang ngủ. Khi ngoảnh mặt qua, Gaspar thấy đứa lớn nhất đang đứng bên cạnh nó. Abel (Caspar nghe tên nó lặp lại nhiều lần khi lũ trẻ nói chuyện với nhau) đứng bất động với cái ná cỏ dài trong tay. Ánh trăng soi sáng gương mặt nó và lung linh trong đôi mắt. Gaspar ngồi dậy, tự hỏi nó đã thiếp đi trong bao lâu. Chính ánh mắt của Abel đã đánh thức nó. Ánh mắt của Abel nói:

— Đi tới đây với tớ.

Gaspar đứng hẳn dậy và đi theo thằng bé. Đêm, không khí càng lạnh lẽo hơn, khiến Gaspar hoàn toàn tỉnh ngủ. Đi được vài bước, nó mới nhận ra mình đã quên mang giày, nhưng thế này lại tốt hơn cho hai bàn chân đã trầy xước, và nó lại tiếp tục đi.

Chúng cùng nhau leo lên rãnh đất dốc. Dưới ánh trăng, mấy tảng đá trắng xóa và hơi ngả sang màu xanh. Tim đập nhanh, Gaspar đi theo Abel lên đến đỉnh đồi. Nó còn chẳng tự hỏi mình đang đi đâu. Có gì đó bí hiểm lôi cuốn nó, có gì đó trong ánh mắt của Abel, có lẽ là vậy, một loại bản năng dẫn dắt nó, giúp nó băng qua lớp sỏi bén bằng đôi chân trần mà không gây ra tiếng động nào. Trước mặt nó, dáng người mảnh khảnh của Abel nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, lặng lẽ và khéo léo như một loài mèo.

Từ trên cao rãnh đất, gió vồ lấy hai đứa trẻ, một cơn gió lạnh đến tắt thở. Abel dừng lại và quan sát xung quanh. Chúng như đang đứng trên một cao nguyên đá. Vài bụi cây đen động đậy trong gió. Mấy lát đá trơn lì lấp lánh dưới ánh trăng, bị xẻ đôi bởi những vết nứt.

Không một tiếng động, Gaspar đến bên cạnh Abel. Nó đang rình đứa trẻ. Trên gương mặt Abel, chẳng có lấy một cử động nào trừ hai con mắt. Gió cứ gào thét, nhưng Gaspar dường như vẫn nghe thấy trái tim của Abel đánh trong lồng ngực. Nó thấy hơi nước óng ánh trước mặt Abel, mỗi khi thằng bé thở ra.

Abel, mắt không rời khỏi cao nguyên rực sáng, nhặt một hòn sỏi và đặt trong ná cỏ của mình. Rồi bỗng nhiên, nó xoay ná trên đầu. Cây ná xoay mỗi lúc một nhanh như chong chóng. Gaspar lùi ra xa. Rồi nó cũng chăm chú nhìn cao nguyên, dò từng viên đá, từng vết nứt, từng bụi cây đen. Ná xoay tít trên không tạo thành một tiếng rít dài, lúc đầu đùng đục như tiếng gió hú, rồi vút cao như tiếng kêu của một nàng tiên cá.

Điệu nhạc mà ná cỏ tạo ra dường như lấp đầy không gian. Cả bầu trời đều ngân vang, và mặt đất, và những hòn đá, cỏ, và những bụi cây nhỏ. Đó là một giọng nói, một giọng nói đang mời gọi, vang đến tận đường chân trời. Giọng nói ấy muốn gì? Gaspar không hạ mắt xuống, nó cứ chăm chăm nhìn thẳng vào một điểm trước mặt mình, trên cao nguyên sáng trăng ấy, và đôi mắt nó bừng sáng vì mệt mỏi và vì ham muốn. Cả cơ thể của Abel đang run rẩy, như thể tiếng rít của ná cỏ là từ nó mà ra, từ mắt nó, từ môi nó, để che lấp mặt đất này và bay vút lên giữa bầu trời đen trên cao.

Đột nhiên, có ai đó xuất hiện trên cao nguyên đá sỏi đá. Đó là một con thỏ sa mạc có bộ lông màu cát. Nó đứng trên bốn chân, giương thẳng đôi tai dài của mình. Đôi mắt nó sáng như những tấm gương nhỏ khi nó đang nhìn về phía hai đứa trẻ. Con thỏ bất động, đứng sững bên bờ một lát đá, lắng tai nghe điệu nhạc từ ná cỏ.

Rồi một tiếng cách vang lên, và con thỏ nằm lăn qua một bên, vì viên đá văng trúng ngay giữa hai con mắt của nó.

Abel quay sang người bạn đồng hành của mình, gương mặt rạng ngời vẻ hài lòng. Chúng cùng chạy xuống, lượm con thỏ lên. Abel lấy một con dao nhỏ từ trong túi áo, và cắt cổ con vật ngay, không hề do dự, rồi giữ con vật bằng hai chân sau để trút hết máu. Nó đưa con thỏ cho Gaspar, dùng hai tay để lột da cho tới tận đầu. Sau đó, nó làm sạch ruột thỏ, lôi bộ lòng ra và ném vào một kẽ đá.

Chúng men theo rãnh đất, leo xuống. Khi đi qua một bụi cây, Abel chọn một cành dài và tỉa lại bằng con dao của mình.

Khi về tới chỗ nghỉ chân, Abel đánh thức những đứa trẻ khác. Chúng nhặt mấy nhánh cây mới để nhóm lửa. Abel xiên thỏ vào cành cây khi nãy và ngồi xổm gần ngọn lửa để nướng. Khi thỏ đã chín, Abel dùng tay chia thịt. Nó đưa một đùi thỏ cho Gaspar và giữ đùi còn lại cho mình.

Bọn trẻ ăn rất nhanh, rồi ném mấy khúc xương cho bầy chó hoang. Rồi chúng lại nằm quanh khóm than hồng và chìm vào giấc ngủ. Gaspar chưa ngủ ngay, nó mở to mắt ngắm ánh trăng trắng như ngọn hải đăng nằm trên đường chân trời.

Đã nhiều ngày nay, chúng sống tại Genna. Chúng đã tới đây ít phút trước khi mặt trời lặn, chúng vào thung lũng cùng lúc với đàn gia súc. Rồi bỗng nhiên, ngay khúc ngoặt của con đường, chúng thấy một dòng xanh rộng lớn sáng dịu dàng, và chúng dừng lại, trong tích tắc, không thể cử động nổi, bởi cảnh tượng trước mắt mới đẹp làm sao.

Cảnh tượng ấy thực sự là rất đẹp! Trước mắt chúng, một khoảng cỏ xanh cao vút uốn lượn trong gió, và những cây lớn đung đưa, rất nhiều cây cao lêu nghêu, thân đen, tán lá rộng xanh rờn; những cây hạnh nhân, cây dương, và cây nguyệt quế khổng lồ; có cả những cây cọ thật cao, lá không ngừng lắc lư. Chung quanh vùng đất bằng là những đồi đá đang trải bóng, và nằm ở phía biển là những cồn cát nhuộm vàng và đồng. Đây là nơi mà đàn gia súc đi tới, đây là đất của chúng.

Lũ trẻ ngắm đồng cỏ, không nhúc nhích, như thể chúng không dám bước tới đó. Giữa đồng bằng ấy, nằm giữa những cây cọ cao ấy là mặt hồ sáng như gương, và Gaspar cảm thấy một sự rung động lướt qua cơ thể. Nó quay sang bên cạnh và nhìn lũ trẻ. Gương mặt chúng được ánh sáng dịu dàng đến từ đồng cỏ soi sáng. Đôi mắt của cô bé Khaf không còn u tối nữa; chúng trở nên trong suốt, như màu cỏ xanh và những giọt nước.

Cô bé là đứa đầu tiên chạy. Cô ném những gói đồ ra xa và hét thật to một từ kỳ quái, “mu-i-a-a-a”, và bắt đầu chạy băng qua đồng cỏ.

“Nước! Nước đây rồi!” Gaspar nghĩ. Nhưng nó chỉ reo lên “mu-i-a” cùng những đứa trẻ khác, và nó bắt đầu chạy về phía hồ nước.

“Mu-i-a! Mu-i-a-a-a!”

Gaspar chạy thật nhanh. Những cọng cỏ dài quất vào mặt và hai tay nó, rẽ làm đôi trước cơ thể của nó, kêu xào xạc. Gaspar chạy băng qua vùng đất bằng, hai bàn chân trần đập xuống đến đất ướt, hai tay gạt những ngọn cỏ sắc cạnh. Nó lắng nghe nhịp đập con tim, tiếng cỏ gập lại sau lưng mình. Cách đó vài mét, ở bên trái, Abel cũng chạy nhanh không kém, vừa chạy vừa hét to. Thỉnh thoảng cậu bé lại biến mất trong cỏ, rồi lại hiện ra, nhảy qua những hòn đá. Con đường của chúng giao nhau, rồi tách ra, xa dần, và những đứa trẻ khác chạy theo chúng, vừa chạy vừa nhảy, xem chúng ở đâu. Lũ trẻ gọi, và Gaspar trả lời: “Mu-i-a-a-a!”

Chúng cảm nhận được hơi đất ẩm ướt, mùi cỏ nát nồng nàn và hương thơm của những cây to. Mấy ngọn cỏ cắt nát da mặt chúng như những sợi roi, nhưng chúng vẫn tiếp tục chạy và la hét, không mệt mỏi, chẳng cần nhìn nhau, chúng gọi nhau, và dẫn nhau đến nguồn nước.

“Mu-i-a! Mu-i-a!”

Gaspar nhìn làn nước trước mắt nó, lấp lánh giữa đồng cỏ. Nó nghĩ mình sẽ đến trước, nên chạy nhanh hơn nữa. Rồi nó chợt nghe giọng của bé Khaf đằng sau. Cô bé kêu một cách tuyệt vọng, như ai đó đang bị lạc đường.

“Mu-i-a-a!”

Thế là Gaspar vòng ra sau, tìm cô bé trong đám cỏ. Cô bé nhỏ đến độ chẳng thấy cô đâu cả. Nó chạy nhiều vòng, cất tiếng gọi cô:

“Mu-i-a!”

Nó thấy cô bé bị bỏ xa sau những đứa trẻ khác. Cô bé chạy từng bước nhỏ, che mặt bằng hai cánh tay trước. Hẳn cô bé đã bị ngã nhiều lần, vì áo và hai cẳng chân đều bám đầy bùn đất. Gaspar nâng cô bé lên và cõng trên vai mình, rồi lại chạy về phía trước. Bây giờ, chính cô bé là người dẫn đường. Bám chặt vào tóc của Gaspar, cô bé đẩy nó theo hướng hồ nước, và không ngừng hét to:

“Mu-i-a! Mu-i-a-a-a!…”

Chỉ cần vài sải chân, Gaspar đã đuổi kịp lũ trẻ. Nó qua mặt hai đứa nhỏ nhất và đến bên bờ nước cùng lúc với Abel. Cả ba chúng nó rơi tõm xuống dòng nước mát, thở không ra hơi, rồi bắt đầu uống nước và cười vang.

Trước khi trời tối, lũ trẻ đã kịp dựng xong một căn nhà. Abel là kiến trúc sư. Cậu bẻ vài cây sậy dài và mấy cành cây. Đám con trai còn lại giúp nó dựng khung nhà với những cây sậy được uốn cong và thắt ngọn bằng mấy cọng cỏ. Rồi chúng bịt các kẽ hở bằng những cành nhỏ. Trong lúc đó, Khaf nhỏ bé và một thằng bé tên là Augustin ngồi xổm bên hồ nước để làm bùn.

Khi bột đã sẵn sàng, chúng trải trên tường nhà, vỗ vỗ bằng lòng bàn tay. Công trình tiến triển khá nhanh, và khi mặt trời lặn, căn nhà đã hoàn thành. Trông nó như một lều tuyết được nặn bằng đất, để hở một bên để ra vào. Abel và Gaspar chỉ có thể bò vào, nhưng Khaf bé bỏng có thể đứng thẳng để đi qua. Căn nhà nằm bên bờ hồ, ngay giữa bãi cát. Chung quanh nhà, những ngọn cỏ cao vút tạo thành một bức tường thành màu xanh. Bên kia hồ là nơi ở của đám cọ cao lớn, mà chúng đã dùng lá để làm mái nhà.

Sau khi uống nước, đàn gia súc tản ra xa, băng qua đồng cỏ. Nhưng lũ trẻ chẳng có vẻ gì lo lắng. Thỉnh thoảng, chúng lắng tai nghe tiếng be be đến cùng cơn gió, từ bên kia đồng cỏ.

Khi màn đêm đã buông xuống, đứa nhỏ nhất trong đám con trai đi vắt sữa. Chúng cùng nhau uống làn sữa ngọt lịm và mát lành, rồi ôm nhau ngủ bên trong nhà. Có gì như làn sương mù mỏng bốc lên từ hồ nước, gió đã ngừng thổi. Gaspar ngửi thấy mùi đất ẩm trên tường nhà. Nó lắng nghe tiếng ếch nhái và côn trùng kêu trong đêm tối.

Đây là nơi chúng sống từ nhiều ngày nay, đây là nhà của chúng. Những ngày này rất dài, và bầu trời thì bao la và trong vắt, nắng chạy dài từ chân trời này đến chân trời kia.

Sáng sáng, khi tỉnh dậy, Gaspar thấy đồng cỏ ướt đẫm những hạt nước li ti long lanh trong ánh nắng. Trên đồng cỏ, những đồi đá ánh màu đồng. Những tảng đá nhọn nổi bật trên bầu trời xanh. Ở Genna không bao giờ có mây, trừ vệt khí trắng mà, đôi khi, một chiếc phản lực để lại khi chầm chậm bay qua tầng bình lưu. Ta có thể ngồi hàng giờ để ngắm bầu trời ấy, mà không làm gì. Gaspar vượt qua đồng cỏ, và tới ngồi gần Augustin, cạnh đàn gia súc. Chúng cùng ngắm con dê đen bứt từng khóm cỏ. Những con dê khác và bầy cừu đi sau nó. Bầy dê có đầu dài như đầu linh dương, hai mắt xếch màu hổ phách. Mấy con ruồi nhỏ cứ vi vu không ngừng trong không khí.

Abel chỉ cho Gaspar cách đan ná. Cậu bé chọn nhiều cọng cỏ đặc biệt, màu xanh đậm, mà cậu gọi là gum. Cậu giữ chúng bằng mấy ngón chân và tết thành bện. Chẳng dễ dàng gì, vì cỏ cứng và trơn tuột. Bện cỏ cứ bị tuột ra, và Gaspar phải tết lại từ đầu. Hai bên mép cỏ rất bén, và tay nó chẳng mấy chốc đã rướm máu. Bện cỏ được thắt to dần để tạo thành túi nhỏ, nơi sỏi sẽ được đặt vào. Ở mỗi đầu, Abel chỉ Gaspar cách gút bện cỏ bằng một nút thắt chắc chắn, và củng cố lại bằng một cọng cỏ nhỏ hơn.

Khi bện cỏ được thắt xong, Abel xem xét cẩn thận. Cậu kéo từng đầu bện cỏ để thử sự chắc chắn của ná. Cái ná dài và dẻo dai, nhưng ngắn hơn ná của Abel. Abel thử ná ngay lập tức. Cậu chọn một hòn sỏi tròn dưới đất và đưa vào giữa ná. Rồi cậu lại chỉ Gaspar cách đặt tay ở hai đầu: một vòng quanh cổ tay, vòng còn lại giữa mấy ngón tay và lòng bàn tay.

Cậu bé bắt đầu xoay ná trên đầu. Gaspar nghe tiếng rít đều đặn của sợi dây. Nhưng Abel không bắn ra hòn sỏi nào. Bằng một động tác đột ngột và chính xác, cậu bé dừng sợi dây lại và đưa cho Gaspar, rồi chỉ một thân cọ ở xa xa.

Tới lượt Gaspar xoay ná. Nhưng nó làm quá nhanh, nửa thân người bị sức nặng của hòn đá kéo theo. Nó phải thử lại nhiều lần, tăng tốc dần dần. Khi bắt đầu nghe trên đầu mình tiếng vù vù như của động cơ máy bay, nó biết mình đã đạt tới tốc độ cần thiết. Nó xoay người tại chỗ một cách chậm rãi và hướng về phía cây cọ nằm bên kia đồng bằng. Giờ nó đã tự tin, và cái ná là một phần cơ thể nó. Nó nghĩ mình đã thấy một vòng cung nối giữa mình và thân cây. Đúng lúc Abel kêu:

- Gia!

Gaspar mở tay ra và sợi dây cỏ đánh trong không khí. Hòn sỏi vô hình bắn lên trời và hai giây sau, Gaspar nghe tiếng va chạm trên thân cọ.

Từ lúc đó trở đi, Gaspar nhận ra mình không còn như trước đây nữa. Bây giờ, nó đang đi cùng thằng bé lớn nhất đưa đàn gia súc về giữa đồng bằng. Cả hai đứa nó khởi hành vào độ bình minh, và băng qua đồng cỏ cao. Abel vừa dẫn đường, vừa xoay ná kêu rin rít trên đầu, và Gaspar đáp trả bằng sợi ná của mình.

Xa xa, trên những cồn cát đầu tiên, bầy chó hoang phát hiện ra một con dê lạc đường. Tiếng sủa inh ỏi của chúng xé nát sự yên tĩnh. Abel chạy trên những phiến đá. Con lớn nhất trong bầy đã tấn công con dê cái. Nó xù bộ lông đen của mình lên và xoay vòng vòng, chốc chốc lại gầm gừ và vồ lấy con dê. Con dê cái vừa đi lùi ra sau, vừa giương cặp sừng của mình về phía trước; nhưng cổ nó đã chảy một ít máu.

Khi Abel và Gaspar tới nơi, những con chó khác bỏ chạy. Nhưng con chó có bộ lông đen quay lại đối mặt với chúng. Miệng con chó đầm đìa nước dãi, mắt long lên giận dữ. Abel liền nhanh chóng đưa ná lên, cùng một hòn đá nhọn, và thằng bé bắt đầu xoay. Nhưng con chó hoang nhận ra tiếng ná, và khi viên đá bay đi, nó nhảy sang một bên và tránh được. Viên đá đập lên nền đất. Bấy giờ con chó tấn công thằng bé. Abel hét lên gì đó, và Gaspar lập lức hiểu ngay. Tới lượt nó xoay ná của mình, thật mạnh, với một viên đá nhọn. Hòn sỏi nhọn đập vào đầu con chó và làm vỡ sọ nó. Gaspar chạy lại chỗ Abel và giúp thằng bé, bây giờ hai chân run cầm cập, đứng dậy. Abel ôm chặt cánh tay của Gaspar và cùng nhau, chúng đưa con dê cái về đàn. Khi chúng đã ra xa được một quãng, Gaspar quay đầu lại và thấy những con chó hoang khác đang xé thịt con chó đen.

Ngày ngày trôi qua như thế, những ngày dài thật dài đến mức ta tự hỏi phải chăng đã là nhiều tháng. Gaspar không còn nhớ rõ những gì nó đã biết trước khi đến đây, tại Genna này. Thỉnh thoảng nó nghĩ về phố xá ở thành thị, với những cái tên buồn cười, tới những chiếc ô-tô và những chiếc xe tải. Khaf bé nhỏ rất thích nó giả tiếng ô-tô, đặc biệt là những chiếc ô-tô kiểu Mỹ lao thẳng trên đường và bóp còi inh ỏi. Con bé cũng buồn cười vì cái mũi của Gaspar. Nắng như đốt đã làm nó tróc vài mảng da. Khi Gaspar ngồi trước nhà và lấy chiếc gương nhỏ từ túi ra, con bé ngồi bên cạnh nó và, vừa cười to, vừa lặp đi lặp lại một từ kỳ lạ:

— Giê-giay! Giê-giay!

Thế là những đứa khác cũng phá ra cười và lặp lại:

— Giê-giay!

Cuối cùng Gaspar cũng hiểu. Hôm nọ, Khaf bé bỏng ra hiệu bảo nó đi theo. Con bé bước đi, không nói tiếng nào, tới một phiến đá bằng phẳng nằm trong cát, gần mấy cây cọ. Con bé dừng lại và chỉ gì đó cho Gaspar, trên mặt đá. Đó là một con tắc kè xám đã tróc da vì nắng.

— Giê-giay! – Con bé nói. Rồi nó sờ mũi Gaspar, cười thật to.

Giờ thì cô gái nhỏ không còn sợ nữa. Con bé rất thích Gaspar, có lẽ vì nó không biết nói, không thì là do cái mũi đỏ lỏm của mình.

Tối, khi hơi lạnh bốc lên từ mặt đất và mặt hồ, con bé leo qua người những đứa trẻ khác và tới dúi mình vào người Gaspar. Gaspar vờ như không thức giấc, và nó nằm yên rất lâu cho tới khi hơi thở của cô bé bắt đầu đều đặn, vì cô đã chìm vào giấc ngủ. Thế là nó lấy áo khoác lanh của mình đắp cho cô bé và cũng bắt đầu ngủ.

Bây giờ chúng nó phải để hai người đi săn, bọn trẻ ăn rất nhiều vì đói. Thức ăn của chúng là những con thỏ sa mạc mà chúng bắt gặp gần cuối những cồn cát, hay đang lang thang bên bờ hồ. Hay những con đa đa màu xám mà chúng tìm được giữa bãi cỏ cao vút khi trời chập tối. Chúng bay thành từng đàn trên bãi đất bằng, và những viên đá rít lên cắt ngang đường bay của chúng. Có cả những con chim cút bay sát mặt cỏ, phải đặt hai ba hòn sỏi trong ná mới hạ được chúng. Gaspar rất thích chim, và cảm thấy tiếc vì phải giết chúng. Nó thích nhất là mấy con chim nhỏ lông xám có hai chân dài, hay bỏ trốn bằng cách chạy trong cát, và buông những tiếng kêu chói tai kỳ khôi:

— Cuốc-li! Cuốc-li! Cuốc-li!

Chúng đem chim về cho Khaf bé bỏng để cô bé lặt lông. Rồi cô bé lấy bùn để bọc chúng lại và nướng trong đám than hồng.

Abel và Gaspar luôn đi săn cùng nhau. Thỉnh thoảng Abel gọi bạn mình dậy mà chỉ cần nhìn chăm chú, không gây ra tiếng động nào, hệt như lần đầu tiên. Gaspar mở mắt, tới phiên nó đứng dậy và ôm cái ná cỏ trong lòng bàn tay. Kẻ trước người sau, chúng băng qua đồng cỏ lớn, trong ánh xám bạc của bình minh. Chốc chốc Abel lại dừng lại để lắng nghe. Gió thổi trên những ngọn cỏ đem theo các âm thanh của cuộc sống, và mùi vị. Abel lắng nghe, rồi cậu bé khẽ đổi hướng. Những tiếng động trở nên rõ ràng hơn. Bầy sáo đá nhốn nháo trên trời, đám bồ câu rừng cùng nhau tỉ tê, ta phải phân biệt chúng với tiếng côn trùng và tiếng cỏ kêu sào sạo. Hai tên nhóc bé len giữa bụi cỏ cao như những con rắn, không một tiếng động. Mỗi đứa cầm ná của mình trong tay, đã sẵn sàng, và một hòn sỏi bên tay trái. Khi đến nơi bầy chim đang ngồi nghỉ, chúng tách nhau ra và đứng thẳng dậy trong lúc xoay ná. Đột nhiên, bầy sáo đá bay vọt lên trời. Hai đứa nó lần lượt mở tay phải ra, và đá rít lên hạ gục bầy chim.

Khi chúng quay về nhà, lũ trẻ đã nhóm lửa, và Khaf bé bỏng đã chuẩn bị mấy chậu nước. Chúng cùng nhau ăn thịt chim, trong khi mặt trời hiện ra trên những ngọn đồi, bên kia Genna.

Sáng, nước trong hồ có màu kim loại. Lũ muỗi và nhện nước rượt đuổi nhau trên mặt nước. Gaspar dẫn cô gái nhỏ đi vắt sữa dê. Nó giúp cô bé giữ đầu các con thú, trong khi cô trút cạn mấy bầu vú vào những xô lớn. Cô bé làm việc đó một cách âm thầm, không ngẩng đầu lên, vừa làm vừa ngâm khe khẽ một bài hát trong thứ tiếng kỳ lạ của cô. Rồi chúng quay về nhà để đem sữa cho những đứa khác.

Hai thằng bé nhỏ tuổi nhất (Gaspar nghĩ chúng tên là Augustin và Antoine, nhưng nó cũng không thật chắc lắm) dẫn nó đi tháo các bẫy thú, nằm bên kia hồ, nơi đầm lầy bắt đầu xuất hiện. Trên đường đi của lũ thỏ, Antoine đã để vài nút thòng lọng làm từ những cọng cỏ bện với nhau, cột vào những cành cây nhỏ cong cong. Thỉnh thoảng chúng cũng tìm được một con thỏ đã bị xiết cổ, nhưng thường chúng chỉ thấy mấy sợi thòng lọng đứt, hoặc mấy con chuột mà chúng phải ném ra xa. Cũng có khi bầy con chó hoang đi qua trước và xơi mất chiến lợi phẩm của chúng.

Với sự giúp đỡ của Antoine, Gaspar đào một hào đất hòng chộp một con cáo. Nó che cái hào lại bằng đất và mấy cành cây nhỏ. Rồi nó dùng da thỏ còn tươi chà lên con đường dẫn tới hào. Cái bẫy còn nguyên trong nhiều đêm, nhưng rồi một buổi sáng, Antoine trở về, mang theo thứ gì đó trong áo của mình. Khi nó mở cái gói ra, bọn trẻ thấy một con cáo nhỏ xíu đang nhíu mắt lại vì ánh nắng. Gaspar nắm con cáo ngay lớp da nơi cổ như nắm một con mèo, và đưa cho Khaf bé bỏng. Lúc đầu, chúng có hơi sợ lẫn nhau, nhưng cô bé cho con cáo uống sữa dê trong lòng bàn tay mình, và chúng trở thành bạn tốt của nhau. Tên con cáo là Mim.

Ở Genna, thời gian trôi qua không như những nơi khác. Có lẽ ngày ở đây cũng chưa bao giờ thực sự trôi qua. Có những buổi tối và những buổi sáng, và nắng từ từ lên cao, giữa bầu trời xanh, và các bóng râm nhỏ dần, rồi lại trải dài trên mặt đất, nhưng tất cả chẳng còn quan trọng như trước đây nữa. Gaspar không để tâm đến chuyện đó. Đối với nó, dường như ngày nào cũng là một ngày như nhau, một ngày thật dài, dài thật dài, một ngày lặp lại nhiều lần và không bao giờ có hồi kết.

Cả thung lũng Genna cũng thế, nơi đây không có điểm kết thúc. Người ta chưa bao giờ khám phá hết toàn bộ vùng đất này. Người ta không ngừng tìm ra những chỗ mới, nơi chưa ai đặt chân tới trước đây. Bên kia hồ, chẳng hạn, có một bãi cỏ vàng ươm và thân ngắn, và một loại đầm lầy mọc đầy chỉ thảo. Lũ trẻ tới đó để hái sậy về cho Khaf bé bỏng đan giỏ.

Chúng dừng lại bên đầm lầy, và Gaspar nhìn dòng nước chảy khúc khuỷu giữa những hàng sậy. Bầy chuồn chuồn to bay la đà trên mặt nước, vẽ những bóng mờ mờ. Nắng chiếu gay gắt, và không khí thì ngột ngạt. Đám muỗi múa may trong ánh sáng nằm quanh đầu lũ trẻ. Trong khi Augustin và Antoine hái sậy, Gaspar lội vào giữa đầm lầy. Nó vừa đi vừa vạch lá sang hai bên, chậm thật chậm, cẩn thận thăm dò lớp bùn bằng hai bàn chân không, chẳng mấy chốc mà nước đã dâng tới hông. Một làn nước mát lành và lặng lẽ, và Gaspar cảm thấy rất dễ chịu. Nó tiếp tục đi trong đầm lầy khá lâu, rồi, bỗng nhiên, xa xa trước mặt, nó đã thấy, con chim trắng to lớn ấy đang bơi trên mặt nước. Bộ lông của nó tạo thành một đốm sáng trên mặt nước xám xịt của đầm lầy. Khi Gaspar lại gần quá, con chim bật dậy, đập cánh và bay ra xa vài thước.

Gaspar chưa thấy con chim nào đẹp như thế. Nó sáng như bọt biển, giữa cả một đồng cỏ và bãi lau sậy. Gaspar ước gì có thể gọi tên con chim, trò chuyện cùng nó, nhưng không muốn làm cho nó sợ. Thỉnh thoảng, con chim trắng dừng lại nhìn Gaspar. Rồi nó bay thêm một chút, vẻ thờ ơ, bởi vì đầm lầy này là của nó và nó chỉ muốn ở một mình.

Gaspar đứng yên lâu thật lâu trong nước, ngắm con chim trắng. Lớp bùn dịu dàng phủ quanh chân nó, và mặt nước vẫn cứ lấp lánh ánh sáng. Rồi, một lúc sau, con chim tiến lại gần Gaspar. Con chim không vẻ gì sợ hãi, bởi đầm lầy thực sự thuộc về nó, chỉ thuộc về nó mà thôi. Nó chỉ muốn ngắm kẻ lạ mặt kia đứng bất động ngâm mình trong nước.

Tiếp sau đó, con chim bắt đầu múa. Nó vỗ cánh, tấm thân trắng buốt nhẹ bay trên mặt nước. Mặt nước lung lay, làm kích động đám lau sậy. Rồi con chim lại hạ cánh xuống, và bơi, vẽ các vòng tròn quanh cậu bé. Gaspar ước gì có thể nói chuyện với con chim, bằng ngôn ngữ của loài chim, để nói rằng mình thực ngưỡng mộ nó, rằng mình sẽ không làm hại nó, rằng mình chỉ muốn kết bạn cùng nó. Nhưng nó không dám phát ra bất cứ tiếng động nào với giọng nói của mình.

Mọi thứ thật yên tĩnh ở nơi đây. Ta không còn nghe thấy tiếng của bọn trẻ bên bờ sông hay tiếng sủa ăng ẳng chói tai của bầy chó. Chỉ còn tiếng gió thoảng trên bãi sậy làm rung rinh các cọng chỉ thảo. Không còn đồi đá, cồn cát, chẳng còn một ngọn cỏ nào nữa. Chỉ có dòng nước óng ánh màu kim loại, và bầu trời, và đốm sáng của con chim lướt trên đầm lầy.

Bấy giờ, con chim chẳng để ý đến Gaspar nữa. Nó bơi và tìm mồi trong vũng bùn với những động tác nhanh nhẹn của chiếc cổ dài. Rồi nó nằm nghỉ, giang rộng đôi cánh trắng, rất ra dáng của một ông vua, kiêu kỳ và bàng quan, ngự trên thủy quốc của mình.

Rồi bỗng nhiên, con chim đập cánh, và cậu bé thấy thân hình mang màu bọt nước của nó từ từ bay lên, trong khi kéo lê hai chân sau trên mặt nước như hai chiếc phao của thủy phi cơ. Con chim cất cánh và bay vút lên bầu trời. Nó bay ngang mặt trời rồi mất hút, lẫn vào ánh sáng.

Gaspar vẫn đứng bất động trong nước, hy vọng con chim sẽ trở lại. Rồi sau đó, trong lúc lần theo tiếng nói của lũ trẻ để quay về, nó thấy một đốm kỳ lạ trước mắt mình, một đốm sáng như bọt biển di chuyển cùng với ánh mắt của nó và trốn trong đám sậy màu xám.

Nhưng Gaspar rất hạnh phúc, nó biết rằng mình đã gặp vua xứ Genna.

Hatrous, đó là tên con dê lớn màu đen. Nó sống bên kia đồng cỏ, giáp với những cồn cát, giữa đám dê cái và bầy cừu. Augustin là người trông chừng Hatrous. Thỉnh thoảng, Gaspar tới tìm thằng bé. Nó tới gần đó sau khi băng qua bãi cỏ cao vời vợi, vừa đi vừa huýt sáo và la hét để báo hiệu trước, như thế này:

— Ya-ha-ho!

Và nó nghe tiếng Augustin đáp lại từ xa.

Chúng ngồi xuống đất, và ngắm con dê đực cùng đàn dê cái, không nói tiếng nào. Augustin nhỏ hơn Abel rất nhiều, nhưng nó có vẻ nghiêm nghị hơn. Nó có một gương mặt phẳng lì ít khi mỉm cười, và đôi mắt sâu thẳm dường như lúc nào cũng nhìn thẳng sau lưng ta, đâu đó gần đường chân trời. Gaspar rất thích ánh mắt nhuộm vẻ bí hiểm của thằng bé.

Augustin là đứa duy nhất có thể tới gần con dê đực. Nó bước thật chậm về phía con dê, thầm thì vài câu, những câu dịu dàng và ngân nga, và con dê ngừng ăn, nhìn thằng bé và căng tai lên. Con dê có ánh mắt giống như Augustin, cũng đôi mắt to hình hạnh nhân óng ánh vàng và sẫm màu, như thể nhìn xuyên qua người bạn.

Gaspar ngồi cách đó một khoảng để không quấy rầy con dê. Nó rất muốn lại gần Hatrous, vuốt ve cặp sừng và bộ lông dày trên trán nó. Hatrous biết rất rất nhiều thứ không phải những thứ ta đọc thấy trong sách vở, những thứ mà con người hay nhắc đến, mà là những thứ êm đềm và mạnh mẽ, những thứ chứa đầy vẻ đẹp và sự huyền bí.

Augustin đứng một lúc lâu, dựa vào con dê. Nó cho con dê ăn cỏ và rễ cây, và không ngừng nói thầm vào tai Hatrous. Con dê ngừng nhai cỏ để nghe giọng nói của thằng bé, rồi nó đi vài bước, lúc lắc đầu, và Augustin bước theo nó.

Hatrous đã nhìn thấy toàn bộ mặt đất, bên trên những cồn cát và những đồi đá. Nó biết cả những thảo nguyên, những đồng lúa, những hồ nước, những bụi cây và những con đường mòn. Nó biết những vết chân cáo, và cả lũ rắn, hơn bất kỳ ai. Đó là những thứ mà nó dạy cho Augustin, mọi thứ thuộc về sa mạc và đồng bằng, mà chúng ta phải mất cả đời để học.

Con dê đứng gần thằng bé, gặm cỏ và rễ cây trong tay nó, lắng tai nghe những lời nói dịu dàng và ngân nga ấy, lông ngay dọc sống lưng dựng nhẹ. Sau đó, nó lắc đầu, cặp sừng làm vài chuyển động đột ngột. Rồi nó nhập bầy với đàn gia súc.

Bấy giờ Augustin mới quay lại ngồi cạnh Gaspar, và chúng cùng nhau nhìn con dê đen tiến dần về giữa bầy dê cái đang nhảy múa. Hatrous dẫn chúng tới một bãi khác, xa hơn một chút, nơi cỏ vẫn còn tươi nguyên.

Lại còn con chó của Augustin. Thật ra đó không hẳn là con chó của nó, mà chỉ là một con chó hoang như những con khác, nhưng luôn ở lại gần Hatrous và đàn gia súc, và Augustin trở thành một người bạn của nó. Tên nó là Noun. Đó là một con chó săn thỏ lông dài màu vàng như những hạt cát, với một cái mũi thon thon và cặp tai cũn cỡn. Thỉnh thoảng, Augustin cũng chơi với nó. Thằng bé huýt sáo giữa mấy ngón tay và gọi tên nó:

“Noun! Noun!”

Thế là những ngọn cỏ cao vút dạt ra và Noun bay tới, buông những tiếng sủa ngắn. Nó dừng lại, đứng trên hai chân dài, bụng phập phồng. Augustin giả vờ ném một viên đá, rồi lại hét lên:

“Noun! Noun!”

và chạy băng qua bãi cỏ. Con chó săn vừa sủa vừa chạy tung tăng sau thằng bé, nhanh như một mũi tên. Và vì chạy nhanh hơn hẳn thằng bé, nó cứ phải đánh những vòng dài giữa bãi đất bằng, nhảy qua những tảng đá, rồi dừng lại, mõm hếch lên, nghe ngóng. Nó nghe thấy tiếng của Augustin gọi lần nữa và lại chạy tới. Chỉ sau vài cú phóng, nó đã tới bên Augustin, ngay giữa bãi cỏ, và làm ra vẻ như đang tấn công thằng bé, trong lúc gầm gừ. Augustin ném cho nó những viên đá, rồi lại chạy trốn, trong khi con chó săn chạy quanh người nó. Cuối cùng, cả hai cũng ra khỏi bãi cỏ, không thể thở ra hơi.

Hatrous không thích những tiếng động này mấy. Nó thở hổn hển và dậm chân vì tức giận, và dẫn đàn gia súc đi xa hơn. Khi Augustin trở lại ngồi cạnh Gaspar, con chó săn nằm trên mặt đất, hai chân sau gập lại, hai chân trước d