Chương IV MỌI NGƯỜI NGÓNG ĐỢI-1
Chi tiết, cuộc đấu súng lan nhanh khắp thành phố và gây một ấn tượng lớn lao: mọi người đổ xô đứng về phía Nicolai. Nhiều người vốn thù nghịch nay lại tuyên bố là bạn hữu của anh. Lí do chính làm đảo lộn dư luận chung một cách bất ngờ là sự can thiệp của một nhân vật từ lâu vẫn im hơi lặng tiếng nay lại phát biểu những phán đoán rất thích đáng và thu hút tất cả đầu óc, khoác lên biến có một ý nghĩa mới lí thú. Câu chuyện xảy ra như sau:
Hôm sau cuộc đấu súng, mọi người tai mắt trong thành phố họp mặt tại nhà bà nghiệp chủ đầu tỉnh để mừng sinh nhật của bà. Ngôi sao của buổi tiệc là bà Julia fon Lembke, tháp tùng phu nhân là Liza, đẹp rực rỡ và tràn trê hạnh phúc - đĩ nhiên sự kiện này gây nên mối ngờ vực trong giổi các bà ngay tức khắc. Chuyện đính hôn của nàng với Mavriki Drozdov không ai còn nghi ngờ nữa. Đáp lại câu hỏi pha trò của một ông tướng hồi hưu, nhưng vẫn còn ảnh hưởng (sẽ nói thêm về ông sau này) chính Liza trả lời thắng thắn rằng nàng đã đính ước; nhưng vì lí do nào đó quí bà hiện diện không ai muốn tin chuyện đính hôn này. Tất cả ngoan cố phỏng đoán có điều ẩn khuất gia đình gì đó trong chuyện đính hôn và có bí mật đã xảy ra ở Thụy Sĩ; và chẳng hiểu sao quí bà một mực cho rằng bà Lembke có dính vào. Thật khó mà giải thích vì sao những lời đồn đại, hay đúng hơn những sự tưởng tượng này, lại cứ khăng khăng cố chấp như vậy, hoặc là tại sao phải có bà Lembke nhúng tay mới được. Giờ đây ngay khi bà Lembke bước vào, tất cả cặp mắt tò mò đổ dồn về phía bà.
Cũng phải lưu ý rằng vì cuộc đấu súng xảy ra còn nóng hổi và vì những tình tiết đặc biệt bao quanh nó, mọi người chỉ e dè to nhỏ với nhau, vả chưa ai biết được thái độ của nhà cầm quyền ra sao. Cho đến bây giờ chỉ được biết không có đấu thủ nào bị làm khó dễ. Chẳng hạn như sáng hôm sau cuộc đấu súng, Gaganov trở về dinh cơ Dukhov mà chẳng thấy sự can thiệp nào của chính quyền. Vì vậy ai nấy đều nóng nảy trông đợi có người lên tiếng trước tiên về vấn đề, mở cửa khai thông sự nôn nóng chung. Họ đặt tất cả hi vọng vào ông tướng mà tôi đã nói qua ở trên, và quả nhiên ông ta không phụ lòng mong đợi của mọi người.
Ông tướng là hội viên nòng cốt của câu lạc bộ thành phố. Ông không thuộc giới điền chủ giàu có nhất địa phương, nhưng lại nhiều sáng kiến độc đáo, có số đào hoa và thích phát ngôn mạnh bạo những đề tài cấm kị trước đám đông mà người khác chỉ dám rỉ tai thôi. Nên vai trò của ông nổi bật trong các buổi họp mặt thù tạc của chúng tôi. Ông có lối nói kiểu cách, đớt giọng và dằn từng tiếng. Ông hấp thụ thói quen này có lẽ ở những người Nga có xuất ngoại, hay ở những điền chủ giàu sang một thời nhưng bại sản vì sự giải phóng nông nô và đối với họ nói năng thanh lịch là dấu hiệu của địa vị mình. Một hôm ông Xtepan Verkhovenxki mỉa mai rằng một điền chủ càng bại sản thì càng nói đớt và dằn giọng không ít.
Vị tướng kể lại vấn đề rành mạch, không những chỉ vì ông là bà con xa với Gaganov - mặc dù giữa họ đã có cãi vã phải đưa nhau tới cửa công phán xử - mà còn vì thuở thanh xuân chính ông đã can dự hai vụ quyết đấu, và vì thế có lần bị giáng làm lính trơn ở miền núi Cavcaz. Có người nói tới chuyện bà Varvara đã đi ra ngoài lại kể từ sau cơn đau yếu của cậu con; đúng ra là khen nức nở bốn con ngựa xám của chiếc xe bà (những con ngựa chăn nuôi tại trại riêng của họ Xtavroghin) hơn là nói tới chính cá nhân bà. Thình lình ông tướng tuyên bố rằng ông đã gặp “chàng tuổi trẻ Xtavroghin” cưỡi ngựa sáng ngày. Mọi người im phăng phắc ngay tức thì. Ông tướng vừa tắc lưỡi vừa xoay xoay chiếc hộp đựng thuốc lá bằng vàng (chắc là quà tặng của một quí nhân nào đó) trong tay và tuyên bố bất ngờ rằng:
- Tôi thực lấy làm tiếc không có mặt ở đây mấy năm vừa rồi. Tôi muốn nói: bấy giờ tôi ở Carlxbad... Tôi rất, ờ - tôi rất quan tâm đến thanh niên đó. Tôi nghe nói rất nhiều về anh ta khi tôi trở về. Hừ. Chuyện anh ta mất trí có thật không? Đôi người đã quả quyết đúng như vậy. Kế đến, tôi nghe nói rằng có một sinh viên làm nhục anh ta trước mặt vài người bà con phái nữ và anh ta phải chui luồn dưới bàn. Và bây giờ Xtepan Siotxki vừa kể cho tôi biết, chàng Nicolai đấu súng với Gaganov. Dường như anh ta thách thức hắn với mục đích duy nhất là giơ đầu chịu cho một kẻ đang cơn thịnh nộ đập, chỉ cốt để được yên. Hừ... đó là trở lại truyền thống của ngự lâm quân từ hồi 1820. Có ai ở đây quen anh ta không?
Ông tướng ngừng nói như đợi câu trả lời. Cánh cửa dư luận đã mở. Thình lình tổng đốc phu nhân nói toang lên - bà bối rối vì bao nhiêu cặp mắt chợt đổ dồn về như theo một mệnh lệnh:
- Chuyện giản dị quá mà! Có gì đáng ngạc nhiên khi Nicolai đấu súng với Gaganov mà chẳng có hành động nào đối với người sinh viên? Dù sao đi nữa cậu ta cũng không thể thách thức đấu súng với một người vốn là nông nô của mình, phải vậy không?
Những lời nặng cân này đưa ra một lối giải thích đơn giản và rõ ràng chưa ai hề nghĩ tới, thật có hậu quả vô lường! Mọi dấu hiệu của bép xép và tai tiếng tức thì lùi xa vào hậu trường nhường sân khấu lại cho hình thái mới. Những nét phác họa một gương mặt mới hiện ra. Gương mặt của một người thường bị hiểu lầm, một người triệt để tuân giữ khuôn phép xã hội. Chịu đựng sự lăng nhục chí tử của người sinh viên, nghĩa là một người học thức và độc lập, chàng chẳng đếm xỉa bởi vì kẻ lăng nhục này là một tên nông nô cũ. Xã hội thượng lưu sững sờ và coi rẻ kẻ bị tát tai nhục nhã, nhưng kẻ đó khinh miệt ý kiến của họ, vì biết rằng họ thực sự chẳng hiểu tí gì lề lối cư xử, mặc dầu họ thi nhau mà phát biếu ý kiến. Một ông quí phái trọng tuổi, hội viên của câu lạc bộ, nói với người kề bên, hăng hái tự phê:
- Đó, thế mà chúng ta lại đi thảo luận về lối xử sự đúng cách!
Người kia nhiệt liệt tán đồng:
- Thưa ngài, đúng, đúng đấy ạ. Người ta không thể nào đoán được rồi ra giới trẻ sẽ hành động gì.
Một hội viên khả kính thứ ba lên tiếng phản đối:
- Vấn đề ở đây không phải là một cá nhân trong giới trẻ nói chung. Đây không phải là một thanh niên tầm thường mà là một thanh niên gương mẫu sáng chói nhất. Phải nhìn vấn đề như vậy mới đúng.
- Vâng, ở đây chúng ta cần những người như vậy. Chúng ta đang thiếu những người quí phái đích thực.
Chủ điểm của vấn đề là thần tượng mới, người đã chứng tỏ có nghị lực, và còn là nhân vật danh gia vọng tộc trong tỉnh, như vậy người ấy không thể không có một giá trị trọng đại trong sinh hoạt xã hội. Tôi đã nói qua trạng thái tinh thần của giới nghiệp chủ địa phương. Nhiều người phấn khởi vô cùng. Kẻ thì vạch ra rằng:
- Chàng không những không thèm thách tên sinh viên đấu súng mà còn quyết chắp tay sau lưng không đụng vào hắn. Thưa ngài, đó mới là đáng kể.
- Chàng cũng không lôi hắn ra tòa nữa chứ!
- Anh cũng không màng việc có thể được bồi thường mười lăm đồng danh dự vì tên kia có hành vi lăng nhục cá nhân đối với một người quí phái chính tông, ha-ha-ha!
Một người khác xen vào, không kém hăng say:
- Xin để tôi kể cho quí vị về tòa án mới của chúng ta. Nếu một người phạm pháp quả tang ăn cắp hay biển thủ, điều tốt nhất cho hắn có thể làm là chạy ngay về nhà giết mẹ mình. Người ta sẽ tha bổng hắn tức khắc và phụ nữ trong phòng xử sẽ vẩy khăn tay hoan nghênh hắn. Tin tôi đi, đó là sự thật!
- Rất đúng, rất đúng!
Dĩ nhiên người ta không thể bàn luận mà không nhắc lại những chuyện cũ. Người ta nhớ tới mối liên hệ của Nicolai với bá tước K... con người độc lập và có thái độ thù nghịch với những cải cách gần đây. Ông nổi tiếng hoạt động, mặc dù gần đây ông đã tiết giảm phần nào. Và bây giờ công chúng đột nhiên đoán chắc rằng Nicolai đính hôn với một ái nữ của bá tước, mặc dù lời đồn đại thực vô căn cứ. Còn như những sự phiêu lưu bí ẩn của Xtavroghin ở Thụy Sĩ với Liza Tusina, ngay cả các quí bà cũng chẳng buồn bàn tới nữa. Xin nói thêm là bây giờ bà Drozdova và con gái đã đánh một vòng thăm viếng đầy đủ mọi người. Liza giờ đây chỉ bị coi như một thiếu nữ đóng bộ mắc bệnh thần kinh thôi. Và người ta cho rằng nàng ngất xỉu vào ngày Nicolai đến chỉ là vì tên sinh viên kia có hành vi thô bạo bức hiếp Nicolai. Ngay cả những biến cố mà ngày hôm trước người ta còn tìm kiếm những lối giải thích lạ lùng, thì bây giờ họ gạt qua như chuyện tầm thường. Và người ta quên hẳn cô gái què liên quan đến chuyện đó - lại còn ngượng không nhắc tới nữa. “Dù cho cậu ta trong đời có lang bang với cả trăm cô gái què cũng có hề chi? Chúng ta ai không có lần trẻ dại?” Nhiều người bình phẩm về lòng tôn kính mẹ của Nicolai và tìm những đức tính khác gán thêm cho anh. Người ta hết lời ca tụng nền nếp giáo dục anh hấp thụ bốn năm ròng rã ở các trường đại học bên Đức. Tư cách của Gaganov bị mọi người lên án không tha thứ được, và bà Lembke giờ đây được tất cả nhìn nhận là người trông xa hiểu rộng.
Cho nên khi xuất hiện, Nicolai được đón tiếp trong bầu không khí trang nghiêm hơn nhiều. Nhận thấy ai nấy đều nhìn mình với vẻ mong chờ những điều lớn lao, anh bèn đắm mình ngay vào sự im lặng thăm thẳm, điều đó làm cử tọa thỏa mãn vô vàn hơn là nếu anh thuyết tràng giang đại hải với họ. Tóm lại anh không thể làm cái gì sai - anh là thần tượng. Trong xã hội tỉnh lẻ, một người đã có lần xuất hiện thì người ấy không thể nào lẩn tránh được nữa; và Nicolai một lần nữa lại hoàn thành những bổn phận xã hội một cách tế nhị và mĩ mãn. Tất nhiên người ta không hoan hô anh như một người khách vui tính cợt đùa. Người ta bảo nhau:
- Người này đã nếm đủ đắng cay trong đời, chứ không như người khác. Anh ấy có lí do để trầm ngâm tư lự.
Ngay như thái độ kiêu căng khinh khỉnh của anh, trong bốn năm rồi chỉ mang lại toàn thù ghét, thì bây giờ làm mọi người xúc động và thán phục. Bà Varvara đắc thắng, mặc dù bà phải buồn tiếc về dự định hôn nhân của con bà với Liza tan vỡ. Dĩ nhiên lòng tự cao về gia đình dự phần không ít trong thái độ của bà. Nhưng điềụ lạ lùng hơn hết là bà hóa ra tin tưởng rằng con bà thực sự đính hôn với ái nữ của bá tước K..., mặc dù bà cũng như mọi người khác chỉ nghe theo những lời đồn đại mà không dậm hỏi lại thẳng với con bà. Chỉ một đôi lần không thể kìm lòng, bà thầm trách đứa con thiếu cởi mở với bà. Nicolai chỉ cười và giữ im lặng, đối với bà thái độ đó có nghĩa là xác nhận. Nhưng bà không thể quên cô gái què. Ý nghĩ về nàng như tảng đá đè nặng trong lòng. Đó là cơn ác mộng chập chờn hình ảnh quái đản và những linh cảm trộn lẫn với mộng ước về ái nữ của bá tước. Chúng ta sẽ trở lại chuyện này. Khỏi phải nói cũng biết rằng bà Varvara chiếm lại sự nể trọng tột độ mà xã hội xưa kia đã dành cho bà, nhưng bây giờ bà không hưởng được là bao vì chẳng mấy khi bà ra khỏi nhà.
Song le bà đến thăm tổng đốc phu nhân một cách trọng thể, hiển nhiên vì bà cảm kích sâu đậm những lồi của phu nhân trong buổi tiệc hơn là của những người khác. Những lời nói ấy đã hóa giải rất nhiều bất bình đè nặng trong lòng người đàn bà đáng thương từ cái ngày chủ nhật không may mắn nọ. Bà xúc động và nói: “Tôi đã hiểu lầm bà ta!” Nhưng với bà Lembke thì bà Varvara chỉ nói suông là bà đến cám ơn. Tổng đốc phu nhân được tâng bốc tận mây xanh, nhưng phu nhân vẫn giữ vẻ thờ ơ và tự chủ. Bấy giờ phu nhân nhận thấy rõ ràng giá trị của mình. Thực ra, phu nhân có lẽ nhận thức hơi quá đáng về mình. Chẳng hạn như trong câu chuyện phu nhân tuyên bố rằng bà chưa hề nghe nói gì tới hoạt động của Xtepan Verkhovenxki hay là tiếng tăm về sở học của ông.
- Dĩ nhiên tôi chấp nhận, cậu Piot’r - tôi rất thích cậu. Tính cậu hay bốc đồng, nhưng cậu còn trẻ, và tôi phải nói là cậu biết rất nhiều. Dù sao đi nữa cậu không phải là một nhà phê bình già về hưu.
Bà Varvara vội vàng chỉnh phu nhân về điểm trên: Xtepan Verkhovenxki không hề làm nhà phê bình bao giờ. Bà giải thích, trái lại ông đã luôn luôn sống trong nhà bà. Nhưng ông nổi tiếng vì hoàn cảnh liên hệ đến sự nghiệp của ông, “sự nghiệp trước kia của ông mà thiên hạ ai cũng biết khỏi nhắc lại”. Sau đó ông nổi danh vì những tác phẩm viết về lịch sử Tây Ban Nha, và hiện giờ ông định viết về các viện đại học Đức hiện đại và chắc còn viết cả về họa phẩm Đức Bà ở thành phố Dresden. Rõ ràng là bà Varvara không chối bỏ Xtepan Verkhovenxki trước sự khinh thị của Julia fon Lembke.
- Họa phẩm Đức Bà ở Dresden ư? Chắc bà muốn nói tới tác phẩm Đứa Bà Sistine phải không? Bà chị Varvara của tôi ơi, tôi phải thú nhận là tôi đã ngồi trước tác phẩm đó hằng hai giờ đồng hồ liền và tôi đành bỏ cuộc với thất vọng không ít. Tôi không thể hiểu được nó chút nào và tôi thực ngạc nhiên không biết những nét nguệch ngoạc đó muốn vẽ cái gì. Karmazinov cũng cho là nó khó hiểu. Cho tới nay, kể cả người Nga cũng như người Anh, chẳng ai khám phá được gì mới lạ về bức họa. Tôi có thể nói rằng thế hệ trước chúng ta đã tán tụng nó quá lố.
- Như vậy, tôi kết lụận là bây giờ có một mốt mới.
- Vâng, tôi cho rằng chúng ta không nên gạt bỏ ý kiến của giới trẻ. Người ta đã quá đơn giản gán cho họ nhãn hiệu công xã viên, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta phải có thái độ thông cảm đối với họ. Lúc gần đây tôi đọc mọi thứ - báo chí, tuyên ngôn công xã, và tất cả về khoa học tự nhiên. Tôi gửi mua dài hạn đủ loại tạp chí. Vì chúng ta phải hiểu xã hội mà chúng ta đang sống và những người chúng ta phải chung đụng, có đúng không? Người ta không thể sống suốt đời khép kín trong tháp ngà của mộng tưởng riêng mình. Tôi đã nghĩ nhiều về điều đó, và tôi quyết định phải tử tế với thanh niên, có như vậy mới ngăn được họ tới bờ vực thẳm. Hãy tin tôi đi, bà Varvara, chỉ có chúng ta, những người thuộc xã hội ưu tú, mới giữ họ khỏi rơi xuống đáy vực mà những người già nua ngu xuẩn và hẹp hòi đang xô họ. Thêm nữa, tôi rất vui mừng được biết về ông Verkhovenxki. Bà đã cho tôi một ý kiến: chúng ta có thể dùng ông ấy trong những buổi họp mặt văn nghệ. Tôi sắp sửa tổ chức một cuộc giải trí kéo dài suốt ngày, bán thiệp tham dự, tiền lời giúp các cô giáo tư gia nghèo khổ trong tỉnh chúng ta. Các cô giáo nghèo rải rác khắp nước Nga và riêng trong quận này đã có sáu cô rồi. Cộng thêm với hai nữ điện tín viên, hai nữ sinh viên, và vô số phụ nữ khác muốn học một nghề mưu sinh mà không có tiền trả học phí. Bà Varvara thân mến ơi, thân phận của phụ nữ Nga thật khủng khiếp! Vấn đề này đang được nghiên cứu ở các trường đại học ở nước ta và đã từng được đưa ra trước Hội đồng Quốc gia. Trong cái nước Nga kì lạ này, mọi việc đều có thể xảy ra, chúng ta có thể hướng dẫn sự nghiệp chung vĩ đại này theo đường lối chính đáng chỉ bằng vào sự tử tế và tham gia trực tiếp của mọi tầng lớp xã hội. Ôi, chúng ta thực sự có nhiều người giàu nghị lực hay không? Dĩ nhiên là có nhiều, nhưng lại phân tán khắp nơi. Vậy chúng ta hãy siết chặt hàng ngũ và trở thành lớn mạnh hơn. Tóm lại, tôi sẽ bắt đầu bằng buổi họp mặt văn nghệ buổi sáng, tiếp theo là bữa ăn trưa giản dị, rồi giải lao và sau đó buổi tối là khiêu vũ. Chúng tôi đã nghĩ tới khai mạc cuộc vui buổi tối bằng những màn hoạt cảnh60, nhưng chi phí quá tốn kém, nên chúng tôi quyết định trình diễn một cặp tứ vũ hóa trang tiêu biểu cho những trào lưu văn chương dành tiếng nhất. Ông Karmazinov cho tôi ý kiến hay ho này. Ông ấy giúp tôi nhiều không kể xiết. Và bà biết không, ông sẽ đọc một tác phẩm mới nhất trong dịp này - chưa ai đọc hay nghe nói tới bao giờ. Đó là sáng tác mới nhất và sau cùng, vì sau đó ông ấy sẽ gác bút. Sáng tác này là tác phẩm nhỏ và duyên dáng của ông, mang tên là Cảm tạ. Ông cho rằng cái tên bằng tiếng Pháp thú vị hơn mà lại cũng tế nhị nữa. Thực tình tôi cũng không đề nghị với ông cái tên đại loại như vậy. Tôi thiết tưởng ông Verkhovenxki có thể đọc cho chúng ta một sáng tác tương tự nếu đừng quá dài và quá bác học. Và tôi tin rằng cậu Piot’r sẽ ghé qua bà và cho bà biết chương trình, hay nếu bà cho phép, chính tôi sẽ đánh xe tới. Tôi mong rằng bà không phản đối việc tôi xin ghi tên vào danh sách quan khách của bà. Và tôi sẽ chuyển lời yêu cầu của bà tối ông Verkhovenxki, tôi cố thuyết phục ông ấy nhận lời.
Bà Varvara trở về với lòng khâm phục phu nhân vô cùng, và - chỉ trời mới hiểu tại sao - bà thấy giận ông Verkhovenxki vô kể, người gì khốn khổ làm sao, chỉ ru rú trong nhà suốt ngày, chẳng hay biết gì tất cả biến chuyển bên ngoài.
Buổi chiều con bà và Piot’r đến định gặp bà và ông Verkhovenxki. Vừa thấy họ vào, bà thổ lộ ngay:
- Tôi thấy bà Lembke hết sức quyến rũ, thực không hiểu tại sao trước kia tôi lại có thể nghĩ quấy về bà.
Piot’r nói rằng:
- Và bác phải làm lành với ông già nữa - ông ấy đang khá rầu rĩ. Bác đã xử với ông ấy thực quá tệ. Hôm qua khi ông ấy gặp bác ngồi xe ra ngoài, ông ấy chào bác, nhưng bác quay mặt đi. Bác biết không, chúng ta sẽ tạo ông ấy thành nhân vật quan trọng và tôi cho rằng ông ấy còn hữu ích.
- Ồ, ông ấy sẽ đọc văn trong buổi họp mặt văn chương.
- Tôi đâu có nói tới điều này. Dù sao tôi cũng gặp ông ấy hôm nay, vậy bác có muốn nhắn gì không?
Bà Varvara lưỡng lự:
- Nếu cậu muốn. Song tôi không chắc là cậu có thể sắp xếp được.
Rồi bà nhíu mày:
- Tôi muốn nói chuyện tận mặt với ông ấy. Tôi muốn xác định hẳn một ngày và một nơi mà cả hai có thể gặp được.
- Nhưng hẹn hò chi cho phiền, thì chỉ nói với ông ấy như vậy. Tại sao không để tôi nói ngay với ông ấy cho rồi.
- Tôi tin cậu có thể nói với ông ấy. Nhưng còn điều nữa, cậu nói với ông ấy rằng tôi muốn ông ấy đến tôi và tôi sẽ cho ông ấy biết giờ nào. Nói với ông ấy là tôi nhất định sẽ làm như vậy.
Piot’r cười toe toét và chuồn thẳng. Như tôi còn có thể nhớ được, bấy giờ trông anh ta ngông nghênh đặc biệt, và trút sự nóng nảy lên hầu hết mọi người. Lạ lùng thay mọi người đều tha thứ cho anh ta. Nói chung tất cả dường như cảm thấy rằng anh ta phải được đối xử một cách đặc biệt. Tôi phải ghi nhận nơi đây rằng anh ta rất giận dữ về cuộc đấu súng của Nicolai. Biến cố xảy đến với anh ta thật bất ngờ, lần đầu tiên nghe nói, mặt anh ta tái xanh. Có lẽ nó gần như cái tát vào tự ái của anh ta: anh ta chỉ nghe nói vào ngày hôm sau cuộc đấu súng khi ai ai cũng biết cả rồi. Khi tình cờ gặp Nicolai ở câu lạc bộ, năm ngày sau cuộc đấu súng, anh ta thì thầm với Nicolai:
- Nhưng anh không có quyền đấu súng như thế. Chuyện lạ là lần ấy là lần đầu tiên Piot’r gặp Nicolai ở câu lạc bộ, năm ngày sau cuộc đấu súng, anh thì thầm với Nicolai: “Nhưng anh không có quyền đấu súng như thế”. Chuyện lạ là lần ấy là lần đầu tiên Piot’r gặp Nicolai sau cuộc đấu súng năm ngày, mặc dù thật ra Piot’r hầu như mỗi ngày đều đến thăm bà Varvara.
Nicolai đi qua Piot’r chẳng thèm dừng lại, anh nhìn Piot’r một cách lơ đãng như thể không hay biết gì tới điều Piot’r đang nói. Nicolai đi qua phòng khiêu vũ về phía quầy rượu.
Piot’r rảo bước theo Nicolai - lơ là choàng vai Nicolai và vừa thì thầm:
- Vậy rồi anh còn đi gặp Satov. Và anh còn quyết định công bố cuộc hôn nhân với Maria Lebiadkina nữa.
Thình lình Nicolai hất tay Piot’r và quay lại cau mày đe dọa. Piot’r nhìn chòng chọc Nicolai và môi nhếch nụ cười dài nhằng kì lạ. Nicolai tiếp tục đi.
2Từ nhà bà Varvara, Piot’r đi thẳng tới nhà cha đẻ, nóng nảy trút sự hậm hực lên ông già. Anh ta muốn trả thù ông vì một cuộc tấn công mà tôi không có ý niệm gì. Trong lần gặp nhau cuối cùng, vào ngày thứ năm tuần trước, ông Verkhovenxki xách gậy đuổi Piot’r khỏi nhà, sau hồi cãi vã mà chính ông đã khơi mào. Ông Verkhovenxki bấy giờ che giấu tôi, nhưng giờ đây, khi Piot’r xông vào phòng với cái cười trịch thượng cố hữu, đôi mắt liếc nhanh khắp phòng dò xét bất mãn, ông Verkhovenxki thầm ra dấu cho tôi đừng rời khỏi phòng. Vì vậy tôi có dịp chứng kiến buổi gặp gỡ này từ đầu tối cuối, và tôi nhận ra được tình cảm đích thực của họ đối với nhau.
Ông Verkhovenxki đang nằm duỗi trên trường kỉ. Ông gầy đi và vàng vọt từ thứ năm tuần trước. Piot’r ngồi xuống trường kỉ kế ông ta, thản nhiên xếp chân bằng tròn choán nhiều chỗ như chẳng coi cha ra cái thá gì. Ông Verkhovenxki chững chạc nói chỗ thêm cho anh ta và chẳng hề hé môi.
Một quyển sách mở nằm trên bàn, quyển tiểu thuyết Làm gì? của Chernyshevsky61. Than ôi, tôi phải nhìn nhận nơi đây bạn tôi có một nhược điểm nhỏ nhoi kì quái - ông có ý tưởng từ bỏ sự ẩn dật để hiến thân cho một trận thư hùng cuối cùng. Ý tưởng này càng lúc càng ám ảnh ông nặng nề. Tôi cho rằng ông đang nghiên cứu quyển truyện này để mà đương đầu một sự xung đột trong tương lai với những người mà ông mệnh danh là “lũ quỉ gào thét”, ông sẽ biết trước mánh lới và lí lẽ của họ, thắng từ trong cẩm nang của họ, và như vậy mới có thể bẻ gãy và bài bác họ trước mặt bà Varvara. Ôi quyển sách đã gây biết bao thống khổ cho ông! Có lúc ông không còn chịu nổi nữa, quăng quyển sách qua bên, bước ngang dọc khắp phòng hầu như điên cuồng.
Một lần ông nói với tôi không kịp thở:
- Tôi đồng ý rằng tư tưởng nòng cốt của Chernyshevsky là đúng, nhưng điều đó chỉ làm nó trở nên kinh tởm hơn. Nó là ý tưởng của riêng chúng tôi - chúng tôi là người đầu tiên gieo trồng nó và bồi dưỡng nó. Ngoài ra họ có thể đóng góp được gì mới mẻ đâu? - Ông la to và chộp lấy quyển sách: - Và, trời hỡi, hãy nhìn coi ý tưởng này được diễn đạt ra sao! Nó bị bóp méo và xuyên tạc không tưởng nổi! Anh thực sự không ngờ rằng đó là cái chúng tôi đang nỗ lực tranh đấu, phải không? Còn ai có thể nhận ra là ý tưởng nguyên thủy của chúng tôi trong đó?
Piot’r vừa nhặt quyển sách dưới bàn lên nhìn tên sách vừa nói vừa cười khinh khỉnh:
- Tôi thấy ông đang tìm cách giác ngộ! Đó là đúng lúc. Nếu ông muốn, tôi sẽ mang thêm cho ông nhiều sách hay hơn nữa.
Ông Verkhovenxki làm lơ, giữ im lặng nghiêm nghị. Kế đó Piot’r giải thích vắn tắt mục tiêu đến - thăm cha. Ông Verkhovenxki câm như hến và lắng nghe đứa con một cách lo lắng lẫn với cáu tiết:
- Và như vậy mụ fon Lembke thực sự nghĩ rằng tao sẽ đến và đọc văn tại nhà mụ à? Thực thế sao?
- Ông không hiểu à. Bà ta nào có thực sự cần đến ông đâu. Bà ta chỉ tử tế với ông để lấy lòng bà Varvara thôi. Dù sao đi nữa chẳng cần phải nói cũng hiểu là ông sẽ không dám từ chối, vả lại ông còn khao khát làm việc đó, - Piot’r cười mai mỉa. - Bọn già các ông đều đầy tham vọng quỉ quái. Nhưng nghe đây, ông ráng đừng làm người ta chán ngấy ra. Ông có cái gì để nói? Lịch sử Tây Ban Nha à? Tốt hơn ông đưa tôi liếc qua bản văn trước ngày đọc vài ba hôm, nếu không tôi sợ ông sẽ ru mọi người ngủ mất.
Những lời chỉ trích này quá cục cằn và quá cố ý. Piot’r tỏ ý vụng về rằng không có cách nào khác hơn giao thiệp với cha và anh ta không có khả năng hiểu biết ngôn từ chọn lọc hơn và ý niệm tế nhị hơn. Vì thế ông Verkhovenxki tiếp tục làm ngơ trước sự lăng nhục của con. Tuy nhiên cái tin của Piot’r làm ông xúc động mãnh liệt:
- Và là bà ấy, chính bà ấy, nhờ mày nhắn tao tất cả chuyện này hả?
- Sự thực là bà ta muốn định hẳn một ngày và một nơi cho hai người giãi bầy với nhau; tôi cho đó là dư vị của mối giao du lãng mạn của các người. Ông đã ve vãn đi lại với bà ta trong hai mươi năm qua và làm cho bà ta hành động thật lố bịch. Nhưng ông không cần lo: bây giờ chính miệng bà ta không ngớt nói rằng sau cùng bà ta mới sáng mắt ra về ông. Tôi nói thẳng vào mặt bà ta rằng tất cả tình thân hữu tử tế của đôi bên không khác nào đổ vấy cho nhau. Bà ta kể với tôi không sót chuyện gì và tôi phải nói là tôi quá sững sờ biết rằng ông chỉ như tên đầy tớ cho bà ta trong bấy lâu nay. Nó làm tôi ngượng chín người, ông biết không?
Ông Verkhovenxki không dằn lòng được nữa:
- Vậy tao là đầy tớ của bà ấy hả?
- Tệ hơn nữa kia - ông là tên ăn bám, nghĩa là một tên đầy tớ tự nguyện. Ông rất biếng nhác nhưng lại ham tiền. Đấy, sau cùng tất cả đã mở mắt cho bà ta rồi. Ông phải nghe hết những điều kinh tởm mà bà ta nói về ông bây giờ. À, những lá thư ông viết cho bà ta đó làm tôi cười nôn ruột, mặc dù tôi cũng thấy gớm ghiếc và xấu hổ. Ông đã sa đọa khủng khiếp làm sao - ăn mày làm sa đọa người ta và ông là một thí dụ điển hình.
- Vậy là bà ấy đã đưa mày xem những thư của tao.
- Tất cả. Nhưng làm sao tôi có thể đọc hết được. Hừ, ông đã phung phí giấy mực biết bao! Tôi có thể nói là chừng hai ngàn lá thư. Và ông biết không, ông già, có lúc bà ta đã sửa soạn lấy ông. Ông đã thực ngu ngốc bỏ mất dịp may! Tôi nói theo quan điểm của ông - như vậy nó còn đỡ hơn là “lấy vợ để thế tội cho kẻ khác” như ông bây giờ, chỉ vì bà ấy quyết như vậy và vì bà ấy có thể trả tiền cho ông để làm việc đó.
Ông Verkhovenxki đau đớn hét to:
- Trả tiền cho tao! Bà ấy nói với mày là bà ấy trả tiền cho tao à?
- Chứ ông tưởng bở à? Tôi đã cố gắng bênh vực ông, và sau hết, tiền bạc là sự bào chữa độc nhất cho ông. Bà ta đã hiểu rõ ràng rằng ông, cũng như mọi người khác cần tiền và trên quan điểm này ông có thể có lí. Tôi đã chứng minh với bà ta rõ ràng như hai với hai là bốn rằng đôi bên đều có lợi, bà ta là nhà tư bản còn ông là tên hề tình cảm trong nhà của bà ta. Thật ra bà ta cũng không tức tối những chuyện làm đó của ông vì tiền, mặc dù ông vắt bà ta như con bò sữa. Điều làm bà ta giận dữ là trong suốt hai mươi năm ông bịp bà ta bằng cách đóng trò cao thượng, làm bà ta nói dối với tất cả mọi người từ trước đến nay. Bà ta, dĩ nhiên, sẽ không bao giờ nhìn nhận rằng mình nói dối, nhưng ông có thể tin chắc đi, bà ta sẽ bắt ông trả gấp đôi vì chuyện đó. Tôi tự hỏi làm sao ông có thể không thấy được rằng ngày nào đó ông phải trả tất cả chuyện đó? Ông không đến nỗi ngu si như vậy đâu. Hôm qua tôi đã khuyên bảo bà ta gửi ông vào nhà dưỡng lão. Ồ, đừng lo lắng - dĩ nhiên một nhà dưỡng lão cho những người đàng hoàng; không gì làm thương tổn tự ái của ông. Thực ra tôi tin đó chính là điều bà ta sẽ làm. À, ông còn nhớ lá thư gửi cho tôi cách đây ba tuần lúc tôi ở tỉnh Kharkov không?
Ông Verkhovenxki hét to, ghê sợ:
- Mày không đưa cho bà ấy xem chứ?
- Dĩ nhiên tôi có đưa. Thực ra, đó là điều trước tiên tôi làm. Trong cái thư đó ông báo cho tôi biết rằng bà ta đang lợi dụng ông bởi vì bà ta quá ghen với tài năng của ông, và ông còn kể về chuyện “tội lỗi người khác”. Ôi chao, ông mới tự ái làm sao, ông già! Tôi cười muốn vỡ bụng! Nói chung, những lá thư ông viết thật chán ngắt và cú pháp chịu hết nổi. Tôi thường không đọc chúng và tôi tin còn bỏ đâu đó một cái thư chưa mở. Tôi sẽ gửi trả lại ông ngày mai. Nhưng lá thư sau cùng của ông thực tuyệt! Ôi, phải chi ông được nghe tôi cười!
Ông Verkhovenxki hét to:
- Đồ quỉ vật. Nghiệt súc.
- Tiên sư nó, không thể nói chuyện với ông được. Cho tôi biết, ông lại nổi cáu như ngày thứ năm vừa rồi phải không?
- Ông Verkhovenxki ngồi phắt dậy đe dọa: Mày dám nói với tao như thế à?
- Như thế là thế nào? Ông muốn nói là trắng trợn à?
- Nói tao nghe coi, thằng súc sinh - mày có thực là con tao hay không?
- Ông có đủ tư cách hơn tôi để trả lời câu đó. Mặc dù, dĩ nhiên, người cha nào cũng đều có khuynh hướng tự đánh lừa mình về vấn đề này.
Ông Verkhovenxki nói, toàn thân run lên:
- Câm miệng lại!
- Thấy không, ông đang la và làm nhục tôi như hôm thứ năm rồi, khi đó ông còn giơ gậy dọa tôi. Nhưng tôi đã tìm ra hồ sơ rồi, hiển nhiên, tôi tìm thấy ngay hôm đó. Chỉ vì tò mò, tôi đã bỏ cả buổi chiều lục lạo hành lí để tìm nó. Dĩ nhiên, thật ra chẳng có gì rõ ràng - chỉ là mẩu giấy mẹ tôi viết cho một lão Ba Lan nào đó, ông biết chứ. Nhưng, nếu chúng ta chỉ cần xét tính nết bà ta cũng đủ, và...
- Mày mà nói thêm một tiếng nữa tao tát vỡ mặt.
Thình lình Piot’r quay qua nói với tôi:
- Người gì hay chưa! Ông biết chuyện này giữa chúng tôi đã xảy ra từ hôm thứ năm rồi. Tôi lấy làm sung sướng ông có mặt đây và có thể sẽ phán đoán giùm. Bây giờ ông ta tức giận bởi vì tôi nói tới mẹ tôi như thế. Nhưng chẳng phải ông ta đã nêu nó ra trước ư? Hồi ở Petersburg khi tôi còn là học trò, đêm đêm ông ta đánh thức tôi dậy và ôm tôi vào lòng, khóc nức nở như một bà già. Đó là lúc ông ta kể lể tất cả những chuyện như thế về mẹ tôi. Ông ta đã là nguồn tin gốc của tôi, ông ạ.
- À, bấy giờ tao chỉ nói về những vấn đề thuần túy tâm tư, mày không hiểu tí gì những điều tao nói cả.
- Nhưng dù sao chăng nữa, ông phải nhìn nhận rằng điều ông đã làm còn tồi tệ hơn bất cứ điều gì ông có thể gán cho tôi bây giờ. Cá nhân tôi, tôi không chấp. Tôi đang nghĩ nó đối với ông thế nào. Về phần tôi, ông đừng lo, tôi không trách mẹ tôi: nếu đó là lão Ba Lan thì Ba Lan và nếu đó là ông, thì là ông. Cả hai ông mắc vào chuyện lăng nhăng ngu si như vậy ở Berlin lúc bấy giờ nào có phải lỗi tôi đâu, và theo như những gì tôi biết về ông, tôi khó tưởng được rằng ông có thể hành động khôn ngoan hơn. Ông thực sự là một tên lố bịch và tôi có phải là con của ông hay không, đối với ông có ăn nhằm gì.
Piot’r lại quay sang tôi phân trần:
- Ông hãy nghe này, ông ta chẳng hề tốn cho tôi một đồng bạc. Ông ta chẳng hề ngó ngàng gì tới tôi cho đến khi tôi mười sáu tuổi, và kế đến ông ta cướp đoạt của tôi. Và bây giờ ông ta rêu rao rằng tim ông ta rướm máu vì tôi và đóng trò với tôi như tên hề. Tôi đoán rằng ông ta quên mất rằng tôi không phải bà Varvara.
Anh ta đứng dậy và cầm lấy mũ. Ông Verkhovenxki, trông xanh như người chết, đưa tay thẳng ra về phía đứa con, nói:
- Tao nguyền rủa mày! Tao lấy tư cách người cha mà nguyền rủa mày từ giờ phút này.
Piot’r la to, lần này với ngạc nhiên thực sự:
- A, người đâu mà lắm trò lăng nhăng quá! Thôi chúc ba nhiều may mắn, tôi không trở lại gặp ông nữa đâu. Đừng quên gửi cho tôi bài văn của ông càng sớm càng tốt. Nhớ bớt nhăng nhít và nhiều sự kiện. Phải, sự kiện, sự kiện và sự kiện - nhưng cốt nhất là viết cho gọn. Thôi xin kiếu vậy.
3Thực ra, Piot’r Verkhovenxki có vài kế hoạch muốn sử dụng cha mình. Tôi tin rằng anh ta muốn đẩy người cha đến chỗ tuyệt vọng và rồi đưa ông vào một vụ tai tiếng nào đó, vì những lí do đặc biệt mà tôi sẽ bàn sau này. Anh ta nhiều mưu mô và tính toán hầu hết đều kì quặc như thế đó. Và ngoài người cha ra, Piot’r còn nhằm vào vài nạn nhân khác nữa. Trong số đó, anh ta đặt hi vọng vĩ dại hơn hết không ai khác hơn chính bà tổng đốc fon Lembke.
Tổng đốc Andrei Antonovitr fon Lembke thuộc sắc tộc mạnh và ưu đãi có chừng mấy trăm ngàn người ở nước Nga; họ hợp thành một liên minh khít khao vững vàng đến mức chính họ nhận cũng không ra. Dĩ nhiên nó không phải là một hiệp hội tổ chức có chủ đích và kế hoạch, nhưng là một sự kết hợp sắc tộc tự nhiên, chẳng cần điều khoản minh định nhưng có tính cách cưỡng bách về tinh thần. Mỗi cá nhân có thể trông cậy vào sự nâng đỡ hoàn toàn của bất cứ cá nhân nào khác và của toàn thể sắc tộc, và ngược lại cá nhân đó cũng có bổn phận tương tự như vậy, ở bất cứ đâu và dưới bất cứ hoàn cảnh nào khi cần tới.
Andrei fon Lembke được cái vinh dự theo học một trong những trường cao đẳng của Nga mà bọn con ông cháu cha giàu có thường được gửi đến học. Tốt nghiệp rồi họ được bổ nhậm gần như ngay tức khắc vào những địa vị then chốt trong guồng máy chính quyền. Một ông chú của Andrei chỉ là trung tá công binh, và một ông chú khác nữa làm chủ lò bánh mì, nhưng Andrei vẫn xoay xở vào được một học đường chọn lọc như thế và gặp gỡ nhiều nhân vật của sắc tộc nói trên. Anh là một người bạn vui vẻ và là một sinh viên đần, thường được bạn đồng học ưa thích. Ở những lớp trên, trong khi nhiều người trẻ - phần lớn là người Nga - lo học bình luận về những vấn đề trọng đại đương thời, thì anh còn chú tâm vào những món nghịch ngợm vô tư của học trò. Anh làm mọi người ưa thích bằng những mẹo vặt không lấy gì làm khéo léo cho lắm, đôi lúc còn khá đểu cáng nữa nhưng anh dốc chí vào đó. Đôi lúc giáo sư hỏi tới, anh quẹt mũi trông ngô nghê làm cả lớp và thậm chí giáo sư cũng luôn phải cười rộ lên; trong phòng ngủ anh trình diễn những “màn hoạt cảnh” tục tĩu được mọi người vỗ tay tán thưởng ầm ĩ. Anh sử dụng chiếc mũi như một nhạc cụ biểu diễn tuyệt khéo bản khai tấu khúc của vở Sư huynh Diavolo62. Anh còn nổi tiếng cố tình ăn ở xập xệ mà không hiểu sao anh cho rằng như vậy mới khôn. Trong niên học cuối anh còn bắt đầu sáng tác thơ - bằng tiếng Nga, bởi vì tiếng Đức của anh viết bất thành cú, dù nó là tiếng mẹ đẻ của anh và đó cũng là tình trạng chung của nhiều người Đức ở Nga. Tật sính làm thơ này đã dun dủi cho Andrei thân cận với người bạn đồng song mặt mày thảm não, con một vị tướng nghèo khốn gốc Nga, được mọi người trong trường mệnh danh là ngôi sao sáng trong tương lai trên văn đàn Nga. Người bạn này bao bọc chỉ vẽ Andrei làm thơ. Nhưng khi rời trường ba năm về sau, ngôi sao sáng trong tương lai thảm não này bỏ làm công chức để hiến thân cho văn chương và, kết quả là lang thang lê đôi giày rách với chiếc áo tả tơi vào một ngày cuối thu, răng đánh bò cạp vì lạnh, tình cờ gặp lại người bạn mình đã bảo trợ xưa bên cầu Anichkin. Và độc giả nghĩ gì? Ban đầu anh ta không nhận ra Andrei, đứng sựng và trố mắt nhìn bạn. Anh ta thấy trước mặt mình một người quí phái trẻ trang phục sang không thể chê, ria mép hung đỏ tỉa tuyệt khéo, kính gọng chỉnh tề, giày da chính hiệu, bao tay màu vàng nhạt sạch bóng, áo khoác ấm và tay xách cặp. Andrei đã tử tế với bạn, cho địa chỉ và mời bạn ghé lại nhà chơi vào một buổi tối.
Người bạn học cũ đến thăm Andrei fon Lembke thật hầu như vì ôm hận. Người hầu phòng chặn anh ta lại ở tiền sảnh (phòng này không lịch sự lắm mặc dù có trải thảm nhung đỏ hẳn hoi) và hỏi anh ta muốn gì? Anh ta đi thẳng lên tầng chót và kéo chuông vang dậy. Những tưởng là sẽ gặp cảnh xa hoa, anh ta lại thấy bạn mình ở một căn phòng nhỏ tồi tàn. Căn phòng bị ngăn hẳn một phần bằng bức màn màu xanh sậm, những bàn ghế bọc nệm rách nát cũng màu xanh sậm, những màn của cửa sổ cao và hẹp cũng cùng một màu. Căn nhà này thực ra là của một người bà con rất xa với fon Lembke, một công chức ngang với cấp tướng hiện đỡ đầu cho anh. Fon Lembke trang nghiêm và tế nhị, đón tiếp bạn nồng hậu. Họ thảo luận về văn chương, nhưng chỉ bàn chiếu lệ. Một người, đầy tớ thắt cà vạt trắng hầu trà nhạt với bánh khô. Có ác ý hẳn hoi, khách xin nước ngọt. Rồi cũng có nước ngọt đó, nhưng đôi chút chậm trễ, bởi vì Lembke lại phải phiền hà gọi người tớ sai bảo lần nữa. Sau đó chính Lembke mời bạn ở dùng bữa, nhưng lại mừng ra mặt khi bạn từ chối sau cùng ra về. Thực ra fon Lembke vừa mới ra làm việc và còn sống nhờ vào sự bảo trợ của một nhân vật có địa vị cao trong sắc tộc Đức.
Trong thời gian này, fon Lembke si tình con gái thứ năm của người đỡ đầu mình và mối tình dường như có được đền đáp. Tuy nhiên, rồi nàng đi lấy chồng. Amalia bị đem gả cho một chủ xưởng già người Đức, bạn với cha nàng. Lembke không phí thì giờ nhỏ nước mắt cho mối tình, nhưng đích thân lại làm một nhà hát bằng giấy bồi. Màn nhung kéo lên, diễn viên ra điệu bộ, khán giả ngồi trên ghế, các nhạc sĩ ban hòa tấu kéo cung đàn trên những chiếc vĩ cầm, nhạc trưởng vẩy chiếc đũa đánh nhịp, và ở các hàng ghế đầu giới quí phái lịch sự, những sĩ quan ngự lâm quân vỗ tay tán thưởng. Tất cả đều làm bằng giấy bồi, và hoàn toàn do chính Lembke bỏ ra sáu tháng trường thai nghén và thực hiện.
Vị tướng đỡ đầu Lembke tổ chức một buổi tiếp tân đặc biệt “trong vòng thân mật” để trình làng cái nhà hát đồ chơi đó. Tham dự gồm cả năm ái nữ của ông tướng, kể cả tân giai nhân Amalia và ông chồng chủ xưởng của nàng, cũng như đông đảo quí bà và quí cô với những “hộ tống viên” người Đức của họ. Tất cả đều trầm trồ ngắm nghía cái nhà hát mô phỏng kia; kế đó họ khiêu vũ. Lembke rất hài lòng và sớm quên ngay hẳn căn bệnh thất tình.
Thời gian qua, sự nghiệp của ông tiến triển. Ông tiếp tục làm việc cho chính phủ và luôn luôn chạy chọt được những chỗ tốt, dưới quyền những ông chủ bao giờ cũng là đồng bào của ông, nhờ vậy sau cùng ông leo lên được một ngạch trật khá cao so với tuổi. Trước đó, ông đã nhất định cưới vợ, vì vậy ông lo tìm kiếm một đám xứng hợp. Lần nọ, chẳng hỏi ý kiến bậc “trên trước”, ông ta gửi một bản thảo tiểu thuyết cho một nhà xuất bản, song bị từ chối. Để bù lại, ông ta tạo nguyên một nhà ga bằng giấy bồi, và thành công rực rỡ: hành khách mang hành lí, rời nhà ga dắt theo trẻ con và chó lên tàu. Những người soát vé và phu khuân vác lăng xăng tới lui giữa đám hành khách. Chuông rung, cờ phất và đoàn tầu lăn bánh. Ông đã để ra chừng một năm trời làm món đồ chơi khéo léo đó. Nhưng khi xong xuôi ông vẫn còn độc thân. Ông quen biết rộng rãi, phần lớn là những người cùng trong sắc tộc, nhưng dĩ nhiên cũng đi lại với người Nga, nhất là trong khi hành sự.
Lúc gần ba mươi chín tuổi, ông mới có của bất ngờ. Người chú chủ lò bánh mì qua đời để lại cho ông mười ba ngàn rúp. Bấy giờ ông chỉ cần một nhiệm sở tốt và an lành. Mặc dù có một địa vị cao trong quan trường, Lembke trong thâm tâm vốn là người thật khiêm tốn sẵn sàng mãn nguyện với một công việc tầm thường miễn là đủ cung ứng cho ông sống dư dả với đôi chút bổng lộc, chẳng hạn như đốc lí mậu dịch gỗ cho nhà nước, hay một công việc an nhàn dễ chịu tương tự. Ông sẽ sung sướng nắm giữ một nhiệm sở như vậy cho đến mãn phần. Nhưng rồi, thay vì một cô Herzen hay Ernestin vớ vẩn nào đó, thì lại chính Julia xen vào cuộc đời ông. Tức thì ông Lembke nhảy vọt lên hẳn một ngạch và người công chức cần cù khiêm tốn kia đột nhiên khám phá ra rằng mình cũng có quyền có một chút tham vọng.
Xét theo tiêu chuẩn thời tiền giải phóng63 Julia sở hữu một dinh cơ với hai trăm nông nô và, đáng kể hơn nữa bà quen biết rất lớn. Ông Lembke bảnh trai, trong khi bà đã ngoại tứ tuần. Điều ngộ nghĩnh là ông thực sự si tình bà. Chuyện xảy ra từ từ, khi ông ngày một nhận thức rõ tình trạng đính hôn của mình. Buổi sáng ngày cưới ông còn trao bà mấy vần thơ. Bà mãn nguyện trọn vẹn - kể cả bài thơ - ngoại tứ tuần không phải trò đùa. Chẳng bao lâu sau ông được thăng chức, được tặng thưởng huy chương và rồi được bổ nhậm tổng đốc tỉnh chúng tôi.
Trước khi họ đến đây, bà Lembke sửa soạn cẩn thận đấng phu quân. Bà cho rằng ông có một vài ưu điểm: ông biết cách bước vào phòng, làm vẻ chững chạc, cách im lặng lắng nghe mà vẫn tỏ hiểu biết; ông đã học được cách đóng vài thái độ oai nghị, có thể nói trước công chúng, và vốn liếng cũng có dăm ba ý tưởng, và cũng làu thông mấy khẩu hiệu chính yếu của chủ nghĩa tự do. Nhưng bà vẫn lo ngại lòng ông đã thành quá nguội lạnh, và sau thời gian dài hăm hở trên hoạn lộ ông chỉ còn có mong mỏi đích thực là được an lành và nghỉ ngơi. Trong khi bà cố sức trút đôi chút cao vọng đầy ăm ắp của mình sang đấng phu quân, thì ông đột nhiên bắt đầu cất một nhà thờ Tin lành bằng giấy bồi với vị mục sư trên tòa giảng đạo cho đám đông bổn đạo chấp tay thành kính lắng nghe (ngoại trừ một người đàn bà đang lấy khăn tay lau nước mắt và một ông lão quẹt mũi). Chiếc phong cầm tí hon - đặc biệt gửi mua từ Thụy Sĩ, chẳng nề giá mắc - trỗi điệu hài hòa. Bà fon Lembke thất kinh khi phát giác vật sáng tạo của chồng, và bà tức tốc khóa nó trong rương để ở phòng bà. Để bù lại, bà cho phép ông viết tiểu thuyết, nhưng phải giữ kín tuyệt đối. Sau đó, bà chỉ trông cậy vào chính mình để đạt những cao vọng của bà.
Nhưng rắc rối cho vấn đề này là bà thực nông nổi, thiếu chừng mực. Bà đã là con gái lỡ thời quá lâu. Càng lúc càng nhiều ý tưởng dồn dập trong đầu óc tham vọng bừng bừng của bà. Bà có những kế hoạch to tát, quyết đích thân cai trị tỉnh nhà, khát khao một sự tùng phục tức khắc, và vì vậy bà phải chọn một khuynh hướng chính trị để theo. Ban đầu ông Lembke có đôi chút lo ngại về nhiệm sở mới, nhưng ông, bằng lối đánh hơi bén nhạy của người công chức, nhận ngay ra rằng, làm quan tổng đốc thực sự chẳng có gì phải sợ sệt. Kế đó Piot’r Verkhovenxki xen vào và các chuyện kì quặc bắt đầu xảy đến. Từ lúc đầu, Piot’r đã tỏ thái độ xuề xòa với quan tổng đốc, nhưng bà Lembke bình thường rất bén nhậy khi có chuyện đụng chạm tới uy tín và địa vị của chồng, lại bỏ qua thái độ của Piot’r hoặc coi như nó chẳng quan trọng. Piot’r được bà quí trọng vô cùng; anh ta ăn, uống và gần như sống hẳn trong nhà bà. Quan tổng đốc chống trả: ông ta gọi anh là “cậu” trước mắt mọi người và vỗ vai anh ra điều kẻ cả, nhưng điều này dường như Piot’r chẳng coi ra mùi mẽ gì. Piot’r ra vẻ cười ngạo nghễ ông: ngay cả lúc anh ta làm mặt nghiêm, và anh ta nói những điều kì quặc nhất với ông trước mặt người khác. Một lần trở về nhà, quan tổng đốc thấy Piot’r nghiễm nhiên ngủ ngay trên ghế dài trong phòng làm việc của ông. Piot’r giải thích rằng anh ta ghé qua thăm ông và nhân ông đi vắng, anh ta “nằm ngả lưng một lúc”. Ông Lembke phật lòng đem chuyện than phiền với phu nhân, bà cười ngặt nghẽo và châm chọc ông rằng chính là lỗi của ông không khiến được “cậu bé” kính trọng, Piot’r không bao giờ suồng sã với bà, hơn nữa bà thấy anh ta “hồn nhiên và tươi tắn”, mặc dù dĩ nhiên là anh ta không rành xã giao cho lắm. Quan tổng đốc vẫn còn hờn mát. Bà giảng hòa cho họ làm lành với nhau. Piot’r không hẳn xin lỗi, anh đùa cợt thô lỗ mà lúc khác có thể coi như một điều lăng mạ mới đối với quan tổng đốc, nhưng bây giờ được cho là dấu hiệu hội ngộ. Piot’r nắm được chỗ nhược của ông Lembke do hành động vụng về của ông khi mới gặp nhau lần đầu ông mang quyển tiểu thuyết của mình ra kể với Piot’r. Ông cho rằng đang tiếp xúc với một người trẻ tuổi nhiệt thành và lãng mạn và ông lại đang khao khát một thính giả, nên thoạt mới quen nhau, Lembke đã đem đọc lớn hai chương trong tác phẩm của ông cho anh ta nghe. Piot’r lắng tai mà vẻ chán ngấy lộ hẳn ra mặt rồi thô lỗ ngáp dài và chẳng hế tỏ một lời tán thưởng. Kế đó, trước khi ra về, anh ta ngỏ lời mượn ông tập bản thảo để đọc một cách trầm tĩnh lúc nhàn rỗi và sẽ góp ý kiến về nó. Quan tổng đốc vui lòng. Từ ngày đó Piot’r vẫn không chịu trao hoàn bản thảo mặc dù anh ta đến nhà ông mỗi ngày, và khi quan tổng đốc hỏi tới, anh ta chỉ cười. Sau cùng, anh ta tuyên bố đánh mất ngoài đường ngay hôm anh mượn nó. Khi bà Lembke hiểu ra toàn câu chuyện, bà nổi cơn thịnh nộ với chồng. Bà la lên, gần như phát điên:
- Tôi hi vọng ít nhất ông chưa khoe với cậu ta cái nhà thờ đồ chơi bằng giấy bồi của ông chứ?
Điều này làm cho ông Lembke suy nghĩ, và suy nghĩ thì không tốt cho ông - theo lời khuyên của bác sĩ. Thêm vào chuyện rắc rối đã xảy ra trong tỉnh - tôi sẽ xin kể thêm sau này - có một vấn đề đặc biệt làm tan nát cõi lòng ông. Điều đó không dính dáng gì đến uy danh địa vị của ông mà chỉ liên quan đến đời tư. Lúc lập gia đình, ông Lembke không bao giờ nghĩ rằng có thể xảy ra chuyện lục đục, lời qua tiếng lại giữa vợ chồng. Điều ấy không hề xuất hiện trong những giấc mơ của ông về những cô nàng Herzen và Emextina của lòng mình. Ông thấy không chịu đựng nổi cảnh gia đình xào xáo. Nhưng Julia rất mực thẳng thừng với ông:
- Ông không thể giận tức cậu ta được, dù sao ông biết lẽ phải chăng hơn và ở địa vị xã hội cao hơn cậu ta nhiều. Cậu ta còn nhiều tàn tích cách mạng xưa kia còn rớt lại và tôi cho rằng đó chỉ là học trò tinh nghịch thôi. Tuy nhiên không thể sửa đổi ngay liền được, cần có sự uốn nắn nhẫn nại. Chúng ta phải hiểu tính cách quan trọng của thế hệ trẻ ở nước ta. Nhờ kiên nhẫn và tử tế tôi đang ngăn chặn được họ lao xuống hố thẳm.
Ông Lembke phản đối:
- Nhưng nó cứ nhơn nhơn nói toàn chuyện vô lí ghét chịu không nổi. Làm sao tôi có thể chịu được khi nó tuyên bố, trước mặt tôi, rằng nhà nước đang cố tình phục rượu dân chúng với dã tâm ngu dân để ngăn chặn dân nổi loạn. Bà thử tưởng tượng dân họ nghĩ sao khi tôi phải nghe điều như vậy!
Ông Lembke nghĩ tới lần nói chuyện vừa rồi với Piot’r. Ông đã ngây thơ cố ráng bẻ gẫy chủ nghĩa tự do của Piot’r, bằng cách đưa cho anh xem bộ sưu tập riêng đủ loại tuyên ngôn của những tay cách mạng Nga lưu vong in ở nước ngoài. Ông đã sưu tập chúng từ năm 1859 không phải chỉ vì thú mê sưu tập mà còn vì tính hiếu kì cầu tiến. Đoán được thâm ý đó, Piot’r mới bảo cộc lốc rằng bất cứ dòng nào trong các tuyên ngôn kia cũng còn có ý nghĩa hơn là tất cả văn thư của nhà nước, “kể luôn cả những văn thư của quí phủ”.
Lembke rụt người lại, ông bảo hầu như phân trần:
- Nhưng hơi quá sớm, hơi quá sớm với chúng ta...
- Không, không quá sớm đâu. Ngay việc ông sợ hãi, chứng tỏ rằng nó không quá sớm.
- Nhưng, xem này, đây là lời hô hào hủy diệt nhà thờ...
- Tại sao lại không? Chẳng hạn như ông đấy, người thông minh và ông không tin nhảm. Nhưng ông biết rõ ràng rằng ông cần tôn giáo để ru ngủ quần chúng. Dối trá chẳng qua thật thà, ông biết chứ.
Quan tổng đốc sạm mặt lặp lại:
- Tôi đồng ý, đồng ý... Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, nhưng nó vẫn, vẫn còn quá sớm đối với nước ta.
- Ông làm công chức chính phủ sao được khi dám đồng ý phá hủy nhà thờ lại sẵn sàng đi Petersburg biểu tình và hành động chỉ còn là vấn đề thời gian?
Lembke uất ức vì bị hớ hênh một cách ngu xuẩn:
- Tôi đâu có ý đó, đâu phải tôi nói vậy.
Càng lúc càng sa lầy trong câu chuyện, ông nổi giận vì lòng tự trọng bị thương tổn.
- Anh lầm vì anh còn trẻ, không hiểu thấu phương sách của chúng tôi. Anh biết đó, anh gọi chúng tôi là công chức. Đúng. Công chức độc lập - cũng đúng nữa. Khoan đã - anh muốn chúng tôi hành động thế nào? Chúng tôi hành động theo trách nhiệm và kết quả là chúng tôi cũng phục vụ xã hội không thua gì các anh. Có khác chăng là chúng tôi gắng sức gìn giữ những gì các anh cố đả phá. Không có chúng tôi tất cả sẽ tan tành. Chúng tôi đâu phải là kẻ thù của các anh. Không hề có chuyện đó. Chúng tôi bảo các anh: “Hãy làm đi, tranh đấu cho tiến bộ - kể cả việc đập tan tất cả các lề lối cũ phải thay đổi - nhưng chúng tôi sẽ cầm giữ các anh trong giới hạn cần thiết và cứu các anh khỏi chính các anh, bởi vì không có chúng tôi, các anh sẽ chỉ làm lũng đoạn nước Nga và không biết sẽ biến nó thành cái gì, và bổn phận của chúng tôi là bảo toàn thể diện cho đất nước đối với thế giới bên ngoài”. Các anh phải hiểu rằng chúng ta tương hỗ cần cho nhau in như đảng Tự do và đảng Bảo thủ bên Anh. Vậy thì, chúng tôi là Bảo thủ và các anh là Tự do. Đó là cách tôi nhìn vấn đề.
Ông Lembke trở nên hăng say rất mực. Kể từ ngày ở Petersburg, ông vẫn ham thích nói năng như một người tự do và thông minh và vì lần này chuyện trò riêng tư ông mặc tình buông thả. Piot’r im lặng và trang trọng khác thường. Điều này làm cho quan tổng đốc càng thích chí hùng biện.
Ông vừa bước tới lui trong phòng vừa tiếp tục nói:
- Anh biết không, là “đầu tỉnh” tôi có quá nhiều phận sự, và hậu quả là tôi không thực hiện được cái gì. Ngoài ra, tôi có thể thành thực nói là ở đây không có gì cho tôi làm cả. Lí do thầm kín là mọi sự đều tùy thuộc quan điểm của chính quyền trung ương. Nếu vì lí do chính trị nào đó, hay vì muốn xoa dịu sự xôn xao của dân chúng, nhà nước quyết định đổi sang chính thể cộng hòa, đồng thời gia tăng quyền hành của tổng đốc, tôi quả quyết với anh là bọn tổng đốc chúng tôi sẽ chấp nhận nền cộng hòa và tất cả những gì khác nữa xảy đến. Ít ra riêng cá nhân tôi, tôi cũng sẵn sàng... Tóm lại, nếu chính quyền trung ương gửi cho tôi một công điện ra lệnh “hoạt động vũ bão”, tôi sẽ lao đầu vào hoạt động điên rồ đó ngay. Tôi sẽ nói thẳng vào mặt họ rằng: “Thưa quí vị, nếu quí vị mong muốn một nền hành chính mạnh mẽ trong tỉnh; quí vị chỉ cần gia tăng quyền hành của tổng đốc”. Anh sẽ thấy tất cả cơ sở hành chính hoặc tư pháp, đều có lá mặt lá trái, nghĩa là một đằng chúng rất cần thiết hiện hữu (tôi đồng ý) và đằng khác, chúng lại phải biến mất - tùy theo ý chính quyền trung ương. Nếu họ chợt thấy cần những cơ sở đó, tức thì ở đây có ngay những cơ sở đó cho họ. Nếu hết cần, thì không ai tìm ra một dấu vết nào của chúng ở tỉnh này nữa. Đó là đường lối tôi hình dung “hoạt động vũ bão” của chính quyền - nhưng không thể nào thực thi nếu không gia tăng quyền hành của tổng đốc. Chúng ta đang đàm luận riêng với nhau, và tôi có thể cho anh biết rằng tôi đã xin Petersburg cho một người lính đặc trách gác dinh tổng đốc. Tôi đang đợi quyết định của họ đây.
- Thực ra ông phải cần tới hai mới được.
Lembke đang bước quanh phòng, vội đứng lại trước mặt Piot’r và hỏi:
- Sao lại hai?
- Tôi cho là một người lính gác không đủ làm cho dân chúng kính nể ông.
Quan tổng đốc nhăn nhó:
- Anh ăn nói thật chẳng coi ai ra gì. Anh đã lợi dụng lòng tốt của tôi. Anh nói đâm họng mà cứ làm như tử tế lắm.
Piot’r lẩm bẩm:
- Dù ông có nói gì đi nữa, các ông cũng chỉ lót đường cho thắng lợi của chúng tôi.
Lembke trố mắt ngạc nhiên hỏi:
- “Chúng tôi” của anh là những ai, và anh nói “thắng lợi” gì?
Nhưng Piot’r không trả lời câu hỏi đó. Khi nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện này, phu nhân bất mãn vô cùng. Ông Lembke tự bào chữa:
- Nhưng bà hẳn chẳng muốn tôi lấy quyền ra át giọng cục cưng của bà, nhất là trong câu chuyện riêng tư. Tôi tuy nói quá nhiều, nhưng chỉ do lòng tốt.
- Quá tốt mà. Tôi không hề biết là ông có sưu tập những tuyên