← Quay lại trang sách

Chương VI PIOT’R VERKHOVENXKI VẤT VẢ-1

Ngày lễ đã ấn định rồi, nhưng ông Lembke càng lo buồn thêm. Ông chỉ thấy toàn là điềm gở, làm bà cũng rối cả ruột. Thật ra, mọi chuyện cũng không được như ý cho lắm. Quan tổng đốc tiền nhiệm vốn người hiền lành đã giao lại cho ông một cái tỉnh chẳng ra gì: nào là mầm bệnh thổ tả, nào là chứng dịch súc vật lên cao tại đôi chỗ, nào là các vụ hỏa hoạn khắp chợ cùng quê suốt mùa hè, và các tin đồn hoang mang về đốt nhà phá hoại ngày càng tràn lan. Con số trộm cướp và bạo hành tăng gấp đôi. Tuy thế, mọi chuyện cũng còn khả dĩ lo cho êm thấm, nếu không có những sự việc khác xảy ra làm quan tổng đốc, từ trước tới nay vẫn hạnh phúc, phải mất ăn mất ngủ.

Điều làm cho bà tổng đốc âu lo nhất là ông ngày càng trở nên lặng lẽ và kín tiếng một cách kỳ lạ. Không biết ông có chuyện gì giấu bà? Thực ra thì ông mấy khi trái nghịch với bà, ông đã cho thực thi vài ba biện pháp nhằm củng cố uy quyền tổng đốc, tuy rằng không được hợp pháp cho lắm. Cũng với mục đích đó, dăm vụ vi phạm thực là nặng nề đã được khoan thứ, và những người lẽ ra phải tống giam hay đày đi Xibir, nhờ bà xin đã được thăng chức hay ban thưởng. Rồi một số vụ điều tra và chất vấn cũng bị cố tình làm ngơ. Tất cả những chuyện đó sau này mới sáng tỏ. Ông Lembke không những bảo gì ký nấy, mà còn không hề thắc mắc gì về việc bà vợ can thiệp vào những việc trong phần vụ của ông. Nhưng có thể bất thần ông làm ầm ĩ lên vì những “cái lăng nhăng”, và điều này luôn luôn làm bà sửng sốt. Hiển nhiên là những phút nổi loạn kia là để bù trừ cho những ngày dài phục tòng. Mặc dù tinh nhanh và trực giác bén nhạy, bà Lembke không sao hiểu nổi cái nhu cầu tế nhị này trong cái nhân cách cao thượng của chồng. Hơn nữa, đầu óc bà còn bận túi bụi bao chuyện khác đâu có rảnh mà lo tìm hiểu. Hỡi ôi, cơ sự vì thế mà sinh ra vô số ngộ nhận.

Ở đây chủ điểm của tôi không phải là những việc ấy. Hơn nữa, tôi thấy mình không đủ thẩm quyển thảo luận. Việc của tôi không phải là bàn về các khuyết điểm hành chính, và tôi sẽ loại bỏ tất cả khía cạnh này của vấn đề khỏi cuốn truyện. Khi ghi lại những biến cố đó, tôi có một chủ đích khác. Vả chăng, cuộc điều tra đương tiến hành ở tỉnh nhà do chính quyền trung ương chắc chắn sẽ đưa nhiều sự kiện ra ánh sáng, chúng ta chỉ cần đợi thêm ít lâu nữa. Tuy vậy, có những điều không giải thích không xong.

Đây nói về chuyện bà Lembke. Tôi thật tiếc thay cho bà. Con người như bà có thể đạt được mọi điều ham muốn (danh vọng cũng như mọi thứ), mà không cần phải đi đến những biện pháp liều lĩnh và dính dáng vào những phong trào bạo động và quái gở, như bà đã nhúng tay vào ngay từ khi mới bước chân đến đây. Không biết đó là do sự lãng mạn quá độ của bà, hay là do những thất bại liên tiếp và đau buồn thời thanh xuân, khi mà vận may thình lình tới, bà cảm thấy mình như được “ơn thiêng liêng” kêu gọi để thực hiện những việc vĩ đại, như một kẻ được “chọn lựa” giữa tất cả mọi người. Trăm thứ rắc rối đều nằm trong cái “ơn thiêng liêng” kia, bởi dù sao nó cũng không phải là một cái búi tó đơn giản nằm yên trên đầu bất cứ người đàn bà nào. Nhưng làm thế nào thuyết phục một người đàn bà chịu nghe ra chuyện đó. Thế cho nên, bất cứ ai vuốt ve cái ảo tưởng kia của bà đều được bà hậu đãi; và thiên hạ thi nhau nịnh hót bà. Chẳng bao lâu, người đàn bà đáng thương đó trở thành cái đích cho đủ mọi hạng người tìm cách lung lạc, trong khi bà cứ ngỡ mình là một nhà tư tưởng độc đáo. Nhiều tay lợi dụng sự ngây thơ cửa bà mà vơ vét trong giai đoạn tại chức ngắn ngủi của chồng bà. Tư tưởng bà rối như mớ bòng bong, trong khi lúc nào bà cũng tự đánh lừa mình là đầu óc phóng khoáng. Bà chủ trương bao nhiêu là ý kiến và quyền lợi mâu thuẫn nhau cùng một lúc: giới đại địa chủ, tầng lớp quí tộc, uy quyền tổng đốc, mà bà ra sức tăng cường; cơ cấu dân chủ mới ở địa phương; trật tự mới trong tương lai; tư tưởng tự do; và các quan niệm xã hội chủ nghĩa đủ loại. Bà bị quyến rũ cả vì cái vẻ thanh lịch khắc khổ của một phòng khách quí tộc, lẫn vì cái vẻ bình dân thô kệch của đám thanh niên vây quanh bà, họ coi nhà bà chẳng khác cái quán. Bà ao ước mang lại hạnh phúc chung, hòa giải cái không thể hòa giải, hay nói đúng hơn là kết hợp mọi người và mọi vật trong niềm kính ngưỡng cá nhân bà. Dĩ nhiên, bà có ưa nhiều người một cách riêng. Bà rất thú vị Piot’r Verkhovenxki vì anh ta nịnh bà không biết ngượng miệng. Ngoài ra, bà còn chú ý tới anh ta vì một lý do khác, rất lố bịch nhưng hoàn toàn tiêu biểu cho con người đáng thương của bà: bà hi vọng anh ta sẽ chỉ cho bà cả một âm mưu lật đổ chế độ hiện hữu. Chuyện khó tin nhưng có thực. Không hiểu sao bà lại yên trí rằng có một âm mưu toan chống chính phủ đang ấp ủ tại tỉnh nhà khi đó, và Piot’r nửa kín nửa hở càng thúc đẩy cho bà bám chặt vào ý niệm kỳ lạ đó hơn. Bà ngỡ rằng anh ta liên lạc với tất cả những phần tử cách mạng hoạt động khắp nước Nga, nhưng đồng thời anh ta lại ngưỡng mộ và hoàn toàn trung thành với bà. Khám phá âm mưu, Petersburg phải biết ơn, cả một sự nghiệp huy hoàng chờ đón bà, ảnh hưởng của bà trên thế hệ trẻ bằng “từ tâm” sẽ giữ cho họ khỏi “quá trớn” - tất cả những điều đó không hiểu sao chung sống được với nhau trong đầu óc rối beng và mộng mơ của bà một cách rất êm thấm. Bà đã chẳng chinh phục và cứu được chính Piot’r rồi đó ư? Bà đinh ninh như thế lắm. Và bà sẽ cứu luôn những kẻ khác. Không để cho một ai bị hư mất. Bà sẽ cứu xét từng trường hợp cá nhân, tường trình, và giải thích duyên do của họ với Petersburg sao cho tất cả không ai việc gì: bà chỉ hành động theo tình lý cao thượng nhất. Rồi, biết đâu lịch sử, và có thể cả phong trào tư tưởng tự do ở Nga, cũng sẽ nêu cao danh thơm của bà. Đồng thời, âm mưu kia vẫn bị vỡ tan. Lợi cả trăm bề.

Tuy nhiên, phải làm cho quan tổng đốc vui lên một chút để dự buổi dạ hội sắp tới. Cần phải cho ông an tâm và khuây khỏa. Chủ tâm như vậy rồi, bà sai Piot’r đến nói chuyện với ông, hi vọng rằng anh ta sẽ giải tỏa được nỗi buồn của chồng. Bà còn dám trông mong rằng Piot’r có thể làm được chuyện đó bằng cách hé mở cho ông biết vài tin sốt dẻo của người ở trong chăn. Bà mặc nhiên tin tưởng vào tài tháo vát của anh ta.

Piot’r đã lâu không vào văn phòng tổng đốc. Lần này anh ta tới đúng ngay lúc “con bệnh” đang cáu kỉnh quá chừng.

2

Ông Lembke đang không biết xoay xở ra làm sao vì một sự cố đặc thù ngẫu nhiên mới xảy ra xong. Gần đây, ngay tại quận mà Piot’r đã du chơi linh đình, có một thiếu úy bị cấp chỉ huy trực tiếp khiển trách ngay trước mặt lính của anh ta. Viên thiếu úy này mới từ Petersburg tới trình diện trung đoàn, là một thanh niên còn rất trẻ. Anh ta ít nói, lầm lì, vẻ trang trọng, mặc dù thấp người, mập mạp và mặt còn bụ sữa. Không chịu được sự khiển trách, anh ta thụp đầu lao thẳng tới sĩ quan thượng cấp và thét lên một tiếng làm cả đại đội kinh hoàng. Anh ta húc toàn lực và ngoạm vào vai viên thượng cấp, mạnh tới nỗi người ta phải khó khăn lắm mới lôi anh ta ra được. Chắc chắn là anh ta nổi mát rồi. Thực thế, hành vi của anh ta trong vài tuần trước đó cũng đã kỳ khôi rất mực. Anh ta liệng hai tấm ảnh thánh của bà chủ ra khỏi nhà mà anh ta đang thuê, rồi còn lấy rựa chẻ vụn một tấm ảnh ra nữa. Trong phòng ngủ, anh ta bày các tác phẩm của Vogt68, Moleschott69, Buechner70 trên hương án và đèn nến thờ phụng nghi ngút. Xét theo sổ sách tìm thấy trong phòng thì anh ta là một người chịu khó học. Nếu có năm chục ngàn quan tiền thì hẳn anh ta đã dong buồm đi tuốt sang quần đảo Macseeva71 giống như chàng “sinh viên sĩ quan” mà Herzen72 đã mô tả lính hoạt trong một cưôn sách của ông. Khi bị bắt giữ, người ta tìm thấy trong tui anh ta và tại phòng trọ bao nhiêu là truyền đơn phản tuyên ngôn nảy lửa.

Tôi nghĩ rằng những truyền đơn như thế rất là thường và không có gì đáng lưu tâm. Chúng ta đã thấy quá nhiều loại truyền đơn như vậy! Hơn nữa những truyền đơn đó cũng không mới mẻ gì; sau này tôi nghe nói người ta tìm thấy những tờ bươm bướm in hệt như vậy tại một tỉnh khác. Liputin hồi sáu tuần trước có đi sang một tỉnh lân cận cũng cam đoan với tôi rằng anh đã thấy chúng có mặt ở đó rồi. Nhưng điều làm quan tổng đốc hoảng kinh nhất là người quản lý ở xưởng Spigulin ngay lúc đó lại giao cho cảnh sát buộc mấy bó truyền đơn giống hệt như thứ tìm thấy trên mình viên thiếu úy. Người ta đem gài chúng tại xưởng thợ vào ban đêm. Sự tình thực ra cũng không có gì quan trọng. Mấy bó truyền đơn còn cột dây, nên thợ thuyền cũng chẳng ai hay biết gì. Nhưng nó cũng làm ông Lembke phải nghĩ ngợi: xem ra nội vụ rắc rối quá chừng.

Mới đây xưởng thợ là nơi diễn ra vụ “ô nhục Spigulin” làm bao nhiêu người trong tỉnh xôn xao và báo chí thủ đô đăng tải lung tung. Ba tuần trước, có một người thợ trong xưởng Spigulin mắc bệnh thổ tả và qua đời. Mấy người thợ khác lây bệnh mà chết theo. Dân trong tỉnh càng phát hoảng, vì nạn dịch tả đã xuất hiện trong mấy tỉnh lân cận. Tôi phải ghi nhận thêm là mọi biện pháp phòng ngừa cần thiết đã được áp dụng để đối phó với tình trạng khẩn cấp, nhưng không hiểu sao xưởng máy của dòng họ Spigulin, là một gia đình triệu phú và quen biết rất lớn, lại bị thanh tra bỏ sót. Bấy giờ dân chúng phẫn uất rêu rao rùm beng lên rằng cái xưởng kia, và nhất là khu gia đình công nhân nằm kề bên, là một ổ truyền nhiễm vì nó dơ dáy quá đến nỗi dù cho xung quanh không có bệnh dịch thì nó cũng phát sinh ra chứ chẳng không. Các biện pháp thích nghi được quyết định ngay tức khắc, và quan tổng đốc khăng khăng đòi phải thi hành liền. Chỉ trong ba tuần, xưởng máy được quét dọn sạch sẽ - nhưng rồi không ai hiểu sao gia đình Spigunn cho đóng cửa luôn. Hai anh em nhà Spigulin thì một người từ lâu đã định cư hẳn ở Petersburg; người còn lại cũng bỏ đi Moskva ngay khi nhà chức trách ra lệnh thanh tẩy xưởng máy. Viên quản lý trả tiền thợ, cho họ nghỉ việc luôn, và sau này chúng tôi khám phá ra rằng lão đã lường gạt họ một cách không hề thương tiếc. Thợ thuyền phản đối, đòi trả lương đầy đủ, và vụng về kéo cả đoàn đi thưa cảnh sát, mặc dù không gây náo loạn vì họ không bị khích động cho lắm. Chính lúc đó viên quản lý phát giác ra mấy bó truyền đơn và đem nạp cho quan tổng đốc.

Bấy giờ Piot’r xông vào văn phòng tổng đốc không hề báo trước; dù sao anh ta cũng là bạn thân, hơn nữa còn đi làm giùm một việc do chính tổng đốc phu nhân nhờ vả. Trông thấy Piot’r, ông Lembke cau mày và đứng khựng lại bên bàn giấy, khó chịu ra mặt. Nãy giờ ông đi lại trong phòng, đang bàn chuyện riêng tư với thuộc sự viên của ông là Blium, một anh chàng người Đức sồ sề và lầm lì mà ông đã mang từ Petersburg theo, mặc cho bà vợ phản đối. Khi Piot’r tiến vào, Blium bước lui lại phía cửa, nhưng không rời khỏi phòng. Piot’r còn có cảm tưởng như hắn liếc mắt ra hiệu cho thượng cấp. Piot’r vừa cười rộ vừa xòe tay đập xuống tờ truyền đơn nằm trên bàn mà nói oang oang:

- A ha, tôi bắt được ông quả tang rồi nhé, nhà chính khách bí mật! Bộ sưu tập của ông thêm được một tờ nữa, đúng không?

Mặt ông Lembke đỏ bừng và nhăn nhúm lại. Ông giận run cả người và hét lên:

- Để im đó! Lập tức! Và tôi cấm anh không bao giờ...

- Ông làm sao thế? Ống giận tôi thật đấy à?

- Thưa ông, tôi xin phép được thông báo cho ông hay là từ nay trở đi tôi không thể chịu được cái cung cách vô lối của ông nữa, và tôi muốn ông nhớ cho rằng...

- Chết mẹ, ông ấy giận thực rồi!

Ông Lembke giậm chân xuống thảm mà thét lớn:

- Câm ngay, câm ngay! Tôi không muốn nghe...

Câu chuyện giữa hai người không biết sẽ đi đến đâu. Phải nói rằng ông Lembke còn nổi xung vì một nguyên do đặc biệt mà Piot’r (và ngay cả bà tổng đốc) dường như không ngờ tới chút nào. Ông tổng đốc đáng thương bị sa sút tinh thần đến nỗi ông đã bắt đầu ngấm ngầm nghi ngờ mối giao du giữa hai người, và chớm ghen từ ít ngày gần đây. Khi đêm khuya canh vắng một mình, ông thường khắc khoải về chuyện này. Piot’r nói, làm vẻ rất trang trọng:

- Tôi cứ ngỡ rằng một kẻ đã hai đêm liền thức mãi quá nửa đêm để đọc cuốn tiểu thuyết của ông, và muốn xin thỉnh ý kiến của ông, thì đâu cần giữ những nghi thức đãi bôi đó. Bà Lembke coi tôi như người thân tín, thế mà ông thì lại... Làm sao tôi không ngỡ ngàng cho được? Đây, cuốn tiểu thuyết của ông đây!

Anh ta đặt trên bàn xấp bản thảo nặng nề dầy-cộm, cuốn trong giấy bao mầu xanh. Ông Lembke đỏ bừng mặt và cười ngượng ngùng. Ông hỏi dè dặt, cố gắng nhưng cũng không kiềm chế nổi niềm vui đang dâng trào:

- Thế anh tìm ra nó ở đâu vậy?

- Đoán xem. Cuốn nguyên như vậy, no lăn xuống dưới gầm tủ. Người ta tìm thấy nó ngày hôm kia khi lau nhà. Ôi chao, ông làm tôi mệt với nó quá!

Ông Lembke nghiêm mặt nhìn xuống. Piot’r tiếp tục:

- Hai đêm liền tôi không hề chợp mắt vì ông đó. Tìm được nó rồi là tôi bỏ suốt hai đêm để đọc, vì ban ngày tôi không có thì giờ. Tôi phải nói là cuốn truyện không hợp với gu của tôi; tôi không nhìn sự vật theo lối đó. Nhưng cái đó tôi cóc cần - tôi không bao giờ ưa cái món phê bình văn chương cả. Tuy vậy, không đồng ý về tư tưởng mà tôi không thể nào ngừng tay bỏ cuốn truyện xuống được. Chương bốn và chương năm thật là, hừm, thật là quá xá. Ông nhét bao nhiêu là khôi hài vào làm tôi thực tình phải ôm bụng mà cười lăn cười lộn. Tôi phải nhận rằng ông có biệt tài chọc quê mọi người mà bề ngoài vẫn cứ tỉnh bơ như không. Dĩ nhiên là chương chín và chương mười bàn về ái tình (không phải là địa hạt sở trường của tôi) rất có tác dụng. Và tôi suýt nữa rớt một giọt nước mắt khi đọc lá thư tình của Igrenev. Tôi phải nhận rằng chỗ đó ông miêu tả tinh tế lắm. Ông biết không, lá thư đó rất cảm động, mặc dù ông cũng đồng thời phơi bầy được cái khía cạnh trá ngụy trong con người hắn, phải không nào? Tôi nói thế có trúng ý tác giả không? Lại còn đoạn kết nữa! Thú thật tôi muốn đánh đòn ông vì đoạn kết đó quá. Ông định truyền bá cái gì? Ôi, cũng lại vẫn một thứ tôn thờ đời sống gia đình hạnh phúc xưa hoắc - lấy vợ đi, rồi đẻ con đàn cháu đông, làm giàu, rồi sống ấm êm mãi mãi. Nói cho đúng, ông làm cho độc giả say mê - ngay chính tôi cũng bị quyến rũ mà tay không rời được sách, nhưng như thế càng hóa ra nguy hiểm hơn. Người độc giả trung bình thường ngu si, và nhiệm vụ của những kẻ thông minh là phải khai cái ngu, cho họ nhìn thấy bản chất thực của mọi vật; trong khi đó ông lại đi... Nhưng thôi, tôi nói thế cũng là lắm lời quá rồi. Xin chào ông. Hẹn lần khác, ông bớt giận hơn. Tôi có dăm ba chuyện hay ho định đến kể cho ông nghe, nhưng bữa nay sao ông kỳ quá...

Trong lúc Piot’r nói, ông Lembke lấy cuốn tiểu thuyết đem cất kỹ và khóa kín trong một tủ bằng gỗ gụ, và ra dấu cho người phụ tá ra ngoài. Mặt anh chàng chảy dài ra như người đưa ma, và anh ta chuồn mất. ông Lembke ngồi xuống bàn giấy. Ông cau mày và nói khẽ, không còn vẻ giận dữ nữa:

- Tôi không có gì gọi là “kỳ quá” cả. Đó chỉ là tôi có nhiều mối lo âu quá. Anh ngồi xuống, và nói cho tôi nghe dăm chuyện hay ho mà anh tính kế đó. Đã lâu tôi không gặp anh, anh Piot’r ạ, nhưng từ giờ trở đi có ghé lại đây anh đừng dùng cái lối như gió như giông thế nữa. Đôi khi tôi đang mắc việc, phiền hà lắm; rồi nó sinh ra...

- Đối với ai tôi cũng coi như nhau...

- Tôi biết, tôi biết. Và tôi chắc chắn anh không có ý xấu, nhưng khi con người ta có những chuyện nghĩ ngợi... Nhưng kìa, anh ngồi xuống chơi đã.

Piot’r ngả ngay mình xuống chiếc trường kỷ. Một lát sau, anh ta đã bắc chân chữ ngũ ngon lành.

3

- Ông nghĩ ngợi chuyện gì? Hẳn không phải cái đồ lăng nhăng đó chứ? Piot’r hất hàm chỉ về phía tờ truyền đơn, và nói tiếp: - Thứ đó ông muốn bao nhiêu, tôi cũng có thể lấy cho ông được. Tôi đã bắt gặp chúng khối ra ở tỉnh Kharkov73,...

- Anh muốn nói khi anh còn ở đó?

- Chứ còn gì nữa? Không lẽ lại bắt gặp khi không ở đó? Có một tờ bên trên còn in thêm một chiếc rìu nhỏ. Ông cho phép (anh ta cầm lấy một tờ truyền đơn và ngắm nghía). Đúng rồi, cái rìu đây chứ đâu. Đúng là cùng một thứ.

- Phải, tôi có thấy chiếu rìu. Làm sao anh?

- Sao? Ông sợ một chiếc rìu à?

- Không phải là vấn đề chiếc rìu... Hơn nữa tôi không có sợ cái gì hết, nhưng nội vụ rắc rối... có một số trường hợp...

- Trường hợp nào? Việc họ tìm thấy những truyền đơn này ở xưởng Spigulin phải không? Ha ha ha! Tôi nói thực với ông, nói ra chẳng mấy chốc chính bọn thợ thuyền trong xưởng sẽ viết lấy truyền đơn cho mà xem.

Ông Lembke trố mắt nhìn anh ta:

- Anh bảo sao?

- Đúng thế đấy. Tốt hơn ông phải canh chừng, ông tổng đốc ơi. Ông mềm yếu quá. Ông đi viết tiểu thuyết văn chương và các thứ đại loại, trong khi cái cần áp dụng ở đây là những biện pháp cổ.

-Những biện phâp cổ nào? Anh định nói gì? Xưởng máy cần tẩy uế. Tôi ra lệnh, và nó đã được tẩy uế rồi!

- Nhưng bây giờ công nhân nổi loạn. Cần phải cho họ một trận đòn, thế là xong.

- Nổi loạn? Toàn chuyện phịa! Tôi đã ra lệnh cho tẩy uế, và việc đã được thực hiện.

- Ôi, ông Andrei ơi, ông thực yếu mềm quá!

Ông Lembke lại cảm thấy bất bình, nhưng ông cố nén lòng nói chuyện với Piot’r, hi vọng rằng anh ta sẽ cho biết được điều gì mới. Ông nói:

- Điều thứ nhất, tôi không yêu mềm như anh nghĩ đâu; và điều thứ hai...

- A ha! Lại một cổ vật nữa đây rồi! - Piot’r ngắt lời ông, và chộp lấy một tờ truyền đơn khác đang nằm dưới cái chặn giấy. Tờ này in ở nước ngoài và bằng văn vần. - Xem nào, bài này nhan đề là Vị anh hùng, và tôi cũng có thể đọc thuộc lòng cho ông nghe nữa! Phải, đúng là nó - vị anh hùng này tôi đã quen hồi còn ở nước ngoài. Của này ông đào đâu ra được đây?

Ông Lembke hỏi, giọng dượm vẻ lo âu và chú ý:

- Anh bảo rằng anh đã trông thấy nó khi còn ở nước ngoài, ư?

- Nhất định rồi, cả bốn hay năm tháng trước.

Ông Lembke nhận xét, một cách khéo léo:

- Thế ra ở nước ngoài anh biết được nhiều chuyện quá nhỉ.

Piot’r phớt tỉnh như không nghe thấy gì. Anh giở tờ truyền đơn ra và đọc to:

VỊ ANH HÙNG

Không phải là con dòng cháu giống,

Anh lớn lên trong đám nhà nông.

Số phận anh mang mãi xiềng gông,

Của thù hận vua quan hào phú.

Dù khổ sở, đớn đau, tù tội,

Lòng son sắt tôi thành thép nguội.

Tiếng anh vang khắp cùng nhân loại:

Tự do, Bình đẳng, Đoàn kết lại.

Thế rồi khởi nghĩa bừng ánh đuốc,

Anh lê gót lánh ra nước ngoài.

Thoát kìm tra, thoát dây treo cổ,

Thoát bàn tay của đao phủ thủ.

Toàn dân đen đau khổ dứng lên,

Đập tan ách nô lệ triền miên.

Từ Xmolen cho đến Taskent,

Xiết hàng ngũ chờ anh hô tiến.

Họ mong anh như vị cứu tinh.

Họ chờ anh để phá tan tành,

Cả đế quốc Nga ô nhục đó.

Để đời họ bừng lên rạng rỡ;

Để đất đai thành của cải chung;

Để hủy diệt một lần cuối cùng,

Gia đình, hôn nhân, và giáo hội,

Tàn tích của thời xưa tăm tối.

Piot’r hỏi:

- Tôi đánh cuộc rằng cái này ông tìm thấy trên người viên sĩ quan kia, phải không nào?

- Vậy ra anh cũng quen với viên sĩ quan đó nữa?

- Hẳn thế rồi. Chúng tôi nhậu nhẹt với nhau suốt hai ngày liền. Anh ta uống cho cố mạng đến gần mất cả trí khôn.

- Biết đâu chừng, có thể anh ta không hề mất trí khôn tí nào.

- Căn cứ vào đâu mà ông bảo thế - hay vì, anh ta nổi chứng cắn thiên hạ?

- Hãy khoan. Nếu anh thấy bài thơ ấy ở nước ngoài, rồi người ta lại bắt gặp nó trên mình viện sĩ quan tại đây...

- Sao, ông định nóị gì? Quan tổng đọc ơi, xem ra ông muốn thẩm vấn cả tôi nữa. Thôi được, để tôi kể cho ông. - Giọng Piot’r chợt mang vẻ cực kỳ hệ trọng. - Những gì tôi thấy và làm ở nước ngoài, tôi đã tường trình và giải thích với những người có thẩm quyền, ngay khi tôi hồi hương. Và những lời giải thích đó chắc chắn phải thỏa đáng, nếu không tỉnh này đã không có cái hân hạnh tiếp đón tôi. Vì thế, tôi xem như trường hợp của tôi đã kết thúc, và tôi không có gì phải phân trần với ai nữa cả. Tôi chấm dứt mọi chuyện đó cũng bởi vì tôi không thể làm điều gì khác hơn, chứ không phải tôi là một kẻ phản bội. Những kẻ đã viết thư giới thiệu tôi với bà Julia biết rành rẽ về quá khứ của tôi và đã chứng nhận rằng tôi là một người đàng hoàng... Nhưng thôi, kệ xác mấy chuyện đó. Tôi đến đây để kể cho ông một việc rất quan trọng, và tôi mừng là ông đã đuổi cái tên quét dọn kia ra khỏi phòng. Chuyện này rất quạn trọng đối với tôi, ông tổng đốc ạ: tôi muốn yêu cầu ông một việc đặc biệt.

- Yêu cầu hả? Anh làm ơn nói ra xem sao. Tôi phải nhận là tôi cũng nóng lòng nghe anh nói xem là cái gì. Lúc nào tôi cũng thấy anh khó hiểu quá.

Quan tổng đốc hơi có vẻ cảm động. Piot’r bỏ chân đang gác chữ ngũ xuống. Anh ta bắt đầu nói:

Ở Petersburg, tôi đã nói thẳng thằn về nhiều chuyện. Nhưng có vài chuyện, chẳng hạn như cái này (anh lấy ngón tay chỉ vào bài thơ Vị anh hùng) tôi không hề động chạm đến, trước tiên bởi vì nó không đáng nhắc nhở tới, sau nữa là bởi vì tôi chỉ trả lời những câu hỏi người ta nêu ra. Tôi không thích hăng hái quá trong những trường hợp như vậy. Theo tôi đó chính là cái khác biệt giữa một tên chỉ điểm phản phúc và một người dàng hoàng bị hoàn cảnh bắt buộc... Hừm, nhưng thôi gác chuyện đó lại. Còn lúc này, khi những kẻ ngu xuẩn kia... Thôi thì mọi chuyện đã vỡ lở và chúng đã nằm trong tay ông, tôi nhận thấy rằng không thể giấu ông được gì cả, vì mắt ông rất tinh tường, tuy ông làm như chẳng hay biết tí gì - và bởi bọn chúng vẫn tiếp tục, tôi,.., tôi..., vâng, thưa ông tổng đốc, tôi đến để xin ông cứu giúp một kẻ ngu xuẩn trong bọn đó. Hắn ta có thể mất trí, nhưng tôi cũng xin ông vì tuổi trẻ, vì các bất hạnh của hắn và bằng lòng nhân đạo của ông... Tôi hi vọng rằng không phải chỉ trong tiểu thuyết ông mới tỏ ra có tình người, mà ông còn thể hiện nó trong đời sống thực nữa. - Anh ta chấm dứt một cách đột ngột và như thể nóng nảy.

Thực ra, Piot’r có vẻ như một người thẳng tính, vụng về, không biết cư xử, và lòng tràn ngập tình nhân đạo, lại quá xúc cảm nữa. Trên hết, anh ta xem như không được lanh lợi cho lắm. Điều này ông Lembke nhận ra ngay với sự sâu sắc cố hữu của ông. Hơn nữa, ông ngờ như thế đã từ lâu, nhất là trong tuần lễ vừa qua, khi ban đêm thanh vắng một mình trong thư phòng ông tự hỏi đi hỏi lại, không biết vì cớ gì người thanh niên kia lại thành công một cách không thể hiểu nổi, trong việc chiếm cảm tình của bà Julia như thế.

Ông tổng đốc hỏi bằng một giọng cửa quyền, cố giấu cái tò mò của mình:

- Thế anh định xin cho người nào? Và đầu đuôi câu chuyện ra sao?

- Hắn ta là... hắn ta là... Thôi thì thôi, tôi không tin cậy vào ông, thì còn biết tin cậy vào ai. Đâu phải lỗi tại tôi, khi tôi coi ông như người cao quí nhất và hơn nữa, thông suốt nhất, có thể hiểu rõ... Thôi, mặc xác!

- Rõ rệt là Piot’r cảm xúc quá độ. Anh ta tiếp tục: Ông phải hiểu rằng khi tôi kể tên hắn ta ra, là tôi giao hắn vào tay ông, cầm bằng như phản bội hắn. Có đúng thế không?

- Nhưng làm sao tôi có thể biết được kẻ đó là ai, nếu anh không cho tôi biết tên?

- Đó, chính vậy? Luận lý của ông sắc bén và bao giờ cũng thắng! Thôi, kệ, được rồi: hắn ta, “vị anh hùng” đó, chẳng phải là ai khác ngoài Satov. Đó, vậy là bây giờ ông biết hết rồi.

- Satov? Anh hỏi sao, đó là Satov ư?

- Satov là “vị anh hùng” mà tờ truyền đơn để cập đó. Hắn ta sống ở đây. Trước kia hắn là một nông nô. Hắn là cái người đã thoi vào mặt Xtavroghin đó...

- Phải, chuyện đó tôi có biết, - ông nhíu mày, ra chiều hiểu biết. - Nhưng, xin lỗi, tôi không hiểu anh ta bị khép tội gì, lại càng không hiểu anh thực sự yêu cầu chuyện gì?

- Tôi xin ông tha cho anh ta mà. Ông hiểu rồi chứ? Tôi đã quen hắn trong tám năm trường và là bạn của hắn, - Piot’r càng nói càng tăng xúc động. - Dù sao tôi cũng không có bổn phận phải tường trình cho ông về quá khứ của tôi. - Anh ta vung tay tuyệt vọng. - Câu chuyện không có gì hết. Tất cả chỉ dính líu đến có ba người rưỡi ở đây, và tính gộp cả ở nước ngoài thì nhiều lắm chỉ đến mười người. Nhưng trong trường hợp này, tôi trông cậy vào lòng nhân đạo và sự thông cảm của ông. Ông sẽ hiểu rõ hoàn cảnh và đặt nó đúng trong tầm mức. Đó chỉ là một giấc mộng xuẩn ngốc của một con người rối loạn, đã suốt một đời cùng khốn - xin ông nhớ cho điều đó - chứ không phải là một âm mưu ghê gớm chống chế độ chế đung gì hết trọi!

Anh ta nói thở không ra hơi.

- Hừm, vậy thì tôi có thể kết luận rằng Satov là người chịu trách nhiệm về những tờ truyền đơn có in hình chiếc rìu, - ông tổng đốc tuyên bố một cách long trọng. - Nhưng tôi xin đặt câu hỏi: nếu chỉ có một mình anh ta dính líu, làm sao anh ta có thể vừa phân phát ở đây, lại vừa phân phát trong các tỉnh lân cận, và ngay đến cả tỉnh Kharkov tít mù kia được? Và điều quan hệ hơn nữa là do đâu mà anh ta có được những tờ truyền đơn đó?

- Nhưng tôi đã trình bày với ông rằng, dường như nhiều nhất chỉ có năm người dính líu vào; hay nếu ông kể cả bên ngoài nữa là mười mà thôi. Còn tôi, làm sao tôi biết chắc được?

- Anh không biết sao?

- Tôi biết thế đếch nào được!

- Thế sao anh biết rằng Satov là một người trong đám âm mưu?

Piot’r nhún vai thất vọng như thể anh đầu hàng trước sự thẩm vấn khôn khéo của ông tổng đốc.

- Thôi được! Ông nghe đây vậy. Tôi sẽ kể cho ông hết đầu đuôi. - Tôi không biết gì về những tờ truyền đơn cả, không biết một tí gì hết. Ông rõ chưa? Không có gì hết là không có gì. À, có viên thiếu úy đó, một người nữa, rồi đến Satov, và một người khác nữa, có lẽ thế là hết - ông thấy không, toàn là thứ không ra hồn, người? Nhưng tôi đến là để xin cho Sạtov, bởi vì hắn ta viết bài thơ đó và đích thân đem in ở nước ngoài. Điều đó tôi biết chắc chắn, còn, về chuyện truyền đơn thì tôi không hay biết gì cả.

- Nếu thơ đó là của anh ta, thì truyền đơn cũng phải là của anh ta nốt. Nhưng tôi muốn biết vì những lý do nào mà anh nghi cho ông Satov?

Dáng điệu trông như một người rõ rệt đã bị đẩy đến chỗ mất hết kiên nhẫn,- Piot’r móc ví và rút ra một mẩu giấy. Anh ta kêu to khi liệng mẩu giấy lên mặt bàn:

- Lí do của tôi đây này!

Ông Lembke giở tờ giấy, để đọc, thì ra nó viết hồi sáu tháng trước ở đây và gửi đi nước ngoài. Nó chỉ có hai hàng:

“Tôi không thể in Vị anh hùng ở đây, cũng như bất cứ cái gì khác. Xin cho in ở nước ngoài.

Iuan Satov”

Ông Lembke nhìn Piot’r chăm chú. Bà Julia đã nói đúng, khi bà nhận xét rằng đôi lúc ông có cái nhìn của loài bò tót. Piot’r nói vội vã:

- Để tôi giải thích cho ông. Bài thơ đó Satov viết ra đã được sáu tháng, nhưng không làm sao in lậu ở đây được, vì thế hắn muốn cho in ở nước ngoài. Chuyện như vậy rõ ràng quá, phải không ông?

Ông Lembke đưa ra nhận xét tinh tế:

- Phải, chuyện rõ ràng quá. Nhưng anh ta viết cho ai để nhờ in? Chuyện đó chưa được rõ ràng cho lắm, phải không anh?

- Thì cho Kirillov chứ ai! Giấy đó gửi cho Kirillov khi còn ở nước ngoài. Ông không biết sao? Tôi bực mình ghê vì ông cứ giả bộ không biết gì cả, trong khi thực sự ông biết rành bài thơ kia cũng như các chuyện khác từ đời tám hoánh nào rồi! Nếu không thì sao trên bàn ông lại có nó? Ông phải khám phá ra rồi. Nhưng nếu thế, ông còn hành hạ tra hỏi tôi làm gì?

Piot’r vội lấy khăn lau mồ hôi trên trán, Ông Lembke đỡ đòn một cách khéo léo:

- Phải, tôi cũng nghe được ít nhiều... Nhưng còn Kirillov là ai?

- Viên kỹ sư mới tới đây đó, cái người làm nhân chứng cho Xtavroghin trong vụ đấu súng ấy mà. Anh ta thuộc loại người cuồng, người điên. Viên thiếu úy của ông có lẽ chỉ nổi cơn có lúc, nhưng tay Kirillov này thì hoàn toàn mất trí. Tôi bảo đảm với ông điều đó. Ôi, ông tổng đốc ơi, nếu nhà chức trách thực tình thấu rõ những loại người đó chắc hẳn sẽ không nỡ lòng nào mà bắt họ. Họ đáng phải cho vào nhà thương điên - tuốt luốt. Hồi ở Thụy Sĩ họ nhóm đại hội, tôi đã tha hồ có dịp mà quan sát họ.

- Họ ở đó, mà lãnh đạo phong trào trong nước?

- Có lãnh đạo cái khỉ mốc gì! Tổ chức trần ra chỉ có ba mống rưỡi! Nguyên nhìn họ múa may quay cuồng cũng đủ phát chán mà ngủ gục. Phong trào trong nước ông nói đây, là cái gì? Truyền đơn chắc? Hay đảng viên? Dăm tay thiếu úy mê sảng, với vài ngoe sinh viên! Ông là người sáng suốt, ông cho tôi đặt một câu hỏi: tại sao không bao giờ họ tuyển mộ lấy được một người đàng hoàng? Tại sao họ chỉ câu được có đám sinh viên hai chục tuổi đầu? Mà cũng có nhiều nhõi gì cho nó cam! Người ta tung ra có đến cả triệu chó săn để lùng bắt, mà thử hỏi tóm được bao nhiêu? Tính đi tính lại chỉ có bảy mạng. Tôi nói thực với ông, bọn chúng rõ chán mớ đời.

Ông Lembke lắng nghe Piot’r nhưng gương mặt ông như muốn nói: “Cà kê dê ngỗng mãi rồi cũng phải vào vấn đề chứ”.

- Cho tôi hỏi, anh bảo rằng mảnh giấy đó gửi đi nước ngoài. Nhưng tôi không thấy có ghi địa chỉ nào cả. Làm sao anh biết được là nó gửi cho ông Kirillov, và ở nước ngoài... hơn nữa, nó thực sự là do ông Satov viết ra?

- Cái đó ông chỉ cần lấy một mẫu thủ bút của Satov và đem đọ là xong. Chắc chắn là trong hồ sơ lưu của ông thể nào chả tìm được một chữ ký của hắn. Còn về phần Kirillov, thì chính anh ta trao cho tôi xem khi nhận được mảnh giấy.

- Vậy là chính anh phải...

- Phải chính tôi. Hồi ở nước ngoài tôi thấy được nhiều chuyện lắm. Còn về bài thơ, dường như nó do Herzen thuở còn sinh tiền viết cho Satov, khi Satov còn đang phiêu bạt ở nước ngoài. Ông ta viết bài đó để kỷ niệm cuộc gặp gỡ giữa hai người, như một phần thưởng ngợi khen công tác của Satov. Thực ra, tôi biết thế quái nào được! Dù sao, Satov cũng đem nó phổ biến trong giới thanh niên, như thể muốn rêu rao rằng: “Hãy nhìn xem, đây là những gì chính Herzen nghĩ về tôi”.

- À ra thế; đúng rồi. - Ông Lembke sau cùng hiểu ra. - Có điều tôi không nắm vững là bài thơ kia. Truyền đơn chính trị - cái đó thì hẳn rồi, nhưng thơ phú để làm gì?

- Có gì đâu mà ông không hiểu? Nhưng tôi mắc chứng gì mà bữa nay thổ lộ hết cả với ông thế này. Ông hãy nghe tôi, tha cho Satov, còn bọn kia thì mặc mẹ chúng, - kể cả Kirillov hiện đang cấm cung tại nhà của Filippov. Satov cũng nương náu ở đó nữa. Bọn họ không ưa tôi bởi vì tôi đã hồi chánh. Nhưng, nếu ông hứa để Satov cho tôi, tôi sẽ nạp chúng cho ông, cả bọn, dọn nguyên mâm. Xin ông tin nơi tôi, tôi sẽ giúp cho ông được rất nhiều, ông Lembke ạ! Tôi theo dõi chúng vì lý do riêng. Tôi nói thực, cả cái nhóm khốn kiếp đó chỉ có chín hay mười mống, và ông đã biết được ba mạng rồi: Satov, Kirillov, và viên thiếu úy kia. Tôi còn phải khám phá ra những tên còn lại, nhưng ông cứ tin là tôi không đến nỗi đui! Tôi cam đoan rồi chuyện cũng đến như ở tỉnh Kharkov mà thôi. Ở đó, người ta tóm được một mớ cùng với truyền đơn: hai sinh viên, một học sinh, hai thanh niên con nhà tử tế, một giáo viên, và một thiếu tá hồi hưu, đã sáu mươi tuổi rượu chè be bét đến mụ cả người. Tất cả chỉ có thế, tôi cam đoan với ông như vậy. Nhà cầm quyền quả tình chưng hửng khi thấy không còn gì khác hơn nữa. Nhưng tôi cần sáu ngày. Tôi đã tính toán kỹ lưỡng rồi: phải đúng sáu ngày mới được. Nếu ông muốn có kết quả, thì ông đừng động tới bọn chúng trước thời gian đó, và tôi sẽ giao bọn chúng cho ông nguyên cả một xâu. Còn nếu ông tìm cácn can thiệp trước, động ổ bọn chúng sẽ bay hết, mất cả chì lẫn chài. Nhưng tôi muốn Satov và tôi chỉ bằng lòng thực hiện việc đó nếu ông hứa để hắn cho tôi. Theo tôi nghĩ cách hay nhất là cho gọi hắn tới văn phòng của ông, một cách kín đáo, và dò hỏi hắn với tư cách một người bạn. Thoạt đầu, phải cho hắn thấy trước là ông đã tỏ rõ hết ngọn ngành... Tôi chắc chắn hắn sẽ quì sụp xuống chân ông mà khóc. Đó là một kẻ khốn khổ và rối trí; vợ hắn ta thường lăng nhăng với Nicolai Xtavroghin. Ông cứ đối xử tử tế là hắn ta sẽ tự kể cho ông nghe hết mọi chuyện. Nhưng, phải chờ cho đủ sáu ngày đã, và cốt nhất là ông chớ có hé môi, dù chỉ một lời, hay nói bóng nói gió, cho bà nhà biết. Phải tuyệt đối kín tiếng. Ông nghĩ xem, ông có thể giữ bí mật được không?

Mắt ông tổng đốc trố ra, ông nói:

- Sao? Tất cả chuyện này anh chưa hề nói một tí gì cho bà Lembke hay cả à?

- Nói với bà ấy? Sức mấy! Đời nào tôi nói. Ông tổng đốc ơi, như ông cũng thấy, tôi hết sức quí mến tình thân hữu của bà ấy cũng như rất coi trọng bà, và tất cả những thứ đó. Nhưng tôi có ngu gì mà phạm vào một sơ hở như thế! Tôi không bao giờ trái nghịch lại ý bà ấy, vì như ông chắc cũng thừa rõ, làm thế nguy hiểm lắm. Tôi có thể một đôi lần nói bóng nói gió một chuyện nào đó với bà bởi vì, bà ấy thích thế. Nhưng có bao giờ tôi lại đi tiết lộ các tên tuổi cho bà ấy, như đối với ông được? Tại sao bây giờ tôi lại đến nói với ông? Lý do là bởi vì dù sao ông cũng là một người đứng đắn, giầu kinh nghiệm cai trị. Ông kinh lịch đã nhiều, và tôi chắc rằng những vụ như thế này ông đã rành từ trong ra ngoài và hiểu từng đường đi nước bước ngay từ thuở ông còn ở Petersburg. Nếu tôi nêu hai tên kia ra với bà ấy, thế nào mà bà ấy chẳng làm rùm beng lên khắp nơi khắp chốn. Như ông cũng biết, bà ấy chỉ cốt cho thủ đô phải lác mắt. Không được, ông ạ, bà ấy có nhược điểm là hấp tấp quá.

- Phải rồi, bà ấy cũng có phần hơi hăng một chút. - Ông Lembke lẩm bẩm tán đồng, vừa khoan khoái mà cũng vừa bực mình là sao tên ó đâm này lại dám phê bình bà Julia một cách quá luông tuồng như thế.

Piot’r, có lẽ nhận thấy rằng mình nói thế chưa đủ, quyết định nịnh nọt và chinh phục ông Lembke thêm chút nữa:

- Vâng, ông nói chí lý: hơi hăng. Bà nhà có thể là một người đàn bà có tài, học thức cao, nhưng nếu để bà dính vào là thế nào cũng sổng cả bầy. Bà ấy không làm sao giữ bí mật cho được sáu giờ đồng hồ, chứ đừng nói là sáu ngày! Ôi, ông tổng đốc ơi, chớ có bao giờ bắt một người đàn bà phải lặng im đến sáu ngày. Tôi mong rằng ông cũng nhận cho là tôi có ít nhiều kình nghiệm, ít ra là trong những vụ như thế này. Tôi biết những gì tôi đang đề cập, và ông cũng biết là tôi biết. Chắc chắn ông hiểu là tôi không xin ông hoãn lại cho tôi sáu ngày kia chỉ vì tôi lăng nhăng vô lối, mà vì tình thế bắt buộc.

Ông Lembke nói đắn đo:

- Tôi nghe nói khi anh ở nước ngoài về, anh có giãi bày với những nơi thích đáng về sự... sự hội ngộ của anh.

- Tôi có giãi bày cái gì, thì việc đó cũng không can hệ gì tới ai.

- Phải, tôi hiểu, tôi không muốn đi sâu vào những gì không liên quan đến mình. Nhưng tôi thấy, dường như cho tới nay, anh phát biểu tư tưởng tại tỉnh này một cách rất khác - chẳng hạn về Kito giáo, về các cơ cấu xã hội, và sau rốt, luôn cả về chế độ nữa...

- Cho dù tôi có nói một số ý kiến, thì đã sao? Tôi vẫn còn giữ nguyên nếp suy tư ấy, có điều tôi cho rằng không thể thực hành những tư tưởng đó, theo lối của bọn ngu xuẩn kia làm được. Cắn vào vai của sĩ quan thượng cấp thì ích lợi quái gì? Thế chính ông chẳng đồng ý với tôi là gì, chỉ có phản đối là việc thực hiện còn sớm quá?

- Khi tôi nói sớm quá, tôi đồng ý với anh về việc khác, đâu phải những thứ đó.

Piot’r tươi tắn nói:

- Ha ha, tôi thấy ông là con người cẩn thận, cân nhắc từng lời như một nhà ngoại giao. Cha nội ơi, chính để tìm hiểu ông mà tôi nói ướm thử ông như thế. Tôi tìm hiểu thiên hạ toàn bằng đường lối ấy, chứ không riêng gì với ông. Ông có muốn tôi nói ra cá tính của ông không?

- Tại sao anh lại cần tìm hiểu cá tính tôi?

Piot’r cười to:

- Làm sao tôi trả lời được tại sao? Ông Lembke thân mến ơi, ông tinh quái lắm, nhưng tôi chưa nói tới chuyện đó đâu, chắc chắn không đời nào. Ông hiểu không? Có lẽ ông hiểu chứ? Mặc dù tôi có thể đã giải thích ít nhiều tại một số nơi khi tôi ở nước ngoài về, tôi thấy không vì một lý do gì mà một người có những tin tưởng chân thành lại không hành động cho xứng hợp với những tin tưởng đó... Tuy vậy, không có ai ở trên đó yêu cầu tôi dò xét ra tính của ông, và nói chung, tôi cũng chưa bao giờ đảm nhận một công tác như thế với họ. Xin ông nắm vững cho điều này: lẽ ra tôi rất có thể cho ở trên đó biết tên hai người kia, khi giãi bầy về công việc riêng tư của tôi, thay vì kể ra cho ông. Nếu tôi chỉ nhằm đến tài chính hay những lợi lộc khác, dĩ nhiên tôi làm như thế này là ngu si, bởi vì họ sẽ coi là ông có công chứ không phải tôi. Dù sao tôi hành động cũng chỉ vì Satov (giọng Piot’r cao thượng hẳn lên), tất cả là để cứu hắn ta mà thôi, nhân danh tình bạn trước đây của chúng tôi. Hẳn nhiên là khi xong xuôi ông viết trình cho họ, nếu muốn, ông có quyền nhắc nhở khen cho công lao của tôi một lời, nhất định là tôi không kiện ông đâu, hê, hê, hê! Thôi bây giờ xin từ giã. Tôi viếng thăm quá lố. Chắc chắn, tôi cũng ba hoa quá nhiều, - anh ta nói pha trò thêm và đứng dậy.

Ông Lémbke cũng vừa đứng đậy vừa mỉm cười trước câu nói sau chót của Piot’r.

- Trái lại, trái lại, tôi rất vui mừng là chúng ta đã làm sáng tỏ ít nhiều điều là đằng khác. Tôi rất lấy làm biết ơn anh đã vui lòng giúp đỡ chúng tôi, và xin: anh cứ yên chí rằng, để đáp lại tấm lòng nồng nhiệt của anh, tất cả những gì nằm trong quyền hạn của tôi,...

- Sáu ngày - điều cốt yếu là trì hoãn sáu ngày, và trong kỳ hạn đó ông không được làm gì kinh động. Tôi chỉ cần có thế.

- Xong rồi.

- Tôi không trói tay ông đâu, và dĩ nhiên tôi cũng đâu dám phạm thượng như thế. Ông vẫn phải canh chừng họ, nhưng xin ông làm ơn đừng làm họ hoảng sợ khi chưa tới lúc. Việc này tôi xin trông vào sự sáng suốt và kinh nghiệm của ông. Tôi tin chắc làm gì ông chả bủa chó săn ra khắp. Ha, ha! - Piot’r tuôn ra một cách vui vẻ như một chàng tuổi trẻ vô tư lự.

Ông tổng đốc mỉm cười nói nhún:

- Không, hẳn thế đâu. Thanh niên các anh lúc nào cứ ngỡ là nhà cầm quyền nhiều chó săn lắm... Nhưng này, anh cho tôi hỏi một câu khác nữa nhé. Nếu đúng như anh nói là Kirillov làm nhân chứng cho Xtavroghin trong vụ đấu súng, thì chắc hẳn Xtavroghin cũng...

- Xtavroghin làm sao?

- Tôi muốn nói: nếu họ thân thiết với nhau đến như vậy...

- Không, không, không! Dù thông minh cách mấy, ở điểm này ông cũng lầm rồi. Thực, ông còn làm tôi ngạc nhiên nữa. Tôi cứ ngỡ là mọi chuyện ông đã rõ hết ngành ngọn rồi. Không, - Xtavroghin hoàn toàn trái nghịch, không giống một chút gì... xin bố cáo!

Ông Lembke nói, ra vẻ nghi ngờ:

- Thực vậy sao? Tôi khó tin quá. Nhà tôi bảo rằng, theo nguồn tin bà ta nhận được từ Peterburg thì Xtavroghin là một người có nhận được chỉ thị.

- Tôi không biết, không biết, không biết gì cả. Xin kiếu. Bố cáo. - Piot’r rõ ràng từ chối thảo luận thêm chút nào về điểm này, anh vừa nói vừa lao ra cửa văn phòng tổng đốc.

- Hãy khoan, Piot’r, đợi một chút. Tôi có một chuyện nhỏ khác muốn bàn với anh. Tôi không giữ anh lâu hơn đâu.

Ông ta lấy ở trong ngăn kéo bàn giấy một phòng bì.

- Đây là một món cũng nằm chung trong loại đó. Đưa cho anh xem chứng tỏ là tôi hết sức tin cậy anh. Nó đây. Anh cho tôi biết ý kiến.

Phong bì chứa một lá thư nặc danh gửi cho quan tổng đốc, mà ông mới nhận được ngày hôm trước. Piot’r chán chường ra mặt và đọc những dòng sau đây:

Thưa ngài:

Chức vụ của ngài đòi hỏi tôi phải xưng hô như trên. Bằng thư này, tôi muốn báo cho ngài hay hiện đang có những âm mưu chống các viên chức cao cấp chính quyền và chống lại xứ sở chúng ta. Sự vật đang đi theo chiều hướng đó. Chính tôi cũng đã phân phát những thứ ấy trong nhiều năm. Vô thần cũng là một lý tưởng nữa. Một cuộc nổi dậy đang được ấp ủ. Có hàng ngàn truyền đơn và cả trăm người sẵn sàng è cổ ùa đi bất cứ nơi nào mà họ sai phái, trừ khi nhà chức trách ra tay. Bởi vì những truyền đơn kia hứa hẹn quá nhiều điều tốt đẹp, mà dân chúng thì ngu ngốc, rồi lại thêm rượu nữa. Tôi sợ cả hai bên, và ân hận về những gì tôi chưa phạm, vì lỗi là do hoàn cảnh. Nếu ngài muốn một sự tố giác để cứu vãn tổ quốc, cũng như nhà thờ và ảnh tượng, thì tôi là người duy nhất có thể làm được điều đó, với điều kiện là Phòng Ba gởi ngay điện văn khoan hồng cho tôi; và chỉ mình tôi mà thôi. Còn những kẻ khác, họ sẽ phải trả lời trước pháp luật. Ngài hãy đốt một cây nến ở cửa sổ của người quản dinh mỗi buổi tối, để làm ám hiệu. Nhìn thấy nó, tôi sẽ tin ngài và đến hôn bàn tay nhà chức trách; miễn là có một khoản trợ cấp cho tôi, kẻo không làm sao tôi sống nổi? Nhưng còn ngài - ngài sẽ không hối tiếc vì chuyện này đâu và ngài sẽ nhận được một bội tinh cao cấp. Nhưng, chúng ta phải làm cho êm! Kẻo không chúng bẻ cổ tôi.

Lúc nào tôi cũng vẫn là kẻ đầy tớ tuyệt vọng quì dưới chân ngài.

Người tự do tư tưởng hối cải.

Nặc danh

Ông tổng đốc giải thích rằng thư đó bỏ vào nhà viên quản dinh ngày hôm qua, trong lúc mọi người vắng mặt.

Piot’r hỏi gần như lỗ mãng:

- Thế ông coi nó như thế nào?

- Tôi cho đó là một trò đùa.

- Tôi nghĩ rằng ông đúng. Tôi thấy khó ai mà lừa ông cho nổi.

- Tôi cho là thế phần lớn bởi vì thực ra nó xuẩn ngốc quá.

- Thế ông có nhận đước lá thư nặc danh nào khác nữa không?

- Có, hai cái.

- Cũng giọng văn như thế? Cũng tuồng chữ đó?

- Giọng văn khác và tuồng chữ khác.

- Nhưng họ viết có pha trò, như lá thư này không?

- Có, họ cũng định pha trò, nhưng thực ra chỉ càng lợm giọng.

- Như ông nói, ông đã nhận được những lá thư khác cùng một loại, thì lá thư này ắt là cũng phải phát xuất từ một nguồn đó.

- Đặc điểm chính của những lá thư này là sự xuẩn ngốc. Những người kia là kẻ có học - quyết là họ không viết lăng nhăng như thế này.

- Hẳn rồi. Dĩ nhiên là không.

- Nhưng giả sử người này thực sự muốn cung cấp tin cho chúng ta thì sao?

Piot’r nói cụt lủn cắt ngang:

- Hoàn toàn không thể xảy ra. Nghĩa lý ra làm sao mà lại điện văn của Phòng Ba, rồi lại trợ cấp? Rõ ràng, là chọc quê ông.

Ông Lembke xấu hổ đáp:

- Phải, tôi nghĩ là anh nói đúng.

- Tôi bàn với ông như thế này - để tôi giữ lá thư đó trong một thời gian. Tôi cam đoan sẽ tìm ra được người gửi. Còn sớm hơn là tìm được bọn kia nữa.

Ông Lembke đồng ý, mặc dù hơi ngần ngại:

- Được, anh giữ lấy.

- Thế ông đã đưa cho ai xem chưa?

- Chưa, dĩ nhiên là không. Đời nào tôi mà lại làm chuyện đó?

- Còn bà Lembke thì sao?

- Trời đất ơi! Anh nói cái gì vậy? Cốt nhất, là đừng cho bà ta xem! - Ông tổng đốc hốt hoảng kêu lên. - Nó sẽ làm bà xỉu... và bà ta sẽ sinh sự với tôi.

- Phải, bà ấy sẽ trách ông trước tiên, và nói rằng nếu người ta dám viết cho ông như vậy cũng là do lỗi ở ông. Lý luận đàn bà ấy mà, biết thừa đi. Thôi, xin chào ông nhé. Tôi có thể đem tác giả lá thư này lại nộp cho ông trong vòng hai hay ba ngày. Nhưng, cần nhất là ông nhớ đến thỏa ước của chúng ta.

4

Piot’r Verkhovenxki có thể không phải là một người ngu xuẩn, nhưng tù nhân khổ sai là Fedca đã nói đúng về anh ta, khi hắn bảo rằng: “Hắn ta sống với mẫu người do hắn bịa đặt ra”. Thế nên, sau khi giã từ ông Lembke, anh ta cảm thấy chắc chắn rằng ông tổng đốc sẽ kín miệng ít nhất trong sáu ngày, một thời gian trì hoãn anh ta cần thiết. Nhưng anh ta tự đánh lừa mình, và cái sai lầm của anh ta là đã tạo trong trí tưởng tượng hình ảnh một ông tổng đốc Lembke ngốc nghếch.

Giống như bất cứ một kẻ nào khác mà nghi ngờ đã trở hành mệt căn bệnh, ông Lembke thoạt tiên bao giờ cũng hớn hở khi một điều mơ hồ bị xóa tan. Ông cảm thấy tình thế đã xoay sang chiều hướng tốt, mặc dù những cái rắc rối phiền hà nó gây ra cho ông. Ít nhất, những điều hồ nghi ám ảnh ông từ trước đã chứng tỏ hoàn toàn vô căn cứ. Thêm nữa, mới đây ông cảm thấy quá mệt, quá kiệt lực một cách vô vọng, tới nỗi tự nhiên ông trông mong an nhàn. Nhưng, hỡi ôi, những điều gở mới lại bắt đầu ùa đến xâm chiếm ông. Khoảng thời gian dài ở Petersburg đã ghi một dấu vết không bao giờ phai nhòa lên con người ông. Ông biết rành về “thế hệ mới”, vì với địa vị chuyên môn của ông, ông quá quen với những hồ sơ mật về họ, và ông còn là một người tò mò ưa sưu tập truyền đơn của họ. Tuy vậy, ông không bao giờ có thể hiểu được gan ruột của họ. Bây giờ ông cảm thấy mình như một đứa bé lạc trong rừng già. Một tiếng nói tự thâm tâm mách cho ông biết rằng có một cái gì chương chướng và giả dối trong những lời lẽ của Piot’r. Ông cãi nhau với nó: “Nhưng, làm thế quái nào mà ai biết được cái bọn “thế hệ mới” đó sẽ làm gì, hay có những chuyện gì xảy ra trong bọn chúng?”

Như để làm ông càng bực mình thêm, cái đầu của Blium ló ra trong khe cửa. Suốt trong thời gian Piot’r có mặt, Blium lúc nào cũng ở lại ngay gian phòng kế cận. Anh chàng Blỉum này là bà con xa với ông Lembke, đó là một điều mà ông tổng đốc bao giờ cũng giấu giếm cẩn thận. Tôi xin cáo lỗi, nhưng tôi cảm thấy rằng, dù cho anh ta không quan trọng mấy, ở đây cũng cần phải nói qua loa về Blium. Đó là một kẻ thuộc cái loại lạ lùng gồm những người Đức “thất bại”, họ “thất bại” không phải là vì họ quá bất tài, mà thực ra không biết vì sao. Nhưng người Đức “thất bại” không phải là những sinh vật hoang đường - họ có thực, ngay cả ở nước Nga nữa - và tự hợp thành một chủng loại riêng. Ông Lembke luôn luôn tỏ ra quan tâm cho Blium một cách rất mực cảm động. Hễ khi nào có thể, và tùy theo bước tiến thân của ông trên hoạn lộ, bao giờ ông cũng chỉ định Blium vào chức vụ nào tốt đẹp nhất dưới quyền của ông. Nhưng Blium chẳng bao giờ gặp may. Hoặc chức vụ của anh ta bị bãi bỏ, hoặc một viên thượng cấp mới không có cảm tình mấy lại được thuyên chuyển đến. Có một lần anh ta suýt nữa phải xách chiếu ra tòa đại hình vì gây gổ với một công chức khác. Anh ta là một người tận tâm, nhưng thường tận tâm một cách không cần thiết, và bẳn tính chỉ làm anh ta thiệt thòi. Anh ta cao lớn, tướng đi hơi còng, tóc đỏ hoe, vẻ mặt u ám, và thực ra khá mẫn cảm. Dù nhiệt thành cách mấy, thường khi anh ta cũng bướng bỉnh như con lừa. Và khi anh ta giữ một lập trường bất di bất dịch, bao giờ anh ta cũng chọn sai mục tiêu và không đúng lúc. Hai vợ chồng anh ta và bầy con đông đảo đều trung thành một cách cuồng nhiệt với vị ân nhân. Ngoài ông Lembke ra chẳng có ai ưa anh ta cả. Bà tổng đốc mới gặp anh ta là đã ghét ngay, nhưng không bao giờ thuyết phục nổi chồng, vì ông vẫn khăng khăng giữ anh ta bên mình. Điều ấy đã là đề mục cho cuộc cãi cọ đầu tiên của hai vợ chồng, và nó xảy ra rất sớm - thực ra là ngay trong tuần trăng mật khi Blium ló mặt trên sân khấu, sau mấy ngày được che giấu trong hậu trường. Bà Julia sững sờ khi biết mối liên hệ họ hàng bí mật và xấu hổ giữa hai người. Mặc dù ông Lembke đã phải chắp tay năn nỉ và kể lại một cách hết sức cảm động tiểu sử buồn đau của Blium, và tình bạn giữa hai người từ hồi thơ ấu, bà Julia vẫn cảm thấy đó là một sự nhục nhã thâm căn cố đế, và bà dùng đủ mọi mưu kế, kể cả việc giả lên cơn động kinh ngất xỉu, để tạo sự đổ vỡ giữa hai người đàn ông. Nhưng ông Lembke không hề lay chuyển, và tuyên bố ông sẽ không chịu để Blium đi. Bà rất ngạc nhiên về sự kiên quyết của ông, và cuối cùng đành nhượng bộ cho phép chồng giữ Blium lại. Tuy nhiên, hai bên thỏa thuận với nhau rằng chuyện Blium có họ hàng với ông Lembke là một điều bí mật càng phải giữ kín hết sức, hơn cả trước kia nữa, và tên cùng phụ danh của anh ta cũng phải thay đổi, vì một sự ngẫu nhiên lạ lùng lại trùng với tên ông. Trong tỉnh Blium không chơi với ai ngoài một nhà bào chế thuốc người Đức. Anh ta không bao giờ đến thăm ai, và cũng như ở các nơi trước, anh ta sống một đời chật hẹp và khép kín. Từ lâu, anh ta đã được biết về những sáng tác văn nghệ thầm kín của ông Lembke. Thường khi, anh ta tình nguyện dự những buổi thính văn bí mật, và ngồi im lặng nghe ông Lembke đọc bản thảo tiểu thuyết, đôi lúc kéo dài đến sáu giờ đồng hồ liền; anh ta ngồi cứng ngắc, mồ hôi nhỏ giọt, hết sức cầm mình cho khỏi ngủ gà ngủ gật và cố giữ nụ cười trên môi. Khi về nhà, anh ta than với vợ, là một thiếu phụ cao và gầy, về cái đam mê khốn khổ của vị ân nhân đối với văn chương Nga.

Bây giờ, khi Blium bước vào, ông Lembke nhìn anh ta một cách thống khổ. Ông nói nhanh, bằng một giọng lo lắng, như sợ rằng Blium nối lại câu chuyện đã bị Piot’r làm gián đoạn:

- Blium, - tôi xin anh để tôi một mình.

Blium năn nỉ, kính trọng nhưng vẫn bướng bỉnh; anh ta khom lưng bước chậm lại phía ông tổng đốc:

- Tuy nhiên, tôi tin là chuyện đó vẫn có thể thu xếp một cách khéo léo và kín đáo, không ai hay biết, ông có đủ thẩm quyền cần thiết để xử sự.

- Anh biết không, Blium, anh trung thành với tôi quá, đến nỗi mỗi lần ngắm anh tôi không sao tránh được sợ hãi.

Ông bao giờ cũng thú vị nói những câu hay ho như thế, rồi lát nữa ông cảm thấy không còn gì đáng lo và đi ngủ kỹ, hài lòng về lời lẽ của mình. Nhưng như thế, về lâu về dài, ông chỉ tự hại thôi.

- Anh biết không, Blium, tôi vừa mới rút ra kết luận là bao lâu nay chúng ta đã sai lầm hết.

- Điều gì đã làm ông nghĩ như vậy? Người thanh niện hư hỏng kia, một kẻ mà chính ông cũng ngờ vực, đã nói với ông những gì? Gã đã nịnh hót tài văn chương của ông để chinh phục cảm tình.

- Anh không hiểu tí gì hết. Kế hoạch của anh khờ lắm.

Chúng ta sẽ không tìm thấy gì đâu, chỉ gây ra một loạt phản đối, và thành trò cười cho thiên hạ mà thôi. Rồi lại còn Julia Mik