← Quay lại trang sách

Câu 1800 - 2080

Trời đà tối mịt, lạc chừng gần xa Một mình lạc nẻo, vào ra Lần theo đàng núi, phút đà tam canh Một mình trong chốn non xanh Biết ai mà hỏi lộ trình trở ra Ðoạn này tới thứ Nguyệt Nga Ở đây tính đã hơn ba năm rồi Ðêm khuya chong ngọn đèn ngồi Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi Quan âm thuở trước nói chi Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài Ðã đành đá nát vàng phai Cũng nguyẳn xuống chốn dạ đài gặp nhau Khôn trông mồng bảy đêm thâu Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao Phải chi hỏi đặng Nam Tào Ðêm nay cho đến đêm nào gặp nhau Nguyệt Nga gượng giãi cơn sầu Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà Kêu rằng: Ai ở trong nhà? Ðường về quan ải chỉ ra cho cùng Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào Lão bà lật đật hỏi chào Ở đâu mà tới rừng cao một mình? Vân Tiên mới nói sự tình Tôi là quốc trạng triều đình sai ra Ðem binh dẹp giặc Ô-qua Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây Lão bà nghe nói sợ thay Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi Hỏi rằng: Bức ấy tượng chi Khen ai vẽ dung nghi giống mình Ðầu đuôi chưa rõ sự tình Lão bà khá nói tính danh cho tường Lão bà chẳng dám lời gian Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây Tiên rằng: Nàng xách lại đây Nói trong tên họ tượng này ta nghe Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè Mặt thời giống mặt, còn e lạ người Ngồi che tay áo hổ ngươi Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi Rằng: Sao nàng chẳng nói đi Hay là ta hỏi động chi chăng là Nguyệt Nga khép nép thưa qua: Người trong bức tượng tên là Vân Tiên Chàng đà về chốn cửu tuyền Thiếp làm trọn đạo, lánh miền gió trăng Vân Tiên nghe nói hỏi phăn Chồng là tên ấy, vợ rằng tên chi? Nàng bàn tỏ thiệt một khi Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay: Thưa rằng: Nay gặp nàng đây Xin đền ba lạy, sẽ bày nguồn cơn Ðể lời thệ hải minh sơn Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi Vân Tiên vốn thiệt là tôi Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai Thưa rằng: Ðã thiệt là ngài Khúc nôi xin cứ đầu bài quân ra Vân Tiên dẫn tích xưa ra Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa Ân tình càng kể càng ưa Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay Xảy nghe quân ó vang vầy Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua Vân Tiên lên ngựa trở ra Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh Hớn Minh khi ấy dừng binh Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau Minh rằng: Tẩu tẩu ở đâu Cho em ra mắt chị dâu thế nào Vân Tiên đem Hớn Minh vào Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên Minh rằng: Tưởng chị ở Phiên Quyết đem binh mã sang miền Ô-qua Mừng rày sum họp một nhà Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào Tiên rằng: Nàng tính thế nào? Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên Ngỏ nhờ lượng cả bề trên Lệnh tha tội trước mới nên về nhà Trạng nguyên từ giã lão bà Dặn dò gửi lại Nguyệt Nga ít ngày Tôi về đem bức tượng này Tâu cho khỏi tội, rước ngay về nhà Tiên, Minh lên ngựa trở ra Ðem binh trở lại trào ca đề huề Sở vương nghe trạng nguyên về Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai Sở vương bước xuống kim giai Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên Phán rằng: Trẫm sợ nước Phiên Có người Cố Ðột phép tiên lạ lùng Nay đà trừ Cốt Ðột xong Thật trời sinh trạng giúp trong nước nhà Phải chi sớm có trạng ra Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ Lệnh truyền mở yến trà đô Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi Trạng nguyên quỳ tấu trước ngôi Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng Phán rằng: Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu Thái sư trước bệ quỳ tâu Ô-qua dấy động qua mâu cũng vì Trá hôn oán ấy gây nên Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân Trạng Nguyên mặt đỏ phừng phừng Bèn đem bức tượng quỳ dưng làm bằng Sở vương xem tượng phán rằng: Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa Thái sư trước chẳng lo lừa Thiếu chưa dân thứ phải đưa tới nàng Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời Ngay gian sao cũng có trời Việc này vì trẫm nghe lời nên oan Trạng nguyên tâu trước trào đàng Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà Trịnh Hâm là kẻ gian tà Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen Sở vương phán trước bệ tiền Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi Thái sư muốn cướp ngôi chín trùng Hán xưa có gã Ðổng công Nuôi dòng Lã Bố cướp dòng nhà Lưu Ðời xưa tôi nịnh biết bao Thái sư nay cũng khác nào đời xưa Thấy người trung chính chẳng ưa Rắp ranh kế độc, lập lừa mưu sâu Trịnh Hâm tội đáng chém đầu Ấy là mới hết người sau gian tà Sở vương phán trước trào ca Thái sư cách chức về nhà làm dân Trịnh Hâm là đứa bạo thần Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình Nguyệt Nga là gái tiết trinh Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng Kiều công xưa mắc tội oan Trẫm cho phục chức làm quan Ðông-thành Trạng nguyên dẹp giặc đã bình Kiểu vàng tán bạc hiển vinh về nhà Bãi chầu chư tướng trở ra Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi Cùng nhau uống rượu đều vui, đều cười Trạng nguyên mới hỏi một lời Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào Mặt nhìn khắp hết, miệng chào các anh Minh rằng: Ai mượn kêu anh Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi Kéo ra chém quách cho rồi Ðể chi gai mắt, đứng ngồi căm gan Trực rằng: Minh nóng nói ngang Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi Xưa nay mấy đứa vô nghì Dẫu cho có sống làm gì nên thân Hâm rằng: Nhờ lượng cố nhân Vốn tôi mới dại một lần xin dung Trạng rằng: Hễ đấng anh hùng Nào ai có giết đứa cùng làm chi Thôi thôi ta cũng rộng suy Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi Hâm mừng khỏi thác rất vui Vội vàng cúi lạy chân lui ra về Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê Ngồi chề bề mặt như sề thịt trâu Hớn Minh, Tử Trực vào tâu Xin đưa Quốc trạng kịp chầu vinh qui Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê Trạng nguyên xe giá chỉnh tề Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga Bạc vàng đem tạ lão bà Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Ðông-thành Võng điều, gươm bạc, lọng xanh Trạng nguyên, Tử Trực, Hớn Minh lên đàng Trịnh Hâm về tới Hàn Giang Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay. Trịnh Hâm bị cá nuốt vây Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng Thấy vầy nên dửng dừng dưng Làm người ai, nấy thì đừng bất nhân Tiểu đồng trước giữ mộ phần Ngày qua tháng lại đã gần ba năm Của đi khuyến giáo mấy năm Tính đem hài cốt về thăm quê nhà Hiềm chưa thuê đặng người ta Còn đương thơ thẩn vào ra Ðại Ðề Trạng nguyên khi ấy đi về Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng Tiểu đồng hồn bậu có thiêng Thỏa tình thày tớ lòng thiềng ngày nay Ðọc văn nhớ tới chau mày Ðôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng Người ngay trời phật động lòng Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi Trạng nguyên còn hãy sụt sùi Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền Tiểu đồng nhắm ngửa, nhìn nghiêng Ông này sao giống Vân Tiên cũng kỳ Ông nào mất xuống âm ty Ông nào còn sống nay thì làm quan? Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni Mấy năm tớ mới gặp thầy Cúng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn Ai dà còn thấy bổn quan Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi Trạng nguyên khi ấy mừng vui Tớ thầy sum họp tại nơi Ðại Ðề Ðoạn thôi xe giở ra về Tuần du phút đã gần kề Hàn Giang Võ công từ xuống suối vàng Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu Mẹ con những mảng lo âu Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh Cùng ta xưa có ân tình Phải ra đón rước lộ trình họa may Loan rằng: Mình ở chẳng hay E ngưòi còn nhớ những ngày trong hanh Trang rằng: Con có hồng nhan Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa Ví dầu còn nhớ tích xưa Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công Cùng nhau bàn luận đã xong Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên Nay đà tới thứ Trạng nguyên Hàn giang đã tới, bỗng liền đóng quân Bạc vàng châu báu áo quần Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều Ngư tiều nay đặng danh biêu Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe Trạng nguyên chưa kịp trở về Thấy Quỳnh Trang đã đừng kề trong quân Trang rằng: Tưởng chữ hôn nhân Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên Võ công đã xuống huỳnh tuyền Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này Trạng rằng: Bưng nước bát đầy Ðổ ngay xuống đất hớt rày sao xong Oan gia nợ ấy trả xong Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi Hớn Minh, Tử Trực đứng coi Cười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ong Khen cho lòng chẳng thẹn lòng Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi Ca ca sao chẳng chịu đi Về cho tẩu tẩu để khi xách giày Mẹ con đương thẹn thùng thay Vội vàng cúi lạy chân quày bước ra Trở về chưa kịp tới nhà Thấy hai ông cọp chạy ra đón đường Thảy đều bắt mẹ con nàng Ðem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng Bốn bề đá lấp bịt bùng Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi Trời kia quả báo mấy hồi Tiếc công trang điểm phấn giồi bấy lâu Làm người cho biết ngãi sâu Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn Ðừng đừng theo thói mẹ con Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh Trạng nguyên về tới Ðông-thành Lục ông trước đã xây dinh đầu làng Bày ra sáu lễ sẵn sàng Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga Sui gia đã xứng xui gia Rày mừng hai họ một nhà thành thân Trăm năm biết mấy tinh thần Sinh con sau nối gót lân đời đời

Hết Chú thích: 1.Phản hồi bổn quân: trở về toán quân của mình 2.Dạ đài: lâu đài đêm, đêm có nghĩa là tối tăm, chỉ nơi tối tăm của người chết. "Dạ đài" cũng như "tuyền đài" (đài suối vàng, tức là lâu đài dưới đất), nghĩa chính là "cái mả", mà nghĩa bóng là nói cõi âm, cõi chết. 3.Mồng bảy đêm thâu (thu): đêm mồng bảy tháng bảy mùa thu. Bầy quạ đội cầu đưa sao: sao chỉ hai sao Khiên ngưu và Chức nữ. (Xem chú thích ở các câu 245, 246 và 1248). Nguyệt Nga nói, mình với Vân Tiên, khôn mong gặp nhau như Chức nữ gặp Ngư 1248). 4.Nam Tào: theo thần thoại. Nam Tào và Bắc Ðẩu là hai vị thần giữ sổ sinh tử của trần gian. 5.Dung nghi: dáng điệu 6.Tính danh: họ tên 7.Kiêng dè: dè dặt, thận trọng 8.Gió trăng: chỉ thói dâm tà xấu xa 9.Phăn: lần (phăn mối chỉ). Hỏi phăn: hỏi lần cho biết 10.Thệ hải minh sơn: thề bể hẹn non, tức là chỉ bể chỉ núi mà thề: lời nói của mình bền vững như núi như bể. 11.Khúc nôi: hay khúc nhôi, những chi tiết của sự việc, lai lịch khúc chiết. Ðầu bài: như nói câu chuyện. nói câu chuyện lai lịch thế nào, xin bàytỏ cho biết. 12.Quân ó vang vầy: quân thét vang lừng. 13.Can qua: mộc và mác, đồ binh khí. nói: quân gia kéo đến chung quanh rừng, la liệt những binh khí. 14.Tẩu tẩu: chị dâu, dùng theo tiếng bạch thoại Trung Quốc. Ðây Hớn Minh coi Nguyệt Nga như chị dâu, nên xưng hô như thế. (Xem chú thích ở câu 1229) 15.Khải ca hồi trào: hát khúc ca thắng trận trở về triều. 16.Trào ca: triều đình, triều ban. 17.Ðề huề: dắt tay nhau cùng đi. Nghĩa bóng là thân thiện mà dìu dắt nhau. 18.Kim giai: thềm vàng 19.Trà đô: nơi đô thị có triều đình. 20.Qua mâu: giáo mác. Dấy động qua mâu: dấy binh xâm phạm 21.Khi quân: dối vua, lừa vua. Tội khi quân là tội to thời xưa 22.Dân thứ: cũng như dân chúng. nói: thiếu gì con gái nhân dân mà lại phải dùng đến nàng. 23.Chậu úp: do chữ Hán "phú bồn", sách Bảo phác tử có câu "Tam quan bất chiếu phú bồn chi nội", nghĩa là ánh tam quang (mặt trời, mặt trăng và các vì sao) không soi vào được trong lòng cái chậu úp. Người ta thường nói: "Phú bồn chi oan": cái oan chậu úp, là chỉ sự oan ức không giải bày được. nói hai câu này: dù sáng suốt như mặt trời mặt trăng mà không xét đến nỗi oan tối tăm thì cũng mang tiếng xấu với đời. 24.Trữ dưỡng: chứa chấp và nuôi nấng. 25.Ghe phen: (tiếng miền Nam) nhiều phen, có phen. 26.Tướng ngỏ: ngỏ có nghĩa là trung, giải bày cả tấm lòng thành thực với vua. 27.Chín trùng: do chữ "cửu trùng": chín trùng cửa. Sở-từ có câu: Quân chi môn dĩ cửu trùng", nghĩa là cửa nhà vua những chín trùng, nói vua ở một nơi sâu thẳm. Nhân thế người ta gọi nơi vua ở hay bản thân vua là "cửu trùng". Ðây nói: thái sư muốn cướp ngôi vua. 28.Ðổng công: Ðổng Trác. (Xem chú thích ở câu 1251) 29.Nhà Lưu: nhà họ Lưu, tức nhà Hán. 30.Bạo thần: kẻ bày tôi tàn ác 31.Xử phân pháp hình: Theo hình phép nhà nước mà trị tội. 32.Giết ruồi đâu xứng gươm vàng: nói người quân tử không thàm giết kẻ tiểu nhân, cũng như gươm vàng không đáng đem mà giết ruồi cho bẩn gươm. Câu này do câu ca dao: "Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi". 33.Vô nghì: phi nghĩa, bạc ác. 34.Dung: tha cho 35.Chề bề: một từ ngữ hình dung cái bộ mặt ê chệ khi bị nhơ nhuốc. 36.Sề: một thứ rổ, đan bằng tre nứa, dùng đựng đồ vật. Sề thịt trâu: nói như cái rổ thịt trâu trông nhầy nhụa ê chệ. 37.Vinh qui: vẻ vang trở về. Thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, được vua ban mũ áo, cờ biển cho vẻ vang mà trở về, và được nhân dân tổ chức cuộc đón rước long trọng. Kịp chầu vinh qui: kịp thời (buổi, lúc) vinh qui. Trước đây Vân Tiên thi đỗ xong, chưa được vinh qui, phải đi đánh giặc ngay, nên nay mới xin vua cho kịp thời trở về. 38.Rước về Nguyệt Nga: tức là rước Nguyệt Nga về. Câu này cũng như câu: "Vợ Tiên là chị Trực" ở phần trên, đảo ngữ gò ép để cho có vần. 39.Báo ứng: giả lại xứng đáng những việc mình làm. Theo thuyết nhà Phật: làm điều thiện thì gặp thiện, làm điều ác thì gặp ác, đó là lẽ báo ứng. Rất ưng: rất phải, rất đúng. 40.Mộ phần: mồ mã, cũng như phần một. 41.Hài cốt: xương người chết. Tiểu đồng đi khuyên giáo được một số tiền, định thuê người đưa hài cốt chủ (người chết mà tiểu đồng nhận nhầm là Vân Tiên) về chôn ở quê nhà. 42.Thiềng: do tiắng "thành" đọc chệch. 43.Bài vị: mảnh gỗ hay giấy có đề tên tuổi người chết để thờ cúng. 44.Từ ngằn: từ độ ấy đến nay. 45.Bổn quan: bản quan, cũng như bản chức, tiếng tự xưng hô của người làm quan thời trước. ở đây là tiếng của tiểu đồng xưng Vân Tiên. 46.Tuần du: đi chơi để xem xét. Chữ "tuần" nguyên trước chỉ nghĩa là đi mà xem xét, như nói "tuần du" "tuần thú" (sự đi xem xét các nước chư hầu của thiên tử thời xưa), sau lại dùng thêm nghĩa: đi qua lại mà xem xét, như nói "tuần tiễu" (về quân sự), "tuần cảnh" (về cảnh sát). 47.Hồng nhan: sắc đẹp. 48.Ðổ thừa Võ công: đổ cả việc hãm hại Vân Tiên cho Võ công. 49.Ra phòng rước duyên: phòng là chờ, hòng, nói Thể Loan trang điểm xong, ra nơi lộ trình của Vân Tiên để hòng đón rước mối duyên. 50.Biêu: do chữ "tiêu" là nêu đọc chệch đi. Có bản chép là "bêu", cũng do chữ "tiêu" mà ra, nhưng tác giả dùng tiếng miền Nam với nghĩa tốt của nó (nêu), chứ không dùng theo nghĩa xấu (bày ra một cách nhơ nhuốc) ở miền Bắc, như nói: bêu đầu, bêu xấu, bán bêu. 51.Huỳnh tuyền: hoàng tuyền (xem chú thích ở câu 1206) 52.Bưng bát nước đầy, Ðổ ngay...: nói tình duyên đã dứt, không thể nối lại, cũng như bát nước đã đổ xuống đất, không thể hốt lại đầy được nữa. Dùng tích vợ Chu Mãi Thần (xem chú thích ở câu 416). 53.Oan gia: xem chú thích ở câu 1069. Vân Tiên cho việc mình bị nhà Võ công hãm hại là cái nợ oan gia, nên bảo rằng: oan gia nợ ấy tôi đã giả xong rồi, sao lại còn tới đòi hỏi? 54.Ca ca: anh (chữ này ta thường đọc là kha, nhưng chính âm là ca). Chịu đi: ưng thuận đi. 55.Tẩu tẩu: chỉ Nguyệt Nga. Hớn Minh và Tử Trực bảo Vân Tiên sao không ưng thuận, cho Thạ Loan về để xách giày cho Nguyệt Nga. 56.Thương-tòng: cái hang mà Võ công đã bỏ Vân Tiên trước đây 57.Quả báo: tiếng nhà Phật, chỉ cái kết quả đền lại, giả lại nhưng việc mình đã làm (nói chung cả việc thiện lẫn việc ác) 58.Xấu còn bia danh: tiếng xấu còn lưu lại như tạc bia, để cho người đời chê cười mỉa mai 59.Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới xin thời xưa, tức: nạp thái (đưa lễ kén chọn), vấn danh (hỏi tên tuổi), nạp cát (đưa điềm tốt), nạp trương (đưa sính lễ), thỉnh kỳ (xin ngày cưới), thân nghinh (đón dâu). 60.Gót lân: do chữ Hán "lân chi" là chân con kỳ lân, một loài thú tượng trưng cho đức tính nhân hậu (người xưa bảo con kỳ lân không dẫm chân lên các sinh vật bé nhỏ và làn cỏ xanh tươi). Thơ "Lân chi" ở Kinh thi khen ngơi con cháu và họ hàng của Văn vương (vua tổ nhà Chu) là nhưng người sang cả mà có đức tốt, nhân lấy con lân ví với cha mẹ (Văn vương) và chân của nó ví với con cái. Do đó, người ta gọi người con hiền, con quí là "lân chi". Ðây nói Vân Tiên lại sinh được con hay, lập nên công danh, nối dõi nghiệp cha lâu dài.