← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IX TIẾNG CỔ, TIẾNG MỚI

1.- Những tiếng cổ.

2.- Hai đoạn văn dùng tiếng cổ và giọng cổ.

3.- Hai quan niệm về sự tạo tiếng mới.

4.- Khi nào nên tạo tiếng mới?

5.- Khi tạo tiếng mới, nên giữ tính cách của Việt ngữ.

6.- Vài sự vô lí trong ngôn ngữ.

Mỗi tiếng của một ngôn ngữ cũng như mỗi tế bào của một sinh vật sinh lão rồi tử để nhường chỗ cho tiếng mới.

Chúng lão và tử vì nhiều nguyên nhân:

- Nếu chế độ và phong tục mất thì những tiếng để chỉ nó tất phải mất theo. Chẳng hạn những tiếng: lễ phạn hàm, lễ chiêu điện, tịch điện, đồng tiền điếu, nón quai thao... đương hấp hối và chẳng bao lâu nữa sẽ chết.

- Có những tiếng, vì hình thức mới của đời sống, vì những nhu cầu mới mà bị đẩy lùi về dĩ vãng. Bây giờ đã ít người nói: cáng đáng cho nhau một việc gì, đèn trời soi xét và từ ngữ dân chi phụ mẫu chỉ còn dùng với ý nghĩa mỉa mai.

- Một số tiếng tuy vẫn sống nhưng biến nghĩa đi. Tử tế vốn có nghĩa là tinh mật kĩ càng, bây giờ có nghĩa là tốt bụng; kiêu ngạo vốn chỉ một người kiêu căng ngạo mạn, nhưng ở Nam Việt lại chỉ được dùng với nghĩa chế giễu. Tiếng libertin của Pháp từ cái nghĩa được trả lại tự do, chuyển sang nghĩa tự do tư tưởng không theo một tôn giáo nào, và bây giờ chỉ hạng phóng đãng, trụy lạc. Indiscrétion ở thế kỷ 17 có nghĩa là không biết phân biệt, ngày nay có nghĩa là không kín dáo...

- Sau cùng nhiều tiếng vẫn giữ nguyên nghĩa nhưng mòn đi như những đồng bạc, và lần lần bị loại bỏ: như vị chi, hèn chi, bèn, bương (mau), nền (bảnh)... Dùng tiếng, có lẽ cũng như bận quần áo, phải theo mốt. Ngày nay ai mà nói tự tỉnh thì được đặt ngay vào hàng cổ lỗ bận áo thụng và đi hia, mà nói tự xét mình cũng là không hợp thời nữa, cũng còn vẻ khăn đóng, áo dài; phải nói: tự phê bình, tự kiểm thảo. Có người Pháp nào còn nói: Je prendrai l’aéroplane pour aller à New-York, hoặc II faut faire réparer votre vélocipède?

*

Dùng tiếng cổ mà không nhằm chỗ thì câu văn hóa tối tăm và cầu kì, như trong câu:

A l’époux sans macule (không vết, trong sạch) une épouse impollue (trong sạch)[1] của Corneille, nhưng nếu đúng chỗ thì lại rất đắc thế, như từ ngữ J’ai souvenance (tôi nhớ lại) trong các điệu hát cổ của Pháp và động từ choir (đánh rớt: la fée laissa choir sa baguette) trong truyện trẻ em của Perrault.

Ở nước ta. Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Tuân, Hư Chu đều khéo dùng tiếng cổ. Hai nhà sau, còn gò thêm một giọng cổ, hơi lôi thôi như y phục các thư sinh và tiểu thư thời xưa.

Đây là một đoạn của Nguyễn Tuân tả một nhà nho phóng lãng:

Ông Cử Hai đi dạy học, đã lấy cái việc dạy học làm một mưu hộ khẩu mà y như là đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Và những lúc mỏi chân phải ngừng ở lại các thôn ổ, ông lại còn thỉnh thoảng ngừng cả cái miệng giảng sách hoặc ngừng chấm nét son lên quyển bài để đề một bức châm lên lá quạt tặng một ông bạn đồng song, để khắc chữ triện và chạm trổ một hòn đá xù xì cho thành một con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu mực vẻ một bộ tứ bình thủy mặc có hình đủ bốn thứ cây có tả hữu: cúc, trúc, lan, mai, treo chơi trên vách đất quán trọ nơi ngồi dạy học.

Và đây là hai ông già chơi hoa chuyện trò với nhau trong Thạch nữ giá Bồ lang của Hư Chu:

Hai ông già lại cùng nhau uống trà, nói chuyện về các cách choi hoa. Cho mãi đến lúc gia nhân dọn cơm chiều bưng lên thì Dương công có ý buồn rầu, thấy khách sắp chẳng ngồi cùng mình nữa.

Cụ bảo khách, giọng rất trầm trầm:

- Lão phu vẫn cứ tưởng được cùng tôn ông gác đùi nói chuyện thâu đêm, để thỏa cái lòng ước ao gặp một người hoa hữu. Ngờ đâu buổi nhất kiến chỉ ngắn ngủi có chừng này! Vậy mong rằng trong bước chu du bốn bề năm hồ, tôn ông đừng quên ở làng Đồng Khai có lão phu vẫn xanh mắt và treo giường để chờ ngày tái ngộ!

Khách nghe câu nói chí tình, cũng hết sức cảm động. Liền buông chén rượu, chắp tay đáp:

- Ngu hạ xin bái lĩnh!

Trời ngả hẳn về chiều thì bữa cơm xong. Khách đứng dậy, cầm nón, cáo biệt mà lên đường. Dương công theo tiễn ra tận cổng ngoài thì khách còn nán lại, cặn kẻ dặn thêm:

- Giống mai Thúy Vũ gốc ở bên Tàu, về miền núi Tây Xuyên. Nó mọc tận đỉnh cao nên không mấy người chiết lấy cành giống được. Nay vườn nhà đại nhân ngẫu nhiên mà có, há chẳng phải là sự tiền duyên? Vậy dám mong dụng công gìn giữ, kẻo lỡ nó chết đi thì tiếc lắm.

Dương công vòng tay đáp:

Xin lĩnh giáo.

Đáp xong, hai người lại xá chào nhau. Ông khách họ Mai đi rồi, cụ bố còn đứng tựa cổng với trông theo mãi đến khi bóng khách đã khuất sau lũy tre ngoài đầu xóm.

Thời nào, văn sĩ cũng ưa tạo tiếng mới vì thấy không đủ tiếng để diễn hết những tế nhị của tư tưởng và tình cảm, nhưng mới từ non trăm năm nay, sự phát triển của khoa học làm cho nếp sống và cách suy nghĩ của con người thay đổi rất sâu và rất mau, nên sự tạo tiếng thành một phong trào chỉ có tăng chứ không giảm; và các tạp chí khoa học, nhất là các báo thông tin đã thành những xưởng chế tạo tiếng mới.

Ta đừng tưởng lầm rằng chỉ các văn nhân đa tài như Balzac, Rimbaud, André Gide, Montherlant mới lãnh nhiệm vụ làm giàu cho tiếng nói đâu, chính những cây viết tầm thường nhất lại thường hăng hái nhất trong công việc đó. Ông Marouzeau đã lượm được tới bảy tiếng mới trong một trang sách:

Les infâmes petits maitres... se pataudent et s’hommassent d’une manière horripilante, tandis qu’au contraire les souliers à talons hauts... Sylphisent le corps... La mignonesse d’un sourire Cythéréique fait chime’ver dans l’altente du bonheur.

Và ông tự hỏi tác giả những hàng đó viết bằng tiếng Pháp hay tiếng Thổ Nhĩ kì.

Trái lại, một số văn sĩ khác, ít hơn, lại ghét cay ghét đắng cái thói tạo tiếng ấy. Maupassant nói:

…điều khiển câu theo ý mình, bắt nó nói được hết thảy cả những cái mà nó không diễn, làm cho nó đầy những ý tại ngôn ngoại, vẫn khó hơn là đặt những tiếng mới”.

Fromentin trong bài tựa cuốn Un été dans le Sahara bảo tiếng Pháp có những phú nguyên vô tận, đào hoài cũng không hết, cần gì phải mở rộng khu vực cho nó nữa. Và chính Victor Hugo mà tài sáng tác quán tuyệt cổ kim cũng chê sự tạo tiếng là “một phương sách tồi để cứu vớt sự bất lực”.

Hai quan niệm tương phản nhau như vậy mà quan niệm nào cũng được một số danh sĩ bênh vực, thì ta biết đâu là phải, đâu là trái?

*

Muốn xét kĩ, ta phải phân biệt những tiếng cũ mà nghĩa mới, những tiếng mới hữu ích, cần thiết và những tiếng mới vô dụng, thừa.

- Dùng một tiếng cũ với nghĩa mới là việc rất nên làm. Đó là phương pháp tạo hình ảnh mà người cầm viết nào cũng đã thử qua. Khi Nguyễn Du viết:

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông

thì cụ đã cho tiếng lửa một nghĩa mới là đỏ như lửa.

Những tiếng đức trong đức của câu văn và xây dựng trong xây dựng một câu dài, cũng là những tiếng cũ mà nghĩa mới.

Lạ một điều là sau Nguyên Du, không ai dám bắt chước cụ mà viết lửa lựu nữa, sợ mang cái tiếng đạo văn, nên lửa lựu vẫn giữ tính cách là một hình ảnh mà không thành một tiếng mới; trái lại những tiếng tầm thường: đức trong văn, hoặc xây dựng một câu, hễ đã có người dùng rồi thì ai dùng cũng được, nhờ vậy mà thành những tiếng mới. Phải chăng đa có một sự mật ước giữa các nghệ sĩ để che chở riêng những viên ngọc của văn học?

- Đặt một tiếng mới cần thiết hoặc chỉ hữu ích thôi cũng là điều đáng khuyến khích. Thời buổi đã thay đổi thì tất có những sự vật mới, những quan niệm mới và phải tạo ra những tiếng mới để chỉ những cái đó. Hồi xưa, chúng ta làm gì có những máy phát thanh, máy lạnh, bom nguyên tử, bom khinh khí, xe díp, xe tăng, làm gì có những chủ nghĩa phát xít, làm gì có cái tinh thần đồng đội...?

Có khi sự vật không thay đổi nhưng quan niệm của ta về nó thay đổi thì ta cũng phải thêm một tiếng mới. Chẳng hạn, để chỉ một thời gian rất ngắn, người Trung Hoa thời xưa đã có chữ nhất thuấn là một chóp mắt, nhưng từ khi đạo Phật bành trướng thì lại thêm chữ sát na nữa cũng để chỉ một thời gian rất ngắn, nhưng thêm cái nghĩa về triết lí.

Gần đây, nhiều văn sĩ Pháp bĩu môi, bảo viết recevoir une marchandise không được sao, mà còn lập dị, đặt thêm chữ réceptionner Họ chê thì chê, chữ réceptionner cũng mỗi ngày một thông dụng vì nghĩa của nó có hơi khác recevoir. Réceptionner cũng là nhận một món hàng người ta giao, nhưng còn thêm cái nghĩa là hàng đã giao đúng những điều kiện thỏa thuận giữa kẻ mua người bán.

Và nếu phân tích cho kĩ thì ta thấy tự xét mình với tự kiểm thảo có chỗ tiểu dị, mà cái quan niệm tranh thủ nhân tâm quả có khác xa quan niệm đắc nhân tâm, dùng tiếng hiệu năng chứ không[2] dùng tiếng đắc lực hoặc hiệu quả để diễn một quan niệm mới mà người Anh gọi là Effciency, tức quan niệm sản xuất hoặc làm việc cho mau mà đỡ tốn công, tốn sức, tốn tiền.

Lại có khi sự vật hoặc quan niệm không thay đổi, nhưng tiếng cũ hoặc không gọn hoặc đặt sai, nên ta muốn tạo tiếng mới. Người ta đều nói: “Ông ta bẩm sinh giàu tình cảm”; nếu nói: “Ông ta bẩm sinh phú tình” thì được cái tiện là ngắn hơn mà nghĩa cững vẫn rõ, lời không cầu kì, vì nói đa tình được thì cũng nói phú tình được.

Từ khi cụ Trần Trọng Kim dùng tiếng Văn phạm đề dịch tiếng Grammaire của Pháp thì các trường học và sách giáo khoa đều dùng nó. Nhưng hai ông Nguyễn Bạt Tụy và Nguyễn Văn Minh muốn đặt tiếng mẹo ngữ để thay vào, vì văn phạm không đúng nghĩa với Grammaire[3]: phạm là khuôn phép, văn phạm là khuôn phép làm văn, dùng để chỉ một cuốn dạy cách viết các bài tả cảnh, tự sự, nghị luận... thì phải hơn[4].

Ngoài những trường hợp cần thiết hoặc hữu ích kể trên, mà tạo ra một tiếng mới thì là lập dị hoặc tỏ ra mình thiếu dụng ngữ, và tiếng mới đó không sớm thì muộn thế nào cũng bị đào thải.

Tôi không rõ có cái miền nào mà người ta không nói “chỉ còn ba đồng” và nói “chỉ tồn ba đồng” không? Nếu không thì kí giả nào dùng tồn cho còn trong câu như vậy đã làm một việc vô ý thức.

Hai chục năm trước, ở Nam, nhiều người dụng tiếng bất phải nghe thật chướng tai, một lẽ vì bất là tiếng Hán, phải là tiếng nôm, ghép Hán với nôm có vẻ như miễn cưỡng, nhưng lí do chính vẫn là ta đã có những tiếng không phải, chẳng phải rồi.

Khi tạo tiếng mới, ta phải xét xem tiếng ấy có thật là cần thiết, hoặc ít nhất cũng hữu ích không; rồi nếu ta lại để ý đến tính cách của Việt ngữ là dễ dung nạp những tiếng hai âm thì tiếng mới của ta có hi vọng được người khác dùng.

Cứ xét những tiếng mới đã được thông dụng thì biết kiểm sát thảo luận đã được thu lại thành kiểm thảo; tiếng Pháp lavabo qua Việt thành lao bô, ovomaltine thành om tin.

Có lẽ cũng do tính cách đó mà chữ hóa ta bắt chước Trung Hoa đặt vô sau một danh từ hoặc một danh từ đi với một động từ để đổi nó thành động từ như nhân cách hóa, quốc hữu hóa... có thể sẽ lần lần mất đi. Ta sẽ nói: Nước Anh đã quốc hữu các mỏ; nhà văn đó đã nhân cách đám mây; cũng như hiện nay ta nói văn chương ảnh hưởng lớn đến phong tục, chính phủ đã võ trang thêm hai sư đoàn. Nhưng nếu là một danh từ đổi làm động từ như nhân cách hóa thì phải đợi một thời gian, chứ đột nhiên bỏ chữ hóa đi mà dùng làm động từ ngay thì không khỏi làm cho độc giả bỡ ngỡ, và lời văn hóa không xuôi.

Cứ theo lí thì như vậy, song trong ngôn ngữ, nhiều khi ta gặp những điều rất vô lí.

Bảo là hễ cần thiết và có ích thì nên đặt tiếng mới, nhưng người Pháp đã biết bao lần thấy cần có một danh từ giống cái cho confère hoặc successeur mà có ai chịu nhận những tiếng consoeur hoặc successeuse đâu? và chúng ta cũng đã bao lần muốn có một đại danh từ gì như chữ il của Pháp, có thể thay cho cụ, ông, ngài, chú, bác, anh, em, nó, con, cháu... mà đã có ai tìm được tiếng nào, dám đặt ra tiếng nào đâu?

Bảo ghép Hán với nôm không được, mà sao ta vẫn nói bất ngờ (bất là Hán, ngờ là nôm), vẫn nói tổng sắp, tái nhóm?

Rồi Roger Martin du Gard đặt ra động từ se dépatrier thì không ai chịu - mặc dầu cũng chẳng ai theo - còn Tallemand des Réaux viết: moiguer, galantiser thì bị Marouzeau cho là lập dị!

Ai định được đâu là ranh giới giữa những tiếng mới sẽ được thông dụng và những tiếng sẽ bị đào thải?

Chú thích:

[1] Tiếng này đã mất trong tự điển Larousse, chỉ còn tiếng polluer và poluution.

[2] Sách in: “…đắc nhân tâm chứ không…”, tôi tạm sửa lại thành: “…đắc nhân tâm, dùng tiếng hiệu năng chứ không…”. (Goldfish).

[3] Coi bài của ông Nguyễn Bạt Tuỵ trong Việt Nam giáo khoa tập san số 2 (ngày 1-6-53).

[4] Hiện nay dùng từ ngữ pháp thay cho văn phạm.