← Quay lại trang sách

CHƯƠNG I : TIỂU SỬ

Lý Văn-Phức, tự Lân-chi 2, hiệu Khắc-trai, sinh ngày mồng 1 tháng 10 3 năm Cảnh-hưng thứ 46 (1785) ở làng Hồ-khẩu, huyện Vĩnh-thuận, tỉnh Hà-nội (nay thuộc huyện Hoàn-long, ngoại thành Hà-nội), nên trong tập Chu-nguyên tạp vịnh thảo, chính ông đã chua rằng: « Tôi quê ở Hà-nội... Chuyến đi sứ này, sứ quán cũng ở ngay Hà-nội » (dịch theo nguyên văn chữ Hán), đỗ hương-tiến (tức cử nhân) năm Gia-long thứ 18 (1819).

Đầu niên hiệu Minh-mệnh (1820-1840), ông được bổ Hàn-lâm biên-tu, làm việc trong Sử-quán, dần lên Lễ-bộ thiêm-sự, hiệp-lý Quảng-nam trấn vụ, kiêm quản Lục-kiên cơ, tham-hiệp Quảng-nam doanh. Khi làm việc, phần nhiều đều đúng phép tắc, được vua Minh-mệnh ban khen, vời vào làm Hộ-bộ hữu thị-lang, thự hữu tham-tri.

Được ít lâu, vì mắc lỗi, phải tước chức, phái đi Tiểu-tây-dương, rồi đi Tân-gia-ba để hiệu lực. Liền đó, được khai phục làm nội-vụ phủ tư-vụ, quản-trị chiếc Định-dương thuyền, đi công cán Lữ-tống và Quảng-đông. Lại lên Binh-bộ chủ-sự, đi Tân-gia-ba lần nữa. Nhiều lần ông được cử đi công cán ở Quảng-đông và Áo-môn 4 (bính-thân, 1836). Khi thăng Công-bộ hữu thị-lang, kiêm quản chiếc Phấn-bằng thuyền, ông lại được phái đi Tân-gia-ba. Sau cuộc công cán này, khi về, được thự Công-bộ hữu tham-tri, quyền coi sự-vụ thủy-sư ở Kinh-kỳ.

Năm tân-sửu, niên hiệu Thiệu-trị thứ nhất (1841), đặc cách bổ Lễ-bộ hữu tham-tri, sung chức chánh-sứ đi Yên-kinh (nhà Thanh). Bấy giờ Văn-Phức ngót 60, cảm thấy mình đã quá già trước tuổi, nên mới có nói ở bài « Tự-tự » cuốn Chu nguyên tạp vịnh thảo: «...Nghĩ mình chưa đầy 60, thế mà râu tóc đã bạc phơ, cặp mắt đã mờ yếu, như thể ông lão 70 vậy! » (Dịch theo nguyên văn chữ Hán).

Sau đó, vì vụ tầu biển ngoại-quốc đến cửa Đà-nẵng, ông làm việc không khéo, bị Triều-đình Thuận-hóa định xử phát vãng làm lính. Nhưng liền đó, được khai phục, làm thị-độc.

Năm Tự-đức thứ nhất (1848), thăng lang-trung, biện lý sự-vụ trong bộ Lễ. Qua năm sau (1849), thăng Quang-lộc-tự-khanh, rồi chết, được truy thự Lễ-bộ hữu thị-lang.

Chú thích:

[2] « Ở láng-giềng với cây chi », một giống thuộc loài lan, vì tên ông có nghĩa là « thơm » (Phức), nên mới đặt « tự » cho hợp với « danh » như vậy.

[3] Theo bài « Thập nguyệt, sóc, tiện đản, cảm thành », ở tập Kính-hải lục ngâm.

[4] Tức là Ma-cao.