← Quay lại trang sách

Chương 6 .

“Anh ơi, em hơi sợ không gian hẹp,” tôi nói ngay lập tức. “Em không biết nhiều tòa nhà ở Dallas lại có tầng hầm đến thế, nhưng phải nói là, em không nghĩ mình muốn ngắm chúng đâu.” Tôi bám vào cánh tay Hugo và cố mỉm cười thật duyên dáng nhưng cũng rất tự ti.

Tim của Hugo đập ầm ầm như trống vỗ bởi vì anh ta sợ són cả cứt - tôi thề là như vậy. Khi đối mặt với những bậc cầu thang này, sao đó mà sự bình thản của anh ta lại biến đi đâu hết. Hugo bị làm sao vậy nhỉ? Dù đang sợ hãi, anh ta vẫn đùa đùa vỗ về vai tôi và cười cười hối lỗi với những người bạn đồng hành của chúng tôi. “Có lẽ chúng tôi nên đi,” anh ta thỏ thẻ.

“Nhưng tôi thực sự nghĩ rằng hai bạn nên thấy chúng tôi có gì dưới tầng hầm đấy. Chúng tôi thực sự có cả hầm tránh bom ở dưới này,” Sarah nói, gần như cười phá lên vì thích thú. “Và được trang bị đầy đủ hết, phải không Steve?”

“Có đủ mọi thứ ở dưới dó,” Steve đồng tình. Ông ta vẫn có vẻ thoải mái, vui vẻ, và mang dáng dấp chỉ huy, nhưng tôi không còn coi những biểu hiện đó là tính cách ôn hòa vô hại nữa. Ông ta tiến đến, và vì ông ta ở ngay sau chúng tôi, nên tôi cũng phải tiến đến trước bằng không sẽ để ông ta chạm vào người, điều mà tôi biết mình không hề muốn xảy ra.

“Coi nào,” Sarah hăm hở nói. “Tôi dám cá rằng Gabe đang ở dưới này, và Steve có thể gặp anh ta xem Gabe muốn gì trong khi tất cả chúng ta tham quan hết phần cơ sở vật chất còn lại.” Bà ta lướt xuống những bậc cầu thang thật nhanh cũng như khi đi trong tiền sảnh, đôi mông tròn trịa ngoáy ngoáy theo cái kiểu mà tôi sẽ thấy là dễ thương nếu tôi không đứng trên bờ vực hoảng loạn như thế này.

Polly vẫy tay ra dấu cho chúng tôi bước xuống tiếp trước cô ta, thế là chúng tôi bước xuống. Tôi ngoan ngoãn làm theo vì Hugo vẫn có vẻ hết sức tự tin rằng chẳng mối nguy nào sẽ xảy đến cho anh ta. Tôi bắt được suy nghĩ này rất rõ ràng. Sự sợ hãi trước đây của anh ta đã hoàn toàn được dẹp bỏ. Cứ như thể anh ta đã trao thân cho một chương trình nào đó, và sự mâu thuẫn trong suy nghĩ đã biến mất. Một cách vô ích, tôi ước sao cho tâm trí anh ta dễ đọc hơn. Tôi chuyển sự tập trung sang Steve Newlin, nhưng tất cả những gì tôi thu nhận được từ ông ta là một bức tường tự mãn dày cui.

Chúng tôi đi xuống xa hơn theo những bậc cầu thang, mặc dù bước chân của tôi đã chậm lại, rồi lại chậm hơn nữa. Tôi có thể phân định được Hugo hoàn toàn tin tưởng rằng anh ta vẫn có thể quay ngược trở lại những bậc cầu thang này: dù sao thì, anh ta là một người văn minh. Mấy người này đều là người văn minh cả.

Thực sự Hugo chẳng thể tưởng tượng được rằng có những chuyện không thể khắc phục được có thể xảy ra với mình, bởi anh ta là một người Mỹ da trắng trung lưu với tấm bằng đại học, cũng như tất cả mọi người đang bước những bậc thang này cùng chúng tôi.

Tôi không có được sự chắc chắn như thế. Tôi không hoàn toàn là một người văn minh học thức.

Đó là một ý tưởng mới mẻ và thú vị, nhưng cũng như rất nhiều ý nghĩ của tôi chiều hôm đó, ý tưởng ấy phải được dẹp qua một bên, khi nào rảnh rỗi tôi mới nghiền ngẫm đến. Nếu như tôi còn có được thời gian rảnh rỗi nào nữa.

Dưới chân cầu thang là một cánh cửa khác, và Sarah gõ lên đó theo nhịp. Ba nhịp nhanh, ngừng một lúc, hai nhịp nhanh nữa, trí óc tôi ghi lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa bật mở.

Đầu Đinh Tóc Đen - Gabe - mở cửa. “Ê, mọi người mang cho tôi mấy vị khách này,” hắn hăng hái nói. “Trò hay đây!” Chiếc áo chơi golf của hắn được nhét ngay ngắn vào cái quần Dockers xếp nếp, đôi giày Nike mới tinh sạch bóng, và hắn cạo râu nhẵn nhụi. Tôi sẵn sàng cá là hắn hít đất năm mươi cái mỗi sáng. Trong mỗi một cử chỉ và điệu bộ của hắn đều mang vẻ hứng khởi ngấm ngầm; Gabe đang sôi sục phấn khích thì phải.

Tôi cố gắng “đọc” phân vùng tâm trí đó, nhưng lại quá kích động chẳng thể tập trung được.

“Mừng là anh đã đến, Steve,” Gabe nói. “Trong lúc Sarah dẫn những vị khách của ta đây tham quan hầm trú ẩn, có lẽ anh xem qua phòng khách của chúng ta một chút đi.” Hắn hất đầu về phía cánh cửa bên tay phải hành lang bê tông hẹp. Còn một cánh cửa khác cuối hành lang, và một cánh cửa nữa bên tay trái.

Tôi ghét nơi này. Tôi đã viện cớ sợ không gian kín để thoát khỏi nơi này. Nhưng giờ đây khi bị bắt ép phải đi xuống cầu thang, tôi đang nhận ra rằng đấy quả là điểm yếu của tôi thật. Một thứ mùi ẩm mốc, ánh điện chói lòa, và cảm giác bị giam hãm… Tôi ghét tất. Tôi chẳng muốn ở lại đây. Hai lòng bàn tay tôi vã hết cả mồ hôi. Chân tôi dán chặt xuống nền đất. “Hugo à,” tôi thì thầm. “Em không muốn làm chuyện này.” Sự tuyệt vọng trong giọng nói của tôi chỉ có chút xíu vờ vịt. Tôi không muốn cảm thấy, nhưng nó ở ngay đấy.

“Cô ấy thực sự cần phải trở lại trên lầu,” Hugo nói vẻ áy náy. “Nếu mọi người không phiền, chúng tôi sẽ trở lại trên tầng đợi mọi người ở đó.”

Tôi quay lại, mong là những lời nói đó có kết quả, nhưng tôi thấy mình đang ngước nhìn lên gương mặt của Steve. Hắn không còn mỉm cười nữa. “Tôi nghĩ hai người cần đợi trong một căn phòng khác ở đằng kia, cho đến khi tôi xong việc trước đã. Và rồi chúng ta sẽ nói chuyện. Giọng hắn hàm ý rằng không bàn cãi gì nữa, và Sarah mở cánh cửa để lộ ra một căn phòng bé nhỏ trống trơn với hai chiếc ghế và hai tấm chiếu.

“Không,” tôi thét lên, “tôi không thể làm thế được,” và tôi xô Steve thật mạnh. Tôi rất khỏe, rất rất khỏe là đằng khác, vì đã uống máu ma cà rồng, và dù to lớn là vậy, hắn vẫn loạng choạng ngã. Tôi leo hết tốc lực lên những bậc cầu thang nhưng một bàn tay đã nắm lấy mắt cá chân tôi, khiến tôi ngã xuống thật đau. Mép những bậc thang va khắp người tôi, ngang qua má trái, qua ngực, vào xương hông, và cả đầu gối trái nữa. Đau đến nỗi tôi suýt nôn khan.

“Đây này, cô nàng bé bỏng,” Gabe bảo, kéo tôi đứng dậy.

“Anh làm cái… làm sao anh có thể làm đau cô ấy như vậy được?” Hugo lắp bắp, thực lòng tức giận. “Chúng tôi đến đây nghĩ là để gia nhập hội của các người, và đây là cách các người đối xử với chúng tôi đó sao?”

“Thôi cái trò diễn kịch ấy đi,” Gabe khuyên nhủ, và hắn vặn tay tôi ngoặt ra sau lưng trước khi tôi kịp định thần sau cú ngã. Tôi thở hổn hển vì cơn đau mới này, và hắn đẩy tôi vào trong căn phòng, phút cuối cùng, hắn tóm lấy mái tóc giả giật khỏi đầu tôi. Hugo bước vào phía sau tôi, mặc dù tôi đã hổn hển, “Không!” và rồi họ đóng của ngay sau lưng anh ta.

Và rồi chúng tôi nghe thấy tiếng cửa khóa lại.

Và thế là hết.

“Sookie,” Hugo nói, “có một vết xước dọc theo gò má cô kìa.”

“Đúng thật,” tôi lẩm nhẩm yếu ớt.

“Cô đau lắm à?”

“Thế anh nghĩ sao?”

Anh ta hiểu lời tôi theo nghĩa đen. “Tôi nghĩ cô bị thâm tím vài chỗ và có lẽ cả bị choáng nữa. Cô không bị gãy cái xương nào, phải không?”

“Có một hai cái gì đấy thôi,” tôi đáp.

“Và rõ ràng là cô chưa đau đến nỗi bỏ được cái kiểu mỉa mai đó đi,” Hugo nói. Nếu có thể nổi đóa lên với tôi, chắc chắn anh ta sẽ thấy đỡ hơn, tôi biết là thế, và tôi thắc mắc vì sao. Nhưng tôi cũng không phải thắc mắc nhiều lắm đâu. Tôi khá chắc là mình biết.

Tôi nằm trên một trong hai tấm chiếu, cánh tay vắt ngang mặt, cố được riêng tư và suy nghĩ một chút. Chúng tôi vẫn không thể nghe ngóng được nhiều chuyện xảy ra ở hành lang bên ngoài. Có một lần tôi nghĩ rằng mình nghe thấy tiếng cửa mở, và chúng tôi nghe thấy vài giọng thầm thì, nhưng tất cả chỉ có vậy. Những bức tường này được xây lên để chống lại cả các vụ nổ hạt nhân, thế nên tôi đoán sự yên lặng này là tất yếu.

“Anh có đồng hồ không?” tôi hỏi Hugo.

“Có. Năm rưỡi rồi.”

Còn hai tiếng dài nữa ma cà rồng mới tỉnh giấc.

Tôi cứ để cho sự im lặng kéo dài. Khi tôi biết Hugo kín tiếng chắc hẳn đang chìm trong dòng suy nghĩ của mình, tôi mở tâm trí ra lắng nghe bằng sự tập trung cao độ.

Đáng lẽ mọi chuyện không xảy ra như thế này, không phải như thế này, chắc chắn mọi thứ đều ổn, đến khi chúng ta cần dùng nhà vệ sinh thì sao, mình không thể cứ lôi ra trước mắt ả được, có thể Isabel sẽ không bao giờ biết, đáng lý ra sau chuyện cô gái tối qua thì mình phải biết chứ, làm sao mình thoát khỏi chuyện này mà vẫn tiếp tục hành nghề luật được chứ, nếu mình bắt đầu tách xa ra sau ngày mai thì có lẽ mình có thể dần thoát khỏi nó…

Tôi áp cánh tay vào mắt mạnh đến nỗi đau nhức, để ngăn mình khỏi nhảy dựng lên tóm lấy một cái ghế mà phang điên cuồng vào Hugo Ayres. Ngay lúc này, hắn không hoàn toàn hiểu được khả năng ngoại cảm của tôi, cả những người trong Hội cũng không, chứ nếu không thì chúng chẳng đời nào để tôi lại đây cùng với hắn cả.

Hoặc cũng có thể Hugo là con tốt thí đối với chúng như là đối với tôi vậy. Và hắn cũng chính là quân cờ thí của ma cà rồng; tôi nôn nóng muốn nói với Isabel rằng chàng phi công trẻ của cô ta là một kẻ phản bội.

Điều này khiến tôi khát máu. Nhưng khi nhận ra những gì Isabel sẽ làm với Hugo, tôi hiểu rằng mình sẽ chẳng thỏa chí gì với việc đó nếu được chứng kiến. Thực tế là, chuyện đó sẽ làm tôi sợ hãi và phát bệnh.

Nhưng một phần trong tôi nghĩ rằng hắn ngàn lần xứng đáng nhận lấy hậu quả đó.

Tên luật sư mâu thuẫn này phải trung thành với ai đây nhỉ?

Chỉ có một cách để biết.

Tôi đau đớn ngồi dậy, áp lưng vào tường. Tôi có thể hồi phục rất nhanh - máu của ma cà rồng mà, lại nữa - nhưng tôi vẫn là con người, và tôi vẫn cảm thấy đau kinh khủng. Tôi biết mặt mình đang thâm tím tàn tệ, và tôi dám tin rằng xương gò má của mình đã bị gãy. Bên trái gương mặt tôi đang sưng vù lên đau đớn. Nhưng chân tôi vẫn không gãy, và tôi vẫn có thể chạy, nếu có cơ hội; đó mới là phần chính.

Một khi đã ngồi vững và thoải mái hết mức, tôi cất tiếng, “Hugo này, anh làm kẻ phản bội bao lâu rồi?”

Mặt hắn đỏ bừng hết cả lên. “Phản bội ai? Isabel hay loài người?”

“Tùy anh chọn.”

“Tôi đã phản bội loài người khi về phe ma cà rồng trước tòa án. Giá mà khi đó tôi biết được chúng là gì… Tôi nhắm mắt nhận vụ ấy, bởi tôi nghĩ đó sẽ là một thách đố luật pháp thú vị. Tôi luôn là một luật sư vì quyền công dân mà, và tôi bị thuyết phục rằng ma cà rồng cũng có quyền công dân như bất kể người nào khác.”

Quý Ngài Điếm Đàng đây mà. “Hẳn rồi,” tôi đáp.

“Tước bỏ khỏi tay họ quyền được sống ở bất kỳ nơi nào họ muốn, đó đâu phải là tinh thần người Mỹ, tôi nghĩ vậy,” Hugo tiếp tục. Giọng anh ta có vẻ cay đắng và chán đời.

Anh ta chưa chứng kiến thế nào là cay đắng đâu.

“Nhưng cô biết sao không, Sookie? Ma cà rồng không phải công dân Mỹ. Họ cũng chẳng phải người da màu hay châu Á hay da đỏ gì cả. Họ cũng không phải người yêu chuộng hòa bình hay thuộc liên hữu Giám lý. Họ đơn giản chỉ là ma cà rồng thôi. Đó là màu da, là tôn giáo và cũng là quốc tịch của họ.”

Phải rồi, đó là những gì xảy ra khi một bộ phận thiểu số chui xuống đất sống hàng ngàn năm. Giời ạ.

“Lúc đó, tôi nghĩ nếu Stan Davis muốn sống ở phố Green Valley, hay ở rừng Hundred Acre, đó là quyền của anh ta khi là người Mỹ. Nên tôi biện hộ cho anh ta chống lại cộng đồng dân cư ở đó, và tôi đã thắng vụ kiện. Tôi cực kỳ tự hào về bản thân mình. Và rồi tôi quen với Isabel, tôi đưa cô ấy lên giường một tối, cảm thấy mình thật sự táo bạo, thật sự vĩ đại, một người có suy nghĩ tiên phong.”

Tôi nhìn chăm chăm vào hắn, không nháy mắt hay nói bất cứ điều gì cả.

“Như cô biết đấy, tình dục thì tuyệt rồi, tuyệt nhất đấy. Tôi làm nô lệ cho cô ta, cỡ nào vẫn cứ thèm muốn. Việc hành nghề của tôi bị ảnh hưởng. Tôi bắt đầu chỉ gặp khách hàng vào buổi chiều, bởi chẳng thể nào dậy nổi vào buổi sáng được. Tôi không thể ra tòa vào buổi sáng. Tôi chẳng thể rời khỏi Isabel khi màn đêm buông xuống.”

Nghe như chuyện của một gã nghiện rượu vậy, theo tôi thấy là thế. Hugo đã trở nên nghiện chuyện chăn gối với ma cà rồng. Tôi nhận thấy khái niệm này vừa hấp dẫn vừa đáng kinh tởm.

“Tôi bắt đầu làm những công việc vụn vặt mà cô ấy tìm cho mình. Tháng vừa qua, tôi cứ đến đó làm những công việc nội trợ, chỉ để có thể quanh quẩn bên Isabel. Khi cô ấy muốn tôi mang một bát nước vào phòng ăn, tôi cảm thấy phấn khích. Không phải vì được làm những công việc tôi đòi đó - tôi là luật sư kia mà, có Chúa chứng giám! Mà Hội đã gọi cho tôi, hỏi xem tôi có thể cho họ chút thông tin nội bộ nào về những việc ma cà rồng ở Dallas định làm không. Vào lúc họ gọi, tôi đang bực mình với Isabel. Chúng tôi đã cãi nhau về cách cô ấy đối xử với tôi. Nên tôi sẵn lòng nghe theo lời họ. Tôi nghe thấy tên cô khi Stan và Isabel nói chuyện với nhau, nên tôi chuyển thông tin đó cho Hội. Họ có một gã làm cho hãng hàng không Anubis Air. Hắn tìm ra được khi nào thì chuyến bay của Bill đến, và họ cố gắng bắt cô ở sân bay để có thể tìm ra xem những ma cà rồng muốn gì từ cô. Ma cà rồng sẽ làm những gì để giành lại cô. Khi mang bát nước vào phòng, tôi nghe thấy Stan hay Bill gọi tên cô, nên tôi biết rằng Hội đã lỡ mất cô ở sân bay. Tôi cảm thấy mình cần phải có gì đó để nói chuyện với họ, như để đền bù cho việc tôi đã làm hỏng con bọ mà tôi đã cài trong phòng họp.”

“Anh đã phản bội Isabel,” tôi nói. “Và anh cũng phản bội tôi nữa dù tôi cũng là con người, như anh vậy.”

“Phải,” hắn đáp. Hắn không nhìn thẳng vào mắt tôi.

“Vậy còn Bethany Rogers thì sao?”

“Cô hầu bàn ấy à?” hắn nói lảng.

“Cô hầu bàn vừa chết ấy,” tôi đáp.

“Họ mang cô ta đi,” hắn đáp, đầu lắc qua lại, như thể hắn đang thực sự nói, Không, lẽ ra họ không thể làm những gì họ đã làm. “Họ mang cô ta đi, và tôi không biết họ định làm gì. Tôi biết cô ta là người duy nhất trông thấy Farrell và Godfrey, và tôi đã nói với họ điều đó. Khi tỉnh dậy sáng nay và nghe tin người ta phát hiện ra cô ấy đã chết, tôi không thể nào tin vào tai mình nữa.”

“Bọn chúng bắt cóc cô ấy sau khi anh nói cho chúng biết cô ấy ở chỗ của Stan. Sau khi anh nói cho chúng biết cô ấy là nhân chứng có thực duy nhất.”

“Vâng, hẳn chúng đã làm vậy rồi.”

“Tối qua anh đã gọi cho chúng.”

“Phải, tôi có một chiếc di động. Tôi đi ra vườn sau gọi. Thiệt tình là tôi đã liều lắm rồi, bởi cô biết thừa thính giác của ma cà rồng tốt đến thế nào mà, nhưng tôi vẫn gọi.” Hắn ta đang cố thuyết phục bản thân rằng đây là một hành động hết sức gan dạ và dũng cảm. Gọi một cuộc điện thoại từ chính hang ổ đầu não của ma cà rồng để ra tay với Bethany tội nghiệp, đáng thương, người cuối cùng đã bị bắn ở trong một con hẻm.

“Cô ấy bị bắn sau khi bị anh phản bội.”

“Phải, tôi… tôi có nghe trên tin tức.”

“Đoán xem ai đã làm điều đó đi, Hugo.”

“Tôi… thật sự không biết.”

“Chắc chắn anh biết, Hugo. Cô ấy là một nhân chứng mục kích. Và cô ấy cũng là một bài học, một bài học dành cho ma cà rồng: ‘Đây là những gì chúng tao sẽ làm đối với những ai làm việc cho các ngươi hay kiếm sống từ các ngươi, nếu chúng dám chống đối Hội.’ Anh nghĩ họ sẽ làm gì với anh đây, Hugo?”

“Tôi đang giúp họ mà,” hắn có vẻ bất ngờ.

“Có ai khác biết điều này không?”

“Không ai cả.”

“Vậy ai sẽ chết nào? Gã luật sư đã giúp Stan Davis sống ở nơi hắn ta muốn sống.”

Hugo chẳng thốt nên lời.

“Nếu anh cực kỳ quan trọng với họ tới vậy, sao anh lại ở trong căn phòng này cùng tôi?”

“Bởi vì cho tới tận bây giờ, cô vẫn chưa biết được những gì tôi đã làm,” hắn chỉ ra. “Cho tới tận bây giờ, cô vẫn có thể sẽ lộ ra những thông tin khác để chúng tôi sử dụng chống lại ma cà rồng.”

“Thế bây giờ, khi tôi đã biết anh là ai, họ sẽ để anh tự do. Phải không? Sao anh không thử mà xem? Tôi thà một mình còn hơn.”

Ngay lúc đó một lỗ hổng nhỏ ở cửa hé mở. Tôi thậm chí không biết rằng có một cái lỗ như thế ở đấy, vì tôi đã quá chú tâm đến chuyện khác khi còn ở ngoài sảnh. Một khuôn mặt xuất hiện ở miếng lỗ tròn vành vạnh khoảng hai mươi lăm phân.

Đó là một khuôn mặt quen thuộc. Gabe cười toét. “Hai người có khỏe không?”

“Sookie cần được gặp bác sĩ,” Hugo nói. “Cô ấy không than phiền gì cả, nhưng tôi nghĩ xương gò má của cô ấy vỡ rồi.” Giọng hắn có vẻ quở trách. “Và cô ấy cũng biết tôi theo phe Hội rồi, nên anh cũng nên cho tôi ra thôi.”

Tôi không biết Hugo đang nghĩ mình làm gì, nhưng tôi sẽ cố ra vẻ thảm thương hết mức. Chuyện đó cũng dễ thôi.

“Tự tao có ý này,” Gabe nói. “Ở dưới này tao chán quá đi mất, và tao cũng không nghĩ Steve hay Sarah - hay kể cả Polly già cỗi - sẽ xuống đây sớm. Bọn tao cũng có một tên tù nhân khác ở đây này, Hugo, có lẽ hắn mừng lắm khi được gặp mày đấy. Farrell ấy? Mày đã gặp hắn ở căn cứ của lũ Ác Quỷ đó rồi mà, phải không?”

“Phải,” Hugo đáp. Hắn trông cực kỳ khó chịu khi cuộc nói chuyện đổi chiều.

“Mày biết Farrell sẽ khoái mày thế nào mà? Và hắn cũng là dân đồng tính nữa, một thằng hút máu dị hợm. Chúng ta đang ở sâu dưới lòng đất đến nỗi hắn tỉnh giấc sớm. Nên tao nghĩ tao sẽ tống mày vào đó với hắn, trong khi tao vui vẻ một chút với con ả phản bội này.” Và Gabe cười với tôi theo kiểu làm dạ dày tôi như muốn ói hết cả ra.

Gương mặt của Hugo chết sững. Chết sững như hóa đá. Rất nhiều thứ lướt qua trí óc tôi, toàn những điều thích đáng cả. Tôi cố bỏ qua cái có lẽ là niềm vui ấy. Tôi cần phải tiết kiệm năng lượng.

Một trong những câu châm ngôn ưa thích nhất của bà tôi nảy ra trong đầu tôi khi tôi nhìn vào khuôn mặt bảnh bao của Gabe. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,” tôi lẩm nhẩm, và bắt đầu quá trình đau đớn gượng đứng lên để tự vệ. Chân tôi có thể không gãy, nhưng đầu gối trái chắc chắn không ổn chút nào. Nó đã tím bầm và sưng phồng lên.

Tôi băn khoăn không hiểu nếu Hugo và mình hợp sức thì có đánh bại được Gabe khi hắn mở cửa không, nhưng ngay khi cánh cửa bật mở, tôi thấy hắn đã tự trang bị cho mình một khẩu súng, và một vật màu đen xấu xí mà tôi xác định là một khẩu súng sốc điện.

“Farrell!” tôi gọi to. Nếu đã dậy, anh ấy sẽ nghe thấy; anh ấy là ma cà rồng mà.

Gabe nhảy dựng lên, nhìn tôi đầy ngờ vực.

“Vâng?” một giọng nói trầm trầm vang lên từ căn phòng cuối hành lang. Tôi nghe thấy tiếng xích va đập leng keng khi tay ma cà rồng chuyển động. Tất nhiên rồi, chúng đã trói anh ta bằng sợi xích bạc. Bằng không thì anh ta có thể dễ dàng giật tung bản lề cánh cửa kia ra.

“Stan cử chúng tôi đến đây!” tôi hét lên, khi đó Gabe thúc cùi chỏ vào tôi bằng bên tay cầm súng của hắn. Vì tôi đang đứng dựa vào tường, đầu tôi dội vào tường. Tôi bật ra một tiếng kêu kinh khủng, chưa hẳn là hét nhưng rên rỉ thì lại quá to.

“Câm miệng ngay, con chó kia!” Gabe gào lên. Hắn chĩa súng về phía Hugo và giơ sẵn khẩu súng sốc điện cách tôi vài phân. “Bây giờ, thằng luật sư, mày đi ra ngoài hành lang kia kìa. Tránh xa tao ra, rõ rồi chứ?”

Hugo, mồ hôi đầm đìa trên mặt, men qua Gabe bước ra hành lang. Tôi cố gắng ghi nhận những gì đang xảy ra, nhưng nhận thấy trong khoảng cách chật hẹp mà Gabe đang xoay xở, hắn đã phải đi sát Hugo khi đến mở cửa phòng giam Farrell. Ngay khi tôi nghĩ hắn đã đứng đủ xa về phía hành lang để tôi hành động, thì hắn bảo Hugo đóng cửa phòng giam tôi lại, và dù tôi đã lắc đầu điên cuồng về phía Hugo, anh ta vẫn làm vậy.

Tôi không biết Hugo thậm chí có nhìn thấy tôi không. Anh ta đang hoàn toàn không để ý đến bên ngoài nữa. Mọi thứ bên trong tâm trí anh ta đang sụp đổ, những suy nghĩ rối như tơ vò. Tôi đã giúp anh ta hết mức bằng cách nói với Farrell rằng chúng tôi đều đến từ chỗ Stan, trong hoàn cảnh của Hugo thì điều này có thể giúp được anh ta rất nhiều, nhưng Hugo lại quá sợ hãi hay vỡ mộng hay xấu hổ quá nên chẳng thể trợ giúp gì được. Nếu nghĩ tới sự phản bội tận cùng của anh ta, tôi đã rất ngạc nhiên sao mình lại bận tâm cơ chứ. Nếu lúc trước không nắm tay anh ta và nhìn thấy hình ảnh đứa con gái của anh ta thì tôi đã chẳng nghĩ ngợi nhiều làm gì rồi.

“Chẳng có thứ gì ở đây dành cho anh đâu, Hugo à,” tôi nói. Khuôn mặt anh ta xuất hiện nơi ô cửa sổ vẫn còn để mở, gương mặt trắng bệch vì lo lắng đau khổ đủ kiểu, nhưng rồi anh ta cũng biến mất. Tôi nghe tiếng cửa mở, tiếng những sợi xích lanh canh, rồi tôi nghe thấy tiếng cửa đóng lại.

Gabe đã bắt Hugo vào phòng giam của Farrell. Tôi hít thật sâu, hết lần này đến lần khác, cho đến khi cảm thấy mình có lẽ mắc chứng thở gấp. Tôi cầm một chiếc ghế lên, một chiếc bằng nhựa với bốn chân bằng kim loại, kiểu ghế mà bạn đã ngồi lên cả triệu lần trong nhà thờ, trong những buổi họp mặt và trong lớp học. Tôi cầm ghế theo đúng kiểu người dạy sư tử thường làm, với chân ghế hướng ra bên ngoài. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra lúc này. Tôi thoáng nghĩ về Bill, nhưng ý nghĩ đó quá đau đớn. Tôi nghĩ về anh trai mình, Jason, và ước gì anh ấy ở đây cùng tôi. Đã rất lâu rồi tôi mới ước những điều như thế về Jason.

Cánh cửa mở ra. Gabe đã cười mỉm sẵn khi bước vào. Một nụ cười bần tiện, để cho mọi sự ghê tởm rò rỉ ra khỏi tâm hồn của hắn qua khóe miệng và đôi mắt. Đây thực sự là ý tưởng về vui vẻ của hắn đây mà.

“Cô em nghĩ chiếc ghế bé xíu đó sẽ giúp cô em an toàn ư?” hắn hỏi.

Tôi chẳng có tâm trạng nào để nói chuyện, và tôi cũng không muốn phải lắng nghe những lời xà độc trong tâm trí hắn. Tôi khép tâm trí mình lại, đóng kín bản thân, cố gắng tận sức.

Hắn tra súng vào vỏ, nhưng súng sốc điện thì hắn vẫn giữ trên tay. Bây giờ, khi tự tin hết cỡ như thế, hắn nhét luôn súng sốc điện vào một bao da nhỏ trên thắt lưng, về phía bên trái. Hắn nắm lấy chân ghế và bắt đầu giằng qua giằng lại.

Tôi lao tới tấn công.

Tôi suýt đẩy được hắn ra khỏi cửa, sự phản đòn của tôi mạnh mẽ đến không ngờ, nhưng vào đúng phút cuối hắn xoay xở để vặn chân ghế nằm ngang ra, làm chúng không thể thoát ra khỏi lối cửa chật hẹp. Hắn đứng dựa lưng vào tường ở phía bên kia hành lang, thở dốc, mặt đỏ bừng.

“Đồ chó cái,” hắn rít, và lao về phía tôi lần nữa, lần này hắn cố kéo chiếc ghế tuột hẳn khỏi tay tôi. Nhưng như đã nói từ trước, tôi đã từng uống máu ma cà rồng, và tôi chẳng để hắn cướp được cái ghế. Tôi cũng chẳng để hắn chiếm đoạt được mình.

Khi tôi không để ý, hắn rút khẩu súng sốc điện ra, nhanh như rắn, hắn với qua chiếc ghế và chạm khẩu súng vào vai tôi.

Tôi không đổ nhào xuống như hắn mong đợi, nhưng tôi khuỵu chân xuống, vẫn giữ ghế trong tay. Khi tôi đang cố nghĩ xem chuyện gì vừa xảy ra với mình, hắn giật chiếc ghế khỏi tay tôi, rồi đạp tôi ngã mạnh ra sau.

Tôi khó có thể nhúc nhích nổi, nhưng vẫn có thể hét và khép chặt hai chân lại với nhau, và tôi đã làm vậy.

“Câm ngay!” hắn quát, và vì hắn đang mò mẫm tôi, tôi có thể chắc chắn rằng hắn rất muốn làm tôi bất tỉnh, hắn sẽ tận hưởng niềm vui sướng hãm hiếp tôi khi tôi bất tỉnh; thực ra, đó là một tình huống lý tưởng cho hắn.

“Mày không thích ghệ mày tỉnh táo,” tôi thở dốc, “phải không nào?” Hắn thọc tay giữa hai thân người rồi xé toạc áo tôi ra.

Tôi nghe thấy tiếng Hugo quát tháo, cứ như thể làm thế sẽ có ích gì lắm vậy. Tôi cắn vào vai Gabe.

Hắn gọi tôi là con chó cái một lần nữa, nhàm quá rồi. Hắn đã cởi quần mình ra, và giờ hắn đang cố kéo váy tôi lên. Tôi thoáng mừng là mình đã mua một cái váy dài.

“Mày sợ họ sẽ than phiền, nếu họ tỉnh dậy chứ gì?” tôi hét lên. “Thả tao ra, leo xuống khỏi người tao! Leo xuống, leo xuống, leo xuống!” Cuối cùng, tôi cũng nới lỏng được cánh tay mình. Trong thoáng chốc, hai tay cũng hồi phục lại chút ít sau cơn sốc điện để mà hành động. Tôi khum hai bàn tay lại. Trong khi đang la hét vào mặt hắn, tôi nện hai nắm tay vào hai tai hắn.

Hắn gầm lên, và lùi lại, hai tay ôm đầu. Hắn điên tiết đến nỗi cơn điên thoát ra khỏi chính hắn và trùm khắp lên người tôi; cảm giác như đang tắm mình trong cơn giận dữ điên cuồng vậy. Lúc đó tôi biết rằng hắn sẽ giết tôi nếu có thể, bất chấp những hậu quả sau này mà hắn phải đối mặt. Tôi cố lăn về một bên, nhưng chân hắn đã ghìm chặt tôi. Tôi quan sát khi bàn tay phải của hắn nắm lại thành nắm đấm, với tôi trông có vẻ như to bằng một hòn đá tảng vậy. Và với cảm giác thế là hết, tôi nhìn trân trân vào vòng cung của nắm đấm khi nó hạ xuống mặt mình, biết rằng cú đấm này sẽ hạ gục tôi và mọi thứ sẽ kết thúc…

Nhưng chuyện đã không xảy ra.

Gabe bị nâng bổng lên không trung, quần vẫn phanh ra và của quý lủng lẳng bên ngoài, nắm đấm của hắn thoi vào trong không khí, giày của hắn đá vào chân tôi.

Một người đàn ông thấp người đang giữ Gabe ở trên không; không phải là một người đàn ông, tôi nhận ra khi liếc lại lần nữa, mà là một thanh niên. Một thanh niên cổ xưa.

Cậu ta tóc vàng và cởi trần, những hình xăm màu xanh phủ kín hai tay và khắp ngực. Gabe la hét và vùng vẫy, nhưng cậu thanh niên vẫn đứng yên, gương mặt vô hồn, cho đến khi Gabe kiệt sức. Khi Gabe đã im lặng, cậu thanh niên chuyển tư thế từ đang nắm giữ bằng nắm tay thành ôm chặt ngang hông Gabe, để hắn treo lắc lẻo phía trước.

Cậu thanh niên thờ ơ nhìn xuống tôi. Chiếc áo của tôi đã bị mở toang, áo lót thì bị xé toạc ngay giữa.

“Cô có đau lắm không?” cậu ta hỏi, gần như miễn cưỡng.

Tôi có một ân nhân, nhưng không phải là kẻ hăng hái cho lắm.

Tôi đứng dậy, việc đó nghe tưởng dễ nhưng lại là một kỳ công với tôi lúc này. Tôi mất một lúc mới đứng dậy được. Tôi vẫn còn run lẩy bẩy sau những chấn động tinh thần. Khi tôi đã đứng thẳng người lên được, tầm mắt tôi ngang với cậu ta. Nếu tính theo tuổi con người, cậu ta chắc chỉ khoảng mười sáu khi bị biến đổi thành ma cà rồng. Chẳng thể nhận ra được bao nhiêu năm đã trôi qua. Cậu ta chắc hẳn phải già hơn Stan, già hơn cả Isabel nữa. Tiếng Anh của cậu ta rõ ràng, nhưng âm điệu lại rất nặng. Tôi chẳng biết đây là loại giọng gì. Có thể ngôn ngữ ban đầu của cậu ta đã hoàn toàn không được dùng đến nữa. Cảm giác đó chắc hẳn cô đơn lắm.

“Tôi sẽ khá hơn thôi,” tôi đáp. “Cảm ơn.” Tôi cố gắng cài cúc áo lại - vẫn còn sót lại vài chiếc cúc - nhưng tay tôi run lật bật. Dù sao thì cậu ta cũng chẳng hứng thú muốn nhìn thấy da thịt tôi. Chẳng có ích gì với cậu ta. Đôi mắt cậu vẫn thờ ơ hết sức.

“Godfrey,” Gabe nói. Giọng phều phào. “Godfrey, con ả đang cố bỏ trốn.”

Godfrey lắc hắn, và Gabe câm miệng.

Vậy ra, Godfrey chính là tay ma cà rồng tôi đã thấy qua mắt của Bethany - đôi mắt duy nhất có thể nhớ lại đã nhìn thấy cậu ta ở quán Bat’s Wing tối đó. Đôi mắt đã không còn có thể nhìn thấy bất cứ thứ gì nữa.

“Anh định làm gì?” tôi hỏi cậu ta, cố giữ giọng trầm và bình thản.

Đôi mắt màu xanh nhợt nhạt của Godfrey thoáng lóe sáng. Cậu ta cũng không biết.

Cậu ta có nhiều hình xăm trên mình, và chúng rất kỳ lạ, những ký hiệu mà ý nghĩa đã bị đánh mất hàng thế kỷ trước, tôi dám cá là vậy. Có thể một vài học giả sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì chỉ để được nhìn những hình xăm đó. Tôi may mắn nhỉ, được nhìn thấy chúng mà chẳng tốn gì cả.

“Làm ơn hãy thả tôi ra,” tôi nói với toàn bộ lòng tự trọng mà mình có thể góp nhặt lại được. “Họ sẽ giết tôi mất.”

“Nhưng cô kết giao với ma cà rồng,” cậu ta nói.

Ánh mắt của tôi đảo từ bên này sang bên kia khi cố nghĩ cho thông chuyện này.

“À,” tôi ngập ngừng nói. “Anh là ma cà rồng, phải không?”

“Ngày mai tôi sẽ công khai chuộc lại những lỗi lầm của mình,” Godfrey nói. “Ngày mai tôi sẽ đón gặp ánh bình minh. Lần đầu tiên sau một nghìn năm, tôi sẽ nhìn thấy ánh mặt trời. Rồi tôi sẽ thấy mặt Chúa trời.”

Được thôi. “Anh đã chọn,” tôi nói.

“Phải.”

“Nhưng tôi thì không. Tôi không muốn chết.” Tôi thí một cái liếc nhìn về phía khuôn mặt đã xanh ngắt của Gabe. Trong lúc bối rối, Godfrey đã bóp nghẹt Gabe chặt hơn mức cần thiết. Tôi tự hỏi liệu mình có nên nói gì không.

“Cô quả thật có kết giao với ma cà rồng,” Godfrey buộc tội, và tôi quay lại nhìn mặt cậu ta. Tôi biết tốt nhất mình đừng để sự tập trung đi lang thang thêm một lần nữa.

“Tôi đang yêu,” tôi đáp.

“Một ma cà rồng.”

“Phải. Bill Compton.”

“Tất cả mọi ma cà rồng đều bị nguyền rủa, và đều đáng phải gặp mặt trời. Chúng tôi là một vết nhơ, một điều ô nhục trên đời này.”

“Còn những người này” - tôi hướng tay lên trên để ám chỉ Hội - “những người này thì tốt đẹp hơn sao, hả Godfrey?”

Tay ma cà rồng trông bứt rứt không vui. Cậu ta đang khát nữa, tôi để ý thấy; hai gò má gần như lõm sâu vào trong, và trắng như giấy. Mái tóc màu vàng gần như trôi bồng bềnh quanh đầu cậu ta, thật sống động, còn đôi mắt cậu ta thì trông như hai hòn bi xanh dương tương phản với vẻ xanh xao tái nhợt. “Họ, ít nhất, là con người, là một phần kế hoạch của Chúa trời,” cậu ta đáp khẽ. “Ma cà rồng là sự ghê tởm.”

“Vậy mà anh vẫn tốt với tôi hơn gã người này.” Hắn đã chết, tôi nhận ra vậy khi liếc xuống gương mặt hắn. Tôi cố không nao núng, và tập trung lại vào Godfrey, người quan trọng đối với tương lai của tôi hơn rất nhiều.

“Nhưng chúng tôi hút máu người vô tội.” Đôi mắt xanh nhợt nhạt của Godfrey hướng đăm đăm vào tôi.

“Ai là người vô tội?” tôi hỏi kháy lại, hy vọng giọng mình không nghe quá giống như kiểu Pontius Pilate hỏi, Sự thật là gì? trong khi anh ta biết rõ quá rồi.

“À ừ, trẻ con,” Godfrey đáp.

“Ôi, anh… hút máu trẻ con ư?” tôi đưa tay lên che miệng.

“Tôi đã giết trẻ con.”

Tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói trong suốt một lúc lâu. Godfrey đứng đó, nhìn tôi buồn bã, hai tay giữ lấy xác chết của Gabe mà quên bẵng đi mất.

“Thứ gì đã ngăn anh lại?” tôi hỏi.

“Chẳng thứ gì có thể ngăn tôi lại. Chẳng thứ gì cả trừ cái chết.”

“Tôi rất lấy làm tiếc,” tôi nói thừa thãi. Cậu ta đang đau khổ, và tôi thực sự tiếc vì điều đó. Nhưng nếu cậu ta là con người, tôi sẽ nói ngay rằng cậu ta xứng đáng bị ngồi lên ghế điện mà chẳng cần cân nhắc đến lần thứ hai.

“Từ giờ đến tối còn bao lâu?” tôi hỏi, không biết nói gì khác nữa.

Godfrey không có đồng hồ, tất nhiên rồi. Tôi cho là cậu ta đã thức dậy chỉ vì đang ở dưới lòng đất và cậu ta cũng rất già rồi. Godfrey đáp, “Một giờ nữa.”

“Xin hãy thả tôi ra. Nếu anh giúp tôi, tôi có thể thoát khỏi đây.”

“Nhưng cô sẽ kể lại với những ma cà rồng khác. Chúng sẽ tấn công. Tôi sẽ bị ngăn không cho gặp mặt trời.”

“Sao phải đợi đến sáng mai chứ?” tôi hỏi, đột nhiên thấy cáu tiết. “Đi ra ngoài đi. Ngay bây giờ.”

Cậu ta sửng sốt. Đánh rơi cả Gabe, xác hắn rơi bịch xuống sàn. Godfrey thậm chí không thèm liếc nhìn cái xác đến một lần. “Nghi lễ được dự tính vào lúc bình minh, với rất nhiều tín đồ đến chứng kiến,” cậu giải thích. “Farrell cũng sẽ bị đưa lên để gặp mặt trời.”

“Nhưng tôi thì đóng vai trò gì trong trò này cơ chứ?”

Cậu ta nhún vai. “Sarah muốn xem bên ma cà rồng có đánh đổi một trong số họ lấy cô không. Steve thì có kế hoạch khác. Ý tưởng của ông ta là buộc cô cùng với Farrell, để khi hắn bị thiêu đốt, cô cũng bị theo.”

Tôi choáng váng. Không phải bởi vì Steve Newlin đã có ý tưởng này, mà là vì hắn nghĩ ý tưởng đó sẽ hấp dẫn cả giáo đoàn của mình, bởi đám người này ra đời là vì những chuyện như thế. Newlin làm mạnh tay hơn cả tôi tưởng tượng. “Và anh nghĩ rất nhiều người sẽ thích thú nhìn cảnh đấy, một phụ nữ trẻ bị hành hình mà không hề qua xét xử? Rằng họ sẽ nghĩ đó là một buổi nghi lễ tôn giáo hợp pháp? Anh nghĩ rằng những người sắp xếp cái chết khủng khiếp này cho tôi hoàn toàn ngoan đạo sao?”

Lần đầu tiên, vẻ mặt cậu thoáng chút nghi hoặc. “Kể cả với con người, điều đó quả thật cũng hơi quá,” cậu ta đồng ý. “Nhưng Steve nghĩ đó sẽ là một lời tuyên bố hùng hồn.”

“Phải rồi, hùng hồn là cái chắc rồi. Lời tuyên bố là, ‘Tôi bị điên.’ Tôi biết rằng thế giới này có rất nhiều người và ma cà rồng xấu xa, nhưng tôi không tin rằng số đông mọi người ở đất nước này, hoặc đơn giản chỉ là ở Texas đây thôi, sẽ được khai sáng trước cảnh tượng một người phụ nữ la thét bị thiêu đốt đến chết đâu.”

Godfrey có vẻ bối rối. Tôi có thể thấy mình đang nói lên những suy nghĩ đã đến với cậu ta từ trước, những suy nghĩ mà chính cậu phải phủ nhận rằng mình đang nung nấu. “Họ đã gọi bên truyền thông rồi,” cậu ta nói. Như sự phản kháng của cô dâu nguyền rủa việc phải cưới một chú rể mà cô ấy đột nhiên nghi ngờ vậy. Nhưng thiệp mời đã được gửi đi rồi, mẹ ạ.

“Chắc chắn họ đã làm vậy. Nhưng đó cũng sẽ là ngày tàn của hội, tôi sẽ nói thẳng cho anh biết. Tôi lặp lại, nếu anh thực sự muốn tuyên bố bằng cách đó, một câu ‘tôi xin lỗi’ mạnh mẽ nhất, thì hãy bước ra ngoài nhà thờ này ngay bây giờ và đứng trên bãi cỏ. Chúa trời sẽ chứng giám, tôi hứa với anh điều đó. Ngài mới là người anh phải quan tâm.”

Cậu ta đấu tranh với ý tưởng đó; khá khen cho cậu ta.

“Họ đã chuẩn bị một chiếc áo choàng trắng đặc biệt cho tôi mặc,” cậu ta nói. (Nhưng con cũng đã mua váy áo và đặt chỗ ở nhà thờ rồi mà mẹ.)

“To tát quá nhỉ. Nếu chúng ta đang tranh luận về chuyện áo quần, thì anh chẳng thực sự muốn làm vậy. Tôi cá là anh rụt vòi rồi chứ gì.”

Tôi chắc là đã lạc mất mục tiêu của mình rồi. Khi những lời đó thốt ra, tôi hối tiếc ngay lập tức.

“Cô sẽ thấy thôi,” cậu ta quả quyết.

“Tôi không muốn thấy, nếu tôi bị trói vào Farrell lúc đó. Tôi chẳng phải quỷ dữ, và tôi cũng không muốn chết.”

“Lần cuối cùng cô ở nhà thờ là khi nào?” cậu ta quẳng ra một lời thách thức tôi.

“Khoảng một tuần trước. Và tôi còn xưng tội nữa cơ.” Chưa khi nào tôi mừng đến thế vì mình là người đi lễ thường xuyên, bởi đáng ra tôi chẳng thể nói dối chuyện này được.

“Ồ.” Godfrey trông đần thối ra.

“Thấy chưa?” Tôi cảm thấy như thể bằng cuộc tranh luận này mình đang cướp đi của cậu ta tất cả sự uy nghiêm, nhưng mặc xác nó đi, tôi không muốn chết vì bị thiêu sống. Tôi muốn Bill, muốn anh ấy tha thiết căng tràn đến mức tôi mong điều ấy có thể mở bung quan tài của anh ra. Giá như tôi có thể kể cho anh nghe chuyện gì đang diễn ra… “Thôi nào,” Godfrey nói, chìa tay ra.

Tôi không muốn cho cậu ta cơ hội nghĩ lại chuyện này, không thể để thế sau tất cả khoảng thời gian con cà con kê đó, nến tôi nắm tay cậu ta bước qua cái xác nằm sấp của Gabe để ra ngoài sảnh. Bên phía Farrell và Hugo đáng ngại là không thấy nói năng gì, và thành thật mà nói, tôi sợ phát khiếp nên chẳng thể gọi to lên để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra giữa họ. Tôi đoán nếu thoát ra được thì đằng nào mình cũng có thể cứu cả hai.

Godfrey đánh hơi mùi máu trên người tôi, và khuôn mặt cậu ta tràn đầy khao khát. Tôi biết vẻ mặt đó. Nhưng đó là một sự thèm khát không xác thịt. Cậu ta chẳng quan tâm chút gì đến cơ thể tôi. Mối liên kết giữa máu và tình dục rất mạnh mẽ đối với mọi ma cà rồng, nên tôi cho rằng mình may mắn khi có dáng vẻ của người hoàn toàn trưởng thành. Tôi nghiêng mặt mình về phía cậu ta với vẻ biết ơn. Sau một lúc chần chừ rất lâu, cậu ta liếm vệt máu trên vết cắt nơi gò má tôi. Cậu nhắm nghiền mắt lại trong một giây, nhấm nháp hương vị, và rồi chúng tôi bắt đầu hướng về phía cầu thang.

Với sự giúp đỡ rất lớn từ Godfrey, tôi đã leo được lên hết dãy cầu thang dốc đứng. Cậu ta dùng cánh tay rảnh rỗi của mình để nhấn mật mã trên cánh cửa, và mở nó ra. “Tôi đang ở dưới này, căn phòng phía cuối,” cậu ta giải thích, bằng một giọng nói khẽ như chút khí thoảng.

Hành lang hoàn toàn vắng lặng, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể có người bước ra từ một trong những văn phòng kia. Godfrey trông chẳng có vẻ gì là sợ hãi cả, nhưng tôi thì có, và tôi là người mà sự tự do đang như chỉ mành treo chuông. Tôi không nghe thấy bất kỳ tiếng nói nào; rõ là nhân viên đã về nhà hết để chuẩn bị cho buổi tiệc ngủ, còn những vị khách ngủ lại thì chưa đến. Một vài cánh cửa văn phòng được đóng lại, và cửa sổ trong các văn phòng là lối duy nhất để những tia nắng xuyên vào bên trong đại sảnh.

Trời đủ tối để Godfrey cảm thấy thoải mái, tôi đoán vậy, vì thậm chí cậu ta chẳng thoáng nheo mày chút nào. Có ánh đèn sáng rực lọt ra từ dưới cánh cửa văn phòng chính.

Chúng tôi rảo bước, hay ít nhất thì cũng cố gắng làm thế, nhưng chân trái của tôi không chịu hợp tác. Tôi không dám chắc Godfrey đang hướng tới cánh cửa nào, có thể là cánh cửa đôi tôi đã nhìn thấy trước đây phía sau điện thờ. Nếu có thể an toàn ra khỏi cánh cửa đó, tôi sẽ không phải đi ngang qua cánh tòa nhà bên kia. Tôi không biết khi ra ngoài mình sẽ làm gì tiếp theo. Nhưng ở bên ngoài thì chắc chắn là tốt hơn bên trong này rồi. Ngay khi chúng tôi đến được lối cửa mở ngay cạnh văn phòng áp cuối phía bên tay trái, cánh cửa mà từ đó người phụ nữ Mễ bé nhỏ đã xuất hiện, thì cửa văn phòng Steve bật mở. Chúng tôi chết lặng. Cánh tay Godfrey bao quanh tôi như thể một vòng sắt. Polly bước ra, vẫn quay mặt vào căn phòng. Chúng tôi chỉ đứng cách đó có vài mét.

“… ngọn lửa mừng,” cô ta đang nói.

“Ôi, tôi nghĩ chúng ta có đủ mà,” giọng nói ngọt ngào của Sarah vang lên. “Nếu tất cả mọi người đều hồi âm thông báo tham dự, chúng ta sẽ biết chắc chắn. Tôi không thể tin nổi sao người ta lại lười hồi âm đến thế. Như vậy thật thiếu suy nghĩ, sau khi chúng ta đã tạo điều kiện dễ dàng hết mức để họ nói cho ta biết liệu họ có đến đây hay không!”

Một cuộc tranh luận về nghi thức ứng xử à. Chúa ơi, tôi mong rằng Quý Cô Phép Tắc có ở đây để cho tôi lời khuyên trong tình huống này. Tôi là khách không mời của một nhà thờ nhỏ, và tôi bỏ về mà chưa nói lời tạm biệt. Liệu tôi có phải viết một tấm thiệp cảm ơn, hay đơn giản chỉ cần gửi hoa là đủ?

Đầu Polly chuẩn bị quay qua, và tôi hiểu rằng bất cứ lúc nào cô ta cũng có thể nhìn thấy chúng tôi. Ngay khi suy nghĩ đó hình thành trong đầu, Godfrey đẩy tôi vào một văn phòng trống trải tối tăm.

“Godfrey! Anh làm gì trên này vậy?” Giọng Polly không hề sợ hãi, nhưng cũng chẳng vui vẻ gì. Giống như là cô ta tìm thấy người làm vườn đang ở trong phòng khách, tự tiện thoải mái như ở nhà mình vậy.

“Tôi đến xem mình còn cần làm gì nữa không.”

“Không phải giờ còn quá sớm để anh thức dậy sao?”

“Tôi rất già rồi,” cậu ta đáp lịch sự. “Người già thì không cần ngủ nhiều như bọn trẻ.”

Polly cười phá lên. “Sarah ơi,” cô ả nói vẻ tươi tắn, “Godfrey dậy rồi này!”

Giọng của Sarah gần hơn khi nói. “Ôi, chào anh, Godfrey!” chị ta nói, bằng giọng điệu tươi tắn tương tự. “Anh có hồi hộp không? Tôi cá là có!”

Họ đang nói chuyện với một ma cà rồng nghìn năm tuổi như thể cậu ta chỉ là một đứa trẻ trong ngày trước hôm sinh nhật vậy.

“Áo choàng của anh đã sẵn sàng rồi đấy,” Sarah nói. “Mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ!”

“Nếu tôi đổi ý thì sao?” Godfrey hỏi.

Im lặng thật dài. Tôi cố thở thật chậm và khẽ. Buổi tối càng cận kề thì tôi có thể càng tưởng tượng rõ ràng hơn cơ hội thoát ra khỏi nơi này của mình.

Nếu như tôi có thể gọi điện… tôi liếc mắt về phía bàn giấy trong văn phòng. Ở đó có một cái điện thoại. Nhưng nếu nút bấm trong các văn phòng đều sáng lên thì sao, cả các nút trên máy điện thoại nếu tôi sử dụng nó nữa? Trong lúc này, làm thế sẽ gây nhiều tiếng ồn quá.

“Anh đổi ý sao? Có thể nào chăng?” Polly hỏi. Cô ta rõ ràng cáu tiết. “Anh đến gặp chúng tôi mà, nhớ không? Anh kể cho chúng tôi nghe về cuộc sống đầy tội lỗi của mình, nỗi xấu hổ anh cảm thấy khi giết bọn trẻ và… và làm những thứ khác nữa. Tất cả những chuyện này cũng đều thay đổi hết à?”

“Không,” Godfrey đáp, giọng trầm tư hơn bao giờ hết. “Chẳng có chuyện gì trong số đó thay đổi cả. Nhưng tôi thấy không cần phải thêm cả con người vào sự hy sinh này của tôi. Thực tế thì, tôi tin rằng Farrell có quyền tự thiết lập hòa bình với Chúa. Chúng ta không nên bắt ép anh ta làm tế vật.”

“Chúng ta cần gọi Steve lại đây,” Polly thầm thì với Sarah.

Sau đó, tôi chỉ nghe thấy giọng Polly, nên tôi đoán rằng Sarah đã quay trở lại văn phòng để gọi Steve.

Ánh đèn trên điện thoại sáng lên. Phải, đó là những gì cô ta đang làm. Cô ta sẽ biết nếu tôi cố sử dụng đường dây khác. Có lẽ chỉ trong nháy mắt thôi.

Polly đang cố ngọt ngào lý lẽ với Godfrey. Bản thân Godfrey thì không nói nhiều lắm, và tôi chẳng thể biết trong đầu cậu ta đang nghĩ gì nữa. Tôi đứng đó vô dụng, lưng dựa vào tường, mong rằng sẽ không ai bước vào văn phòng này, mong rằng sẽ không có ai xuống tầng kéo còi báo động, mong rằng Godfrey không đổi ý thêm một lần nào nữa.

Giúp tôi với, tôi nhủ thầm trong đầu. Giá như tôi có thể gọi ai đó giúp theo cách đó, thông qua giác quan đặc biệt của mình!

Một ý tưởng lóe lên trong đầu tôi. Tôi bắt bản thân mình đứng yên, dù rằng chân vẫn run rẩy vì hoảng loạn, mà đầu gối và mặt tôi vẫn đau như ở sáu tầng địa ngục. Có lẽ tôi có thể gọi được cho ai đó: Barry, cậu bé trực sảnh khách sạn. Cậu ta cũng là người có khả năng ngoại cảm, như tôi. Cậu ta có thể nghe thấy tôi. Nói như thế không có nghĩa trước đây tôi đã có lần thử - này, tôi chưa từng gặp một nhà ngoại cảm nào khác, đúng không nào? Tôi cố hết sức liên kết mình với Barry, cứ cho là cậu ta đang ở chỗ làm đi. Bây giờ cũng đúng khoảng thời gian chúng tôi đến từ Shreveport, nên có lẽ cậu ta đang ở chỗ làm. Tôi hình dung ra nơi mình đang ở trên bản đồ, bản đồ mà tôi đã may mắn dò cùng với Hugo - dù rằng giờ đây tôi biết anh ta chỉ giả vờ rằng mình không biết Trung tâm Hội ở đâu - và tôi hình dung ra chúng tôi đang ở đâu đó về phía Tây Nam khách sạn Silent Shore.

Tôi đang ở trong một lãnh địa tâm tưởng hoàn toàn mới. Tôi tập trung mọi năng lượng còn lại và cố gắng gom chúng lại thành một trái bóng trong tâm trí mình. Trong một thoáng, tôi cảm thấy hết sức kỳ cục, nhưng khi tôi nghĩ đến việc thoát ra khỏi nơi này và những người ở đây, nếu không kỳ cục thì sẽ chẳng đạt được gì cả. Tôi nghĩ tới Barry. Rất khó xác định chính xác xem nên làm như thế nào, nhưng tôi vẫn tiến hành. Việc biết được tên cậu ta rất có ích, và việc biết được vị trí của cậu ta cũng thế.

Tôi quyết định bắt đầu từ từ. Barry Barry Barry Barry…

Cô muốn gì? Cậu ta đang hoảng hết cả lên. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra với cậu ta.

Tôi cũng chưa từng làm thế này bao giờ. Tôi mong rằng giọng mình nghe chắc ăn. Tôi cần giúp đỡ. Tôi đang gặp rắc rối lớn.

Cô là ai?

Ừ nhỉ, nói tên sẽ giúp được mà. Tôi ngốc quá. Tôi là Sookie, cô gái tóc vàng đến khách sạn tối qua với một ma cà rồng tóc nâu. Dãy phòng tầng ba ấy.

Cô gái ngực bự ấy à? Ôi, tôi xin lỗi.

Ít nhất cậu ta cũng xin lỗi. Phải. Cô gái ngực bự ấy. Và bạn trai.

Thế, cô có chuyện gì?

Bây giờ, mọi âm thanh đều rõ ràng và có trật tự, nhưng vẫn chưa thành câu chữ đầy đủ. Giống như là chúng tôi đang gửi cho nhau những bức điện tín cảm xúc và hình ảnh vậy.

Tôi vắt óc nghĩ cách để giải thích tình huống khó khăn của mình. Hãy gọi ma cà rồng của tôi ngay khi anh ấy thức dậy nhé.

Rồi sau đó?

Nói với anh ấy là tôi đang gặp nguy hiểm. Nguyhiểmnguyhiểmnguyhiểm…

Được rồi, tôi hiểu rồi. Ở đâu?

Nhà thờ. Tôi cho rằng đó là cách nói vắn tắt để chỉ Trung tâm Hội. Tôi cũng chẳng nghĩ ra cách nào khác để truyền đạt điều ấy cho Barry nữa.

Anh ta biết chỗ đấy chứ?

Anh ấy biết. Cứ nói với anh ấy. Đi xuống cầu thang.

Cô là thật chứ? Tôi không biết có ai khác…

Tôi là thật. Làm ơn hãy giúp tôi.

Tôi có thể cảm nhận được một mớ cảm xúc phức tạp chạy rần rật trong tâm trí Barry. Cậu ta sợ hãi khi phải nói chuyện với ma cà rồng, cậu ta sợ rằng ông chủ của mình sẽ biết được rằng cậu ta có “vấn đề trí não kỳ quặc”, cậu ta chỉ thấy hứng thú rằng có ai đó giống với mình. Nhưng chủ yếu cậu sợ hãi về cái phần tâm hồn bấy lâu nay đã làm cậu hoang mang khiếp sợ.

Tôi biết tất cả những cảm giác đó. Không sao đâu, tôi hiểu mà, tôi nói với cậu ta. Nếu không phải sắp bị giết thì tôi sẽ không nhờ cậu đâu.

Sự sợ hãi lại ập đến cậu ta một lần nữa, nỗi sợ hãi trách nhiệm trong chuyện này. Đáng ra tôi không nên nói thêm vào làm gì.

Và rồi, bằng cách nào đó, cậu ta dựng lên một rào cản mỏng manh giữa chúng tôi, và tôi cũng không chắc là Barry định làm gì nữa.

Trong khi tôi tập trung vào Barry, mọi thứ vẫn đang diễn ra ngay bên ngoài hành lang. Khi tôi bắt đầu nghe ngóng lại, Steve đã tới nơi. Cả ông ta nữa, cũng đang cố lý lẽ và lạc quan với Godfrey.

“Bây giờ nhé, Godfrey này,” ông ta nói, “nếu anh không muốn làm nữa, anh chỉ việc nói thế. Anh đã nguyện làm chuyện này, tất cả chúng tôi đều vậy, và chúng tôi đã xúc tiến mọi việc với toàn tâm toàn ý là anh sẽ giữ lời. Rất nhiều người sẽ rất thất vọng nếu anh phá vỡ cam kết với buổi nghi lễ.”

“Ông sẽ làm gì với Farrell? Với gã người Hugo đó, và cả người phụ nữ tóc vàng nữa?”

“Farrell là ma cà rồng,” Steve nói, vẫn bằng giọng ngọt lịm. “Hugo và người phụ nữ đó là sinh vật thuộc sở hữu của ma cà rồng. Bọn chúng cũng phải ra trước ánh mặt trời thôi, buộc chung vào ma cà rồng ấy. Đó là số phận chúng chọn khi sống, và đó cũng nên là số phận chúng chịu khi chết.”

“Tôi là người có tội, và tôi biết điều đó, vậy nên khi tôi chết linh hồn tôi sẽ về với Chúa trời,” Godfrey nói. “Nhưng Farrell không biết điều đó. Nên khi anh ta chết, anh ta chẳng có chút cơ hội nào cả. Người đàn ông và người phụ nữ kia cũng vậy, họ không có chút cơ hội nào để ăn năn về lựa chọn của mình. Có công bằng không khi giết tất cả rồi đày họ xuống địa ngục?”

“Chúng ta cần vào văn phòng của tôi,” Steve quả quyết.

Và cuối cùng tôi cũng nhận ra, rằng đó là những gì Godfrey đang nhắm tới suốt từ nãy đến giờ. Một loạt tiếng chân bước lạo xạo, và tôi nghe thấy tiếng Godfrey lẩm nhẩm hết sức nhã nhặn, “Mời các vị đi trước.”

Cậu ta muốn là người đi cuối cùng để có thể khép cánh cửa lại phía sau.

Mái tóc tôi cuối cùng cũng khô, sau khi được giải phóng khỏi bộ tóc giả đã làm tóc tôi ướt sũng mồ hôi. Bộ tóc giả vắt vẻo trên vai tôi thành từng lọn riêng rẽ, bởi tôi đã lặng lẽ tháo nó ra trong suốt cuộc đối thoại vừa rồi. Đó có vẻ không giống như điều bình thường cần làm, khi lắng nghe vận mệnh của mình được sắp đặt, nhưng tôi phải giữ cho tay chân bận rộn. Giờ đây tôi cẩn thận cất vào túi mấy chiếc kẹp tăm, lùa tay vào đống rối nùi, và chuẩn bị lẻn khỏi nhà thờ.

Tôi ló mắt ra cẩn thận quan sát từ lối cửa. Phải rồi, cửa phòng Steve đang đóng. Tôi nhón chân ra khỏi văn phòng tối om, rẽ trái, và tiếp tục đi đến cánh cửa dẫn vào điện thờ. Tôi xoay nắm cửa hết sức nhẹ nhàng và từ từ mở ra. Tôi bước vào điện thờ, một nơi lờ mờ tối. Chỉ có ít ánh sáng rọi vào từ cánh cửa sổ to đùng làm bằng kính màu mới giúp tôi đi dọc theo những hàng ghế mà không bị vấp phải ghế ngồi.

Rồi tôi nghe thấy những giọng nói, dần to hơn nữa, đến từ cánh nhà phía xa kia. Ánh đèn trong điện thờ bừng sáng. Tôi cúi xuống một hàng ghế và lăn mình vào dưới gầm. Một gia đình bước vào, tất cả đều nói rất to, cô bé con đang cằn nhằn về chuyện bị lỡ mất chương trình ti vi ưa thích bởi phải tham gia vào một bữa tiệc ngủ hết thời hôi hám.

Sự cằn nhằn đó khiến cô bé bị phát một phát vào mông, nghe có vẻ như vậy, và bố cô bé nói rằng cô bé thật may mắn mới có cơ hội được chứng kiến bằng chứng đáng kinh ngạc về sức mạnh Chúa trời. Rằng cô bé sẽ được nhìn thấy sự cứu rỗi.

Kể cả trong tình cảnh này, tôi vẫn thấy bất đồng. Tôi thắc mắc không hiểu người cha có thật sự hiểu rõ lãnh đạo hội của mình đang dự định cho cả giáo đoàn chứng kiến cảnh hai ma cà rồng bị thiêu đốt đến chết, với ít nhất một trong hai số đó được buộc kèm thêm một người cũng sẽ bị thiêu cháy. Tôi tự hỏi làm sao mà sức khỏe thần kinh của cô bé kia có thể bồi bổ được sau cái màn “bằng chứng đáng kinh ngạc về sức mạnh của Chúa trời” kia nữa.

Sợ thay, họ vẫn bước tiếp để đặt túi ngủ dựa vào tường phía bên kia điện thờ, vẫn tiếp tục nói chuyện. Ít nhất thì đây là một gia đình có nói chuyện với nhau. Ngoài cô bé con cảu nhảu càu nhàu kia, gia đình đó còn có hai đứa trẻ lớn hơn, một trai một gái, và như bất kỳ cặp anh em nào khác, chúng cũng cãi nhau như chó với mèo vậy.

Một đôi giày bệt đỏ nhỏ nhắn lướt qua cuối băng ghế của tôi rồi biến mất qua cánh cửa vào cánh nhà của Steve. Tôi băn khoăn không hiểu liệu nhóm người trong văn phòng ông ta có còn tranh luận không.

Đôi chân đó quay lại chỉ sau vài giây, lần này chạy rất nhanh. Tôi cũng thắc mắc chuyện này nữa.

Tôi chờ thêm năm phút nữa, nhưng chẳng có gì khác xảy ra.

Từ bây giờ, sẽ có thêm nhiều người nữa tới. Bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi lăn mình khỏi gầm ghế và nhỏm dậy. May mắn cho tôi, tất cả bọn họ đều đang chú tâm vào công việc của mình khi tôi đứng dậy, và tôi bắt đầu hùng dũng rảo bước đến cánh cửa đôi phía cuối nhà thờ. Từ sự im lặng đột ngột của họ, tôi biết họ đã phát hiện ra tôi.

“Xin chào!” người mẹ lên tiếng. Bà ta nhỏm dậy từ bên cạnh chiếc túi ngủ màu xanh dương sáng. Khuôn mặt chất phác của bà ta tràn ngập tò mò. “Em chắc hẳn là thành viên mới của Hội. Chị là Francie Polk.”

“Vâng,” tôi đáp, cố tỏ giọng vui vẻ. “Em