← Quay lại trang sách

- 5 -

Hãn vào tới Đà Nẵng vừa lúc phố xá lên đèn. Phản ứng dây chuyền của hội chứng cùng đường, tuyệt lộ tiếp diễn ở đây tuy có phần êm dịu hơn, nhưng sự căng thẳng táo tác, thắc thỏm không hề tỏ ra giảm bớt “nhiệt độ”. Ngang qua một góc phố tương đối vắng, Hãn cởi bỏ cái dây nịt đạn vẫn đeo dính khẩu colt 45 mấy hôm nay như một vật thừa ném vào một góc tối khuất, chẳng kiếm phương tiện đến điểm tập trung của đơn vị theo “lệnh” oang oang phát trên loa phóng thanh, có cái từ “tử thủ” lặp đi lặp lai lắm lần - mà thả bộ về đường Trần Cao Vân đến nhà một bà chị họ tắm rửa, ăn uống qua loa và đánh một giấc đến tận sáng. Trong giấc ngủ sâu, có lúc Hãn mơ thấy thằng bạn cũ - Lược, băng trắng quấn kín từ đầu đến chân mang chữ Thọ nhỏ máu ròng ròng trên ngực đứng khoác tay Ngà tươi cười trên một đỉnh non mù mây trắng, họ cười, họ vẫy tay, và Hãn bơi, bơi, bơi trên mặt biển ngầu sóng mà không cách chi tới chỗ họ được.

Hôm sau khoác cái quần dài nâu, áo sơ mi carô rộng thùng thình mượn đỡ của ông anh rể, Hãn đi lang thang gần như khắp Đà Nẵng, sang tận bán đảo Sơn Trà tìm kiếm Ngà theo kiểu hú hoạ bởi hắn đinh ninh qua được đầm Tân Mỹ thế nào thì nàng cũng đã về đến đây. Chẳng thấy tăm dạng, Hãn chán nản rồi yên chí có khi Ngà đã may mắn thoát hiểm, và không chừng lúc này đang bình yên trên một hạm đội lớn nào đó của Mỹ tận ngoài khơi. Những tàu của ham đội 7 nghe nói sẵn sàng đón các tàn binh và thường dân di tản, ngược hẳn “lệnh tử thủ” đang được nghe hết sức hờ hững ở đây, hờ hững như nghe tin dự báo thời tiết.

Ăn vật vờ, ngủ vật vờ, đi đứng vật vờ, cả đọc sách cũng vật vờ nốt! Sau này nhớ lại Hãn cho đó là khoảng thời gian bản lề, chuyển tiếp, giao mùa u mê ám chướng nhất đời mình.

Vợ chồng bà chị họ vốn là giáo sư của trường trung học Phan Chu Trinh, nhà có một tủ sách dàn kín tới ba bức tường của một phòng đọc rộng cạnh phòng ăn. Lang thang chán ngoài đường, Hãn lại quay về làm “mọt sách”. Ban đêm đôi khi chợt thức sau một cơn ác mộng nào đó không ngủ lại được, hắn đọc sách tới sáng, rồi chợp mắt ngủ bù đến tận trưa hôm sau. Hôm quân giải phóng vào tiếp thu Đà Nẵng, đứa cháu vào nơi dành riêng cho khách thấy đèn vẫn để sáng, cuốn Kẻ xa lạ của Albert Camus đọc dở còn úp trên mặt Hãn, nó vừa tay ông cậu đánh thức vừa đùa: “Nè, Kẻ xa lạ, Việt công vô tới rồi kìa, dậy trốn lẹ đi cậu”.

Hắn chẳng trốn, đứng trước cửa nhìn thành phố rùng rùng trong nhịp điệu chuyển động mới, cờ băng rợp trời. Cảm nhận đầu tiên của Hãn trong ngày hôm ấy là, hình như mọi ám ảnh nặng nề về chiến tranh đã cất khỏi mọi lồng ngực, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

Hôm sau, phất cờ thông báo tập trung của Uỷ ban quân quản phát trên đài phát thanh và từ các xe thông tin lưu động ngoài phố, Hãn tiếp tục nằm nhà đọc sách. Nửa đêm, một toán trong đội Thanh niên Cờ đỏ ập vào lục soát, hắn bị dẫn độ vào nơi tập trung. Hành lý mang theo khá ít ỏi, hai bộ quần áo, ít đồ ăn khô, vài gói thuốc Bastos xanh, và phần còn lại của cái túi xách cũ kỹ ken đầy những sách văn chương, triết học. Tiếc thay, số sách ấy sau này lên tới trại Hiệp Đức đã bị cán bộ quản giáo “giữ giùm”, kèm câu cảnh cáo nghiêm khắc: “Không được đọc các loại văn hoá phẩm đồi truy, phản động”.

Hoà Cầm hai ngày, Hội An chừng hơn tháng, và Hiệp Đức, Phú Ninh ngoài ba năm. Những ngày tháng ấy thoạt tiên tưởng như không thể chịu đựng nổi, nhưng rồi những tờ lịch cũng trôi theo mồ hôi mỗi ngày tuôn xuống làm bóng lưỡng những cán cuốc, cán dao, theo các thao tác ban đầu vụng về sau nhuyễn dần của việc trồng trọt, đẵn gỗ, phát rừng làm.rẫy... Trôi theo những câu chuyện tiếu tâm chay, chay có mặn có bạn bè chung nhà, chung trại hễ gặp là nài nỉ Hãn phải kể để được cười thả dàn, quên bớt mệt nhọc. Trôi theo những câu chuyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung hắn từng đọc, nhớ như in từng chương hồi, từng tình tiết, và kể lại vanh vách lúc pha giọng hài tếu, khi cường điệu dàn trời. Kể chuyện chọc cười đổi thuốc hút. Kể chuyện kiếm, chưởng được người nghe sẵn sàng san sẻ cả những món ngon, hiếm được tiếp tế vào mỗi kỳ thăm nuôi, so với tiêu chuẩn cơm độn khoai mì, mắm cái rau rừng hàng ngày. Trôi luôn và qua tuốt có điều hắn không hề ngờ, vào một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, cái thằng ít được thăm nuôi nhất trại lại được gọi ra khu tiếp tân, nhận tin mình sắp lên chức… cha. Người mang tin đến chẳng ai khác hơn là Ngà.

Gặp lại Ngà quả là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng, Hãn hết trâng trối ngắm nàng lại siết chặt tay lắc lắc như để chắc rằng thực chứ không mơ. Xa lâu rồi bỗng gặp, hệt một đoạn phim quay chậm, phần cuối của cái đêm dài dằng dặc bên bờ đầm Tân Mỹ ấy tuần tự hiện ra trong hồi ức của cả hai người. Chẳng rõ có bị ảnh hưởng dây chuyền bởi hội chứng cùng đường, tuyệt lộ đang “hành hạ” lũ người gần như mất trí ngoài đầm hay không, ám ảnh về nỗi chết gần kề sau cùng đã ráp họ thành đôi lứa, cơ hồ do sự phối ngẫu của định mệnh. Thoạt tiên ngại ngần, dần dà bạo dạn hẳn lên, chàng quấn lấy nàng trong tiếng kêu trầm thống thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nã quí báu rất có thể là những phút giây sau cùng. Cái đêm hôm ấy chỉ đến với họ duy nhất một lần trong đời, giờ đã thành kỷ niệm ngấm trong hồn, chìm vào xác và chẳng trừu tượng chút nào, nó đang lớn từng ngày ở người đàn bà lần thứ nhất được làm mẹ. Vuốt cái bụng lùm lùm, Ngà nheo mắt cười:

- Hôm ấy tưởng anh không vượt qua được đầm Tân Mỹ, em đã yên chí anh chết, khóc suốt.

Đoạn Ngà kể, ngay sau loạt pháo đầu tiên, nàng hớt hải theo chân mấy bà bán cá vào hầm trú ẩn trong nhà bà Chanh cách chợ chừng trăm mét. Thấy nàng bơ vơ, bà Chanh thương tình cho ở lại qua đêm. Sáng sớm hôm sau nghe im tiếng súng, chẳng rõ có còn chiến tranh nữa hay không, Ngà cũng tất tả đón đò quay lui bên kia đầm Tân Mỹ.

Từng đám tù, hàng binh chân trần, nhếch nhác xếp thành hàng dọc đi bộ ngược ra mạn Bắc trước các họng súng canh giữ của quân giải phóng. Nàng hết lui lại tới, hết đi bộ lại xin quá giang xe tải, xe máy, và cả xe nhà binh, ngược xuôi tìm kiếm. Suốt hai ngày liền trong hàng ngũ những gương mặt bụi lầm nắng xém ấy chẳng có gương mặt nào mang tên Hãn. Điều khó tin và kỳ diệu là, cái túi xách bỏ lại ở “phòng tân hôn” vẫn còn y nguyên, lấy chai dầu Nhị Thiên Đường ra xức một tẹo, quặn lòng nhớ chàng, nàng lại khóc như mưa.

Về tới cây số 17 nghỉ ngơi vài ngày, Ngà lại tiếp tục quay lại Huế tìm đến những nơi nghe người ta bảo là cơ quan của Chính quyền Cách mạng, của Uỷ ban quân quản, là điểm tập trung cải tạo ngụy quân ngụy quyền. Không, không, và không tìm thấy, nàng đinh ninh rồi yên chí Hãn đã mất tích hoặc chết rấp ở bụi bờ hốc xó nào đó, nhưng rồi cái mầm sống ngày mỗi lớn trong nàng lại thầm nhắc nhở và Ngà lại cầm lòng không đậu lại tiếp tục tìm kiếm.

- Sao biết anh ở đây? - Hãn âu yếm ngắm gương mặt Ngà trắng xanh điểm lấm tấm những hạt mồ hôi bên cánh mũi nom đẹp và hiền đến tội.

- Đến nhà anh ở Kế Môn năm lần bảy lượt, ai cũng nói sốt ruột chờ tin. Ông già đòi lập bàn thờ, bà già cứ khóc suốt không cho, hai vợ chồng chú em trai nói có đi xin xăm, coi bói, thử đi tìm vài nơi rồi cũng đành về không Riêng em không hề mất hy vọng, cách đây chừng mươi hôm lại về Kế Môn, và may mắn là... sao anh lặn mất tăm lâu vậy?

Hãn cúi mặt, cau ríu đôi mày sâu róm nom áy náy hơn là ân hận, thấp giọng nói:

- Thư từ ở đây ra ngoài qua nhiều cửa dễ thất lạc. Vả lại anh biết ở nhà bây giờ cũng không ít khó khăn, phải gánh thêm phần lo cho anh đâm ra nặng, ra tội, và rồi nói chung… anh cũng lười viết thư!

- Anh coi cái sự lười của mình to tát, vĩ đại hơn nỗi âu lo của ông bà già và anh em ở nhà sao? Quên béng cả em sao? Từ nay đừng có khùng vậy nữa!

Họ cùng cười, Ngà cầm tay hắn đặt úp lên bụng mình giấu sau cái túi xách, âu yếm nói:

- Làm quen với con đi chứ, anh có mừng không?

- Mừng!

- Nghe yếu xìu, nói lần nữa coi!

- Ừ thì… mừng, nhưng liệu em có nuôi nổi nó cho đến ngày anh về không?

Ngày về! Dạo mới đến Hiệp Đức, vào trại chừng hơn tuần lễ, có người ở chung nhà được tiếp tế một trái mít chín cây. Hãn được chia hai múi gọi là ăn lấy thảo. Ăn xong hắn mang hai cái hạt vùi ở vạt đất trống sau nhà, cạnh cửa sổ, cười bảo: “Bao giờ hai cái hạt mít này nứt mầm thành cây ra trái thì chắc tụi mình mới được về!”. Ai nghe cũng cho là hắn cường điệu. Người bảo cùng lắm là 6 tháng, kẻ đoán chắc 1 năm là cùng, mà mít có trái thì ít ra cũng phải ngoài 3 năm, lâu quá! Hai hạt mít nứt mầm được Hãn chăm sóc mỗi ngày, được tưới bằng nước vo gạo xin ở nhà bếp, và bón bằng phân bò nhặt đâu đó trên đường đi lao động, chúng đâm cành nẩy lá lớn dần, xanh tốt, mượt mà và chẳng ai bảo ai, hễ trông thấy chúng là họ lại sực nghĩ đến ngày về. Có kẻ nghĩ đến hoá rồ, nhảy băng qua cửa sổ nhổ mất một cây, vừa dày đạp nó vừa lớn tiếng thoá mạ thằng Hãn gàn, thằng Hãn lẩm cẩm, thằng Hãn... Bị Hãn phẫn nộ ngăn chặn kịp thời nên một cây vẫn còn sống sót, giờ đã cao hơn 1 mét, thân vẫn còn buộc rẻo vải trắng để tang cho cái cây anh em đã chết thảm.

- Tới ngày anh về à? Làm như anh phải ăn đời ở kiếp nơi này mãi hay sao ấy! - Ngà khẽ vặc, Hãn kể chuyện hai cây mít. Nàng cười: - Anh quá là khéo tưởng tượng.

- Không., anh rất thực tế. Kể chuyện cây mít để em đừng quá trông mong.

- Ờ thì... trông vừa vừa thôi vậy! Nhưng anh đừng có quá coi thường em, ý chí em chẳng bằng thép nhưng em đã muốn làm cái gì thì phải làm cho bằng được. Như anh biết rồi đó, trước đây lấy chồng xong em vẫn tiếp tục đi học, lấy hai cái chứng chỉ Luật.

- Hồi ấy em chúi mũi vào việc học để lấp đầy khoảng thời gian chờ đợi chồng đi trận về. Còn bây giờ...

- Bây giờ, chờ anh đi tù về cũng có khác gì đâu? Em lấp đầy khoảng trống bằng việc nuôi con. Anh lo em không nuôi nổi nó à? - Ném lia mắt bốn phía, Ngà láu lỉnh cầm bàn tay chai sần của Hãn vẫn giấu sau túi xách đặt lên bầu vú căng tràn thanh xuân của mình, cười nói: - Chỉ với hai bình sữa này thôi cũng dư sức nuôi con, và nếu cần… nuôi cả cha nó nữa!

Hai người cùng cười. Chạm phải tia nhìn soi mói, sắc lạnh của tay cảnh vệ trẻ bồng súng đứng gác trước cửa, vờ lơ đãng nhưng không hề bỏ qua cử chỉ hay lời nói - có thể nghe thấy - nào, Hãn rụt vội tay lại:

- Ở đây có người thỉnh thoảng nhắc đến em, bữa nay biết tin em chắc hắn sẽ ngạc nhiên lắm.

- Ai vậy anh?

- Còn nhớ thằng say hát hỏng tùm lum hôm mình chạy ra biển không?

- À, cái gã cạn chén ly bôi hả?

- Ừ, chính hắn là người đã cứu anh ở đầm Tân Mỹ, nay thân nhau lắm. Cũng chính hắn đã nổi đoá nhổ, dày xéo cây mít của anh. Cái thằng nóng tính nhưng tốt bụng, lại khoẻ như trâu, luôn chia sẻ, gánh giúp anh những việc nặng.

- Ngộ quá hả? Nhưng ít ra anh ta cũng có một cái tên chứ?

- Kiêm. Hắn tên Kiêm.

- Cho em gửi lời thăm anh Kiêm, hứa sẽ hậu tạ cái ơn cứu tử - Ngà bỗng thấp giọng gần như thì thầm: - À, mà anh Hãn này, từ đây đến ngày sinh con còn lâu mới gặp anh lần nữa, em muốn biết anh thích đặt tên con là gì?

- Chậc, tên gì chẳng được...

- Nói như anh thì.. Em tính nếu là con gái sẽ đặt tên Tân Mỹ.

- Tên cái đầm quỉ tha ma bắt ấy hả?

- Anh không thích sao? Để kỷ niệm...

- Được thôi, còn nếu là con trai sẽ đặt tên nó là Công.

- Công à? Nghe cũng được, nhưng sao lại là Công, anh?

- Thì container, phòng tân hôn độc nhất vô nhị, trên mặt đất này không nơi nào có, cái nơi cha mẹ nó...

Họ cùng cười, Ngà lùa tay khẽ nhéo đùi Hãn, mắng yêu:

- Cái anh này, lúc nào cũng đùa được.

Một đứa con, đặt tên cho nó! Mãi tới lúc này cái cảm giác mới mẻ vì bất thần biết tin mình sắp có con vẫn còn mưng ngợp trong Hãn. Mình có yêu Ngà không nhỉ? - Có! Đã có lúc mình quay quắc nhớ Ngà tưởng chừng muốn trốn khỏi trại để đi tìm nàng, nhưng rồi... Nếu mỗi người chỉ yêu một lần trong đời thì có phải là lần này không? Trước Ngà, những gặp gỡ qua đường, những đêm tình tạm bợ, những mẩu tình bỡn cợt, chắp vá cùng bao cô gái phấn son dọc những vùng hành quân, trại đồn nhoà trong bia bọt thâu đêm suốt sáng, ngầu trên chiếu rượu hay chiếu bạc bạt mạng cô hồn. Tất thảy đã khép lại sau cánh cửa hôm qua, đã lắng tận đáy quá vãng, để bây giờ chỉ còn một gương mặt, một tên gọi bật nổi trên cái bề mặt chìm khuất ấy: Ngà!? Thoáng ngập ngừng rồi Hãn siết chặt tay nàng, xúc động nói:

- Cảm ơn em!