← Quay lại trang sách

ĐỌC THÊM -Mạnh tử -(trích trong bộ Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê) -

Mạnh Kha ra đời ở nước Trâu sau khi Khổng Tử mất độ 100 năm, cũng trong một gia đình quí tộc cổ như Khổng, là môn đệ của Tử Tư, cháu nội Khổng Tử, theo đúng học thuyết Khổng Tử và phát huy thêm được vài điều quan trọng.

Thời ông là thời đại loạn: Trung Hoa đã có sắt, khí giới đã bén, đất được khai thác, dân đã đông, các chư hầu tranh giành nhau đất, giết dân đầy đất, tranh giành nhau thành, giết dân đầy thành; các học thuyết nguy hại phát sinh, lôi cuốn được dân chúng, dân không theo Mặc Tử thì theo Dương Tử (coi ở sau), mà đạo Khổng lu mờ.

Tính tình Mạnh Tử khác Khổng Tử, không ôn hòa mà rất nghiêm khắc, không chịu nhượng bộ, thỏa hiệp với các vua chúa, nhiều lần mắng thẳng vào mặt họ; kịch liệt đả kích thuyết vị ngã của Dương Tử, mắng Dương Tử không có vua vì không chịu giúp đời, không thờ một ông vua nào cả; mắng Mặc Tử ở hai điểm: chủ trương kiêm ái là không hợp nhân tình, coi cha mẹ người như cha mẹ mình, tức là không có cha; và chủ trương công lợi mà làm cho người trên kẻ dưới ai cũng nghĩ tới lợi riêng, mà trái lại, cực lực đề cao cái lợi chung; nhưng Mạnh Tử nhất định không chịu nói tới lợi bất kì là tư hay công, muốn xóa bỏ chữ lợi đi trong ngôn ngữ mà thay chữ nghĩa vào. Ông nói đến nghĩa nhiều hơn là nhân, điều đó ông khác Khổng Tử.

Ông hăng hái và rất hùng hồn, có tinh thần một chính trị gia, một chiến sĩ hơn một triết gia.

Ông dạy học, khoảng 40 tuổi mới nổi danh, cũng như Khổng Tử, dắt môn sinh đi thuyết phục các vua chư hầu. Hình như đoàn thầy trò ông khá đông: mấy chục cỗ xe, có thể cả trăm người. Ông qua Tề, một nước mạnh nhất thời đó, văn minh, có truyền thống trọng hiền, kinh đô Lâm Tri là nơi tụ họp các kẻ sĩ bốn phương, rồi qua Đằng, một nước rất nhỏ. Vua Tề Tuyên vương không chịu theo đạo ông; vua Đằng thực tâm theo đạo ông, nhưng bất lực. Ông lại trở về Tề, rồi sau qua Tống, cũng thất vọng nữa. Ở đâu người ta cũng niềm nở đón tiếp ông, chu cấp cho thầy trò ông như những khách quí, khi đi lại tặng ông một số vàng để chi dùng, nhưng trước sau ông vẫn không thi hành được chí của ông là phục hồi chế độ phong kiến và phát huy đạo Khổng.

Sau cùng ông bỏ ý định làm chính trị, lui về quê, soạn chung với môn sinh một cuốn để chép lại những cuộc tiếp xúc của ông với vua chúa đương thời, tức cuốn Mạnh Tử, một trong Tứ thư của đạo Khổng.

Khổng Tử đưa ra thuyết Chính Danh: vua không có tư cách, không làm tròn bổn phận thì không đáng gọi là vua, nhưng không bảo phải nên gọi là gì, có nên lật đổ không. Mạnh Tử dứt khoát hơn, bảo “dân vi quí, quân vi khinh” (trong nước, dân quí hơn vua), phải phế bỏ những ông vua làm hại dân, và nếu là bạo chúa thì có thể giết, có thể làm cách mạng, giết một bạo chúa như Kiệt, Trụ, không phải là giết vua, mà giết một tên thất phu; nhưng phải là một hiền nhân, có tài có đức, được dân tín nhiệm (hạng đó, Mạnh Tử gọi là “thiên lại”) mới được làm cách mạng.

Có hai hạng vua đáng giết: hiếu chiến, xua quân đi chiếm đất nước khác để cho dân chết, như vậy là cho đất ăn thịt dân; không lo nuôi dân, để dân đói khổ mà trong chuồng của nhà vua thì có ngựa mập, như vậy là cho loài thú ăn thịt dân.

Ông rất lo đến vấn đề dưỡng dân. Dân nghèo vì không có việc làm, hóa ra bậy bạ, mắc vòng tội lỗi, rồi cứ chiếu theo pháp luật mà trừng trị tức là bủa lưới bắt dân. Thời ông chế độ tỉnh điền nhiều nước đã bãi bỏ, dân nghèo không đủ sức để tự khai phá những đất đai mới, phải làm nông nô cho một bọn chủ điền, nên ông khuyến khích các vua lập lại tỉnh điền cho hạng dân đó đỡ khổ.

Tuy nhiên, ông vẫn giữ phép tôn ti của chế độ phong kiến, kịch liệt mạt sát Hứa Hành, một triết gia nước Sở có lẽ muốn lập lại chế độ Cộng sản nguyên thủy, chủ trương mọi người hoàn toàn bình đẳng, dù vua chúa cũng phải cày ruộng lấy mà ăn, và mọi hàng hóa ở chợ chỉ có một giá thôi, hễ dài ngắn, nặng nhẹ bằng nhau thì giá tiền như nhau. Mạnh Tử cho như vậy lả làm loạn thiên hạ: không thể nào có sự bình đẳng về trí tuệ, tài năng được: hạng người nhiều tài năng thì lao tâm, ít tài năng thì lao lực, lao tâm thì cai trị người lao lực và được người lao lực nuôi; lao lực thì bị người lao tâm trị và phải nuôi người lao tâm. Qui tắc đó thời nào cũng đúng, ngày nay nhân loại chỉ có thể giảm sự bất bình đẳng phần nào bằng luật pháp thôi. Không có sự phân công thì không thể làm được gì cả.

Một cống hiến của Mạnh Tử là thuyết tính thiện. Khổng Tử chỉ bảo “tính tương cận, tập tương viễn”, nghĩa là tính con người khi mới sinh thì gần giống nhau, do tập tành và thói quen mà lần lần khác nhau. Mặc Tử cho tính người như tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì hóa xanh, nhuộm vàng thì hóa vàng. Đồng thời với Mạnh, một triết gia, Cáo Tử, cũng chủ trương tính không thiện không ác, Trang Tử bảo tính là siêu thiện ác, cũng là nghĩa đó. Ngoài ra còn có người bảo tính vừa thiện, vừa ác.

Mạnh Tử bác thuyết của Cáo Tử, bảo tính người ta vốn thiện vì ai cũng có bốn mầm thiện ở trong lòng (Trung Hoa gọi là tứ đoan: bốn mối): có lòng thương người, đó là đầu mối của (đức) nhân; có lòng thẹn, ghét, đó là đầu mối của nghĩa; có lòng từ nhượng, đó là đầu mối của lễ; và lòng biết phải trái, đó là đầu mối của trí. Có cái mầm của nhân, nghĩa, lễ, trí mà biết bồi dưỡng cho nó (tồn tâm dưỡng tính) cho mỗi ngày một phát mạnh lên thì ai cũng có thể thành bậc Nghiêu, Thuấn được. Muốn tồn tâm thì phải giữ cho tư dục đừng làm mờ ám nó. Cái tâm đó gọi là lương tâm. Có lương tâm thì có lương tri, nghĩa là cái khả năng biết một cách mẫn tiệp mà đúng.

Thuyết tính thiện đó sau nảy ảnh hưởng lớn đến triết học đời Tống và Minh.

Ông khuyên phải làm điều hợp nghĩa để cho cái khí hạo nhiên (rộng lớn) nảy nở. Nó nảy nở mạnh rồi thì ta thành bậc đại trượng phu mà “phú quí bất năng dâm (hóa phóng đãng), bần tiện bất năng di (đổi chí của mình), oai vũ bất năng khuất”.

Chính ông là một đại trượng phu của Trung Quốc. Đọc những đoạn ông mắng các vua chư hầu chúng ta cũng lây nỗi bất bình của ông. Thời đại chúng ta khác gì thời đại của ông.

Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ, rất ghét những đoạn ông đối đáp Tề Tuyên Vương, ra lệnh dẹp hết những phiến đá khắc các bài ấy mà vua Thần Tôn đời Tống sai dựng năm 1084 ở miếu thờ Khổng Tử. Nhưng năm sau, Thái Tổ lại phải cho đặt lại chỗ cũ. Và cho tới cách mạng Tân Hợi 1911, danh vọng và ảnh hưởng của Mạnh Tử chỉ kém Khổng Tử trong lịch sử triết học chính thống. Vậy là trên 1.500 năm sau khi mất, Mạnh Tử vẫn làm cho các vua phải sợ học thuyết của ông.

Truyện người nước Tề có hai vợ (Li Lâu, hạ)

Người nước Tề có hai vợ cùng ở với nhau một nhà. Gã ngày nào cũng ra đi, no say rồi mới về. Người vợ cả hỏi gã ăn uống với ai thì gã đáp là đi ăn toàn với bực giàu sang. Vợ cả bảo vợ lẻ: “Chồng chúng ta ra đi thì no say rồi mới về, hỏi ăn uống với ai thì đáp toàn là với những bực giàu sang mà chưa từng thấy một người giàu sang nào tới chơi nhà? Tôi muốn rình xem anh ấy đi đâu”.

Hôm sau dậy sớm, vợ cả lẻn theo chồng, đi khắp nơi chẳng thấy ai đứng nói chuyện với chồng mình. Sau cùng thấy chồng mình tới đám cúng mả ở ngoại ô phía đông mà xin cơm thừa canh cặn; chưa no lại nghểnh lên đi tìm chỗ khác. Gã no say là nhờ cách ấy.

Người vợ cả về bảo vợ lẻ: “Chồng ta là người cho chị em mình trông cậy suốt đời mà nay như vậy đó!”. Vợ cả kể xấu chồng với người vợ lẻ rồi hai người cùng khóc với nhau ở giữa nhà mà người chồng chẳng hay, vẫn hớn hở ở người đi vào, lên mặt với hai vợ.

Cứ người quân tử xét ra thì những kẻ phú quý danh lợi mà vợ cả, vợ lẻ không lấy làm thẹn, phải khóc với nhau, thật là ít có lắm.

- Nhân loại không thời nào hết được hạng “người nước Tề” đó, nên truyện ngụ này sẽ được truyền lại hoài; nhưng hạng đàn bà như hai vợ trong trong truyện hình như ngày càng hiếm và chúng tôi nhớ lại hai câu thơ dưới đây không biết của ai:

“Chồng chồng vợ vợ vinh hoa,

Mà trong vinh hiển xót xa đã nhiều”.[1]

(Trích Cổ văn Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê)

Một số danh ngôn trong sách Mạnh tử

盡 信 書,則 不 如 無 書。

Tận tín thư, tắc bất như vô thư.

Cả tin vào sách chẳng bằng không có sách.

不以文害辭,不以辭害志。

Bất dĩ văn hại từ, bất dĩ từ hại chí.

Đừng để văn hại lời, đừng để lời hại chí.

不以規矩,不能成方圓。

Bất dĩ quy củ, bất năng thành phương viên.

Không dùng cái quy cái củ thì không thể tạo nên hình vuông hình tròn.

窮則獨善其身,達則兼善天下。

Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ.

Khi nghèo khổ thì một mình mình giữ đạo, khi hiển đạt thì giúp cho thiên hạ đều theo đạo.

得志與民由之,不得志獨行其道。

Đắc chí dữ dân do chi, bất đắc chí độc hành kì đạo.

Đắc chí thì cùng với dân mà hành đạo, bất đắc chí thì riêng mình hành đạo.

枉己者,未有能直人者也。

Uổng kỉ giả, vị hữu năng trực nhân giả dã.

Mình cong queo thì không thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được.

人皆可以爲堯舜。

Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn.

Mọi người đều có thể trở thành Nghiêu Thuấn.

盡其心者,知其性也; 知其性,則知天矣。

Tận kì tâm giả, tri kì tính dã; tri kì tính, tắc tri Thiên hĩ.

Phát triển hết cái tâm của mình, tức biết cái bản tính của mình; biết được bản tính của mình thì biết được Trời

養心莫善於寡欲。

Dưỡng tâm mạc thiện ư quả dục.

Phép dưỡng tâm, không gì băng bớt lần những điều ham muốn đi.

不恥不若人何若人有。

Bất sỉ bất nhược nhân hà nhược nhân hữu.

Không hổ thẹn vì việc không bằng người thì có bao giờ được bằng người.

君子不怨天,不尤人。

Quân tử bất oán thiên, bất vưu nhân.

Người quân tử không oán trời, không trách người.

富貴不能淫,貧賤不能移,威武不能屈。

Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất.

Phú quý không phóng đãng, nghèo không đổi dời (chí của mình), uy vũ không khuất phục.

民爲貴,社稷次之,君爲輕。

Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.

Dân là quý nhất, sau rồi đến xã tắc, vua là nhẹ nhất trong ba cái ấy.

君子有三樂,而王天下不與存焉。父母俱存,兄弟無故,一樂也;仰不愧於天,俯不怍於人,二樂也。得天下英才而教育之,三樂也。

Quân tử hữu tam lạc, nhi vương thiên hạ bất dự tồn yên. Phụ mẫu câu tồn, huynh đệ vô cố, nhất lạc dã. Ngưỡng bất quí ư thiên, phủ bất tạc ư nhân, nhị lạc dã. Đắc thiên địa anh tài nhi giáo dục chi, tam lạc dã.

Người quân tử có ba điều vui, mà làm bậc vua cai trị thiên hạ không phải là một trong những cái vui ấy. Cha mẹ còn mạnh khỏe, anh em chẳng hề gì, đó là điều vui thứ nhất. Trông lên chẳng hổ với trời, nhìn xuống chẳng thẹn với người, đó là điều vui thứ nhì. Được bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ, đó là điều vui thứ ba.

Chú thích:

[1] Hai câu này trong bài Vợ chồng người đốt than trên núi của Tản Đà. (Goldfish).

HẾT

.