ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH LỚN TANGUT
Khi cưỡi ngựa đi ba mươi ngày trong hoang mạc mà tôi đã nói với các bạn, chúng ta đến một thành phố gọi là Saciou (có thể là Châtchéou, hiện nay là Funhouang, giáp ranh với Mông cổ và Tây Tạng), và thuộc quyền cai trị của Đại Hãn. Tỉnh có tên gọi là Tangut. Tất cả dân chúng đều thờ ngẫu tượng, nhưng cũng có một vài người Ki tô giáo thuộc phái Nestorien cũng như những người Sarrasin. Những người thờ ngẫu tượng đều có ngôn ngữ riêng. Họ sống từ nguồn lợi lúa mì do họ trồng. Họ có nhiều tu viện đầy những ngẫu tượng với nhiều hình dáng khác nhau. Họ hết sức tôn kính, sùng bái và dâng lễ cho các ngẫu tượng đó. Vì bạn nên biết rằng tất cả những ai có một đứa con đều cho nuôi một con cừu để dâng kính cho ngẫu tượng vào cuối năm hoặc vào dịp lễ kính ngẫu tượng; họ cho nấu chín thịt cừu và mang đến dâng trước ngẫu tượng một cách hết sức cung kính. Họ để của lễ bao lâu họ còn dâng lễ và đọc kinh: họ cầu nguyện xin ngẫu tượng che chở bảo vệ cho đứa con của họ. Họ cho rằng ngẫu tượng dùng chất tinh tuý của thịt. Khi dâng cúng xong, họ lấy thịt mang về nhà và họ mời tất cả các bà con cô bác đến ăn thịt một cách sùng kính và hoan hỉ. Khi ăn xong, họ thu nhặt các mẩu xương còn lại và cẩn thận cất chúng trong hòm.
Các bạn nên biết rằng, khi có người chết, tất cả những người thờ ngẫu tượng trên thế giới đều cho thiêu xác họ trên giàn hỏa thiêu. Bà con của những người chết dựng lên ngay giữa đường đi một căn nhà gỗ và dùng những tấm da màu vàng và lụa để bao trùm lại. Khi đưa thi hài qua trước căn nhà, những người trong gia đình dừng lại và ném trước thi hài rượu, thịt và những thức ăn khác. Họ làm như vậy vì họ cho rằng người chết sẽ được đón nhận vào thế giới khác một cách hết sức vinh dự. Khi thi hài được đưa đến giàn hỏa thiêu, bà con dòng họ cho cắt trên da hoặc trên giấy hình những con ngựa, lạc đà và những cái vòng giống như những đồng vàng rồi cho đốt tất cả những thứ đó cùng với người chết. Họ cho rằng trong thế giới khác, người chết cũng sẽ có các nô lệ, gia súc, của cải bằng số lượng của những hình giấy được đốt. Tất cả các nhạc khí của thành phố cũng sẽ trỗi lên trước tử thi. Các bạn cũng nên biết rằng khi một tín đồ thờ ngẫu tượng chết, bà con sẽ không cho đốt xác người chết, nếu trước đó, họ chưa mời đến nhà một nhà chiêm tinh để nói về xứ sở gốc gác, tháng, ngày và giờ sinh của người chết. Nhà chiêm tinh làm các lễ nghi ma thuật và cho biết ngày nào phải hỏa thiêu xác. Đôi khi ông bắt chờ cả một tuần, một tháng hoặc sáu tháng, và họ hàng phải giữ xác tại nhà trong suốt thời gian này, vì họ sẽ không dám hỏa thiêu xác trước ngày do nhà chiêm tinh ấn định. Họ giữ xác bằng cách này: họ đóng một cái hòm gỗ dày hơn một paume, các phần rất ăn khớp với nhau và sơn một cách tinh xảo; họ dùng những tấm da thật đẹp bao bọc lại và bỏ vào trong hòm nhiều long não, gia vị để xác khỏi thối rữa. Mỗi ngày, hễ còn giữ xác bao lâu, thì họ còn cho đặt trước quan tài một bàn đầy thức ăn và họ cho rằng linh hồn của người chết đến ăn uống; họ để đồ ăn ở đó đủ lâu để người chết dùng cho xong; họ làm việc đó mỗi ngày. Đôi khi các thầy bói còn làm họ tin vào chuyện của họ là đưa xác ra ngoài bằng cửa chính là điều không tốt, đến nỗi có khi họ ra lệnh cho những người trong gia đình phải đập phá vách tường, rồi đưa xác ra ngoài bằng lối đó để mang xác đến giàn hỏa thiêu. Bạn nên biết rằng tất cả những người thờ ngẫu tượng khác của những vùng này cùng làm theo cách đó.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH CAMUL
Camul là một tỉnh xưa kia là một vương quốc. Nó có nhiều thành phố và thị trấn nhưng thành phố chính là Camul (Khamil dưới chân dãy Thiên Sơn, giáp giới với Mông Cổ). Tỉnh này nằm giữa hai hoang mạc vì một bên là hoang mạc Lop và bên kia là một hoang mạc nhỏ dài ba ngày đường. Tất cả dân cư đều thờ ngẫu tượng và có ngôn ngữ riêng. Họ sống nhờ hoa lợi từ đất vì họ có nhiều đất đai. Họ là những người luôn say sưa vì họ không hiểu điều gì khác hơn là chơi các loại nhạc khí, hát xướng, khiêu vũ và tận hưởng thú vui. Tôi cho các bạn biết rằng nếu một người ngoại quốc nào đến ngủ tại một ngôi nhà và gia chủ sẽ rất sung sướng và yêu cầu vợ làm cho người ngoại quốc được hoàn toàn hài lòng. Rồi gia chủ đi khỏi nhà và chỉ trở về khi nào người ngoại quốc lên đường. Đến nỗi ông ta có thể thỏa mãn với vợ chủ nhà bao lâu cũng được vì họ là những người phụ nữ rất đẹp. Họ đón tiếp khách với niềm vinh dự lớn lao và không chút hổ thẹn vì tất cả những người đàn ông thuộc tỉnh này đều bị các bà vợ của họ cắm sừng như các bạn đã nghe nói. Vì vậy vào thời kỳ Kha Hãn Mangou cai trị và là Lãnh chúa của tỉnh này, vị vua này biết được tập tục đó nên ông ra lệnh cho họ không được làm điều đó nữa bằng nhiều hình phạt nặng. Khi họ biết được lệnh truyền này, họ tỏ ra rất buồn sầu. Họ họp nhau lại góp chung một món quà rất lớn và gởi cho vị lãnh chúa để cầu xin ông thi ân để lại cho họ tập tục có lâu đời từ thời tổ tiên của họ và để gìn giữ nó họ sẽ cho ông những ngẫu tượng của họ và tất cả những của cải từ đất đai của họ. Hơn nữa, họ không thể sống mà không làm như vậy. Khi lãnh chúa thấy điều họ muốn, ông nói: vì các người muốn điều sỉ nhục của các người, hãy giữ lấy đi và ông để họ tùy ý thực hiện tập quán xấu xa của họ, đến nỗi họ vẫn luôn duy trì nó và vẫn còn gìn giữ nó.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH GINCHINTALAS VÀ VỀ AMIANT
Ginchintalas (Sai yin ta la, quá về phía Bắc bên kia dãy Thiên Sơn) là một tỉnh cũng ở cuối hoang mạc giữa miền Bắc và Đông Bắc. Nó rộng đến mười sáu ngày đường và thuộc quyền cai trị của Đại Hãn. Nó có nhiều thành phố và thị trấn và có ba loại người. Những người thờ ngẫu tượng, những người Sarrasin, và một vài Ki tô hữu thuộc phái Nestorien. Cuối tỉnh này về phía Bắc có một ngọn núi, nơi đó có những vỉa thiếc và ondanique rất tốt. Bạn nên biết rằng chính trong ngọn núi này có một vỉa để lấy amiant, đó không phải là một con vật như ta nói trong xứ sở của chúng ta, nhưng đó là một vỉa đất. Nguyên nhân như sau:
Thật ra mỗi người đều biết do bản chất, không có con thú nào, không có bất cứ con vật nào có thể sống trong lửa vì mỗi con vật được cấu tạo từ bốn yếu tố. Vì vậy, tôi, Marco Polo, có một người bạn đồng hành người Turc có tên là Surilcar, một người xấu khôn ngoan. Người Turc đó kể với tôi là anh ta đã ở trong đất này như thế nào để phục vụ Đại Hãn trong ba năm nhằm khai thác amiant cho Đại Hãn. Anh nói với tôi là người ta cho đào trong vỉa này đến khi nào gặp vỉa, người ta chọn vỉa đó và cắt nó thành sợi như sợi len, và phơi khô. Khi amiant khô người ta nghiền chúng trong những cối giã lớn bằng sắt, rồi người ta rửa để loại bỏ lớp đất ra, và phần còn lại là những sợi dây giống như những sợi len. Người ta cho dệt ra thành những tấm. Khi hoàn thành, những tấm này không được trắng lắm. Nhưng nếu đặt chúng vào lửa rồi lấy ra, chúng sẽ trở nên trắng giống như tuyết. Mỗi khi chúng dơ bẩn người ta đặt chúng phía trước lò lửa và chúng sẽ trắng trở lại.
Đó là sự thật về amiant và không có gì khác, ngay những người dân trong vùng đã kể cho tôi về cách sau này: người nào nói khác đi đó sẽ là điều sai lầm và là chuyện ngụ ngôn. Các bạn nên biết rằng ở La Mã có một tấm amiant và Đại Hãn đã gởi tặng cho Đức Giáo hoàng như là một món quà rất đẹp để đặt vào trong đó vải liệm xác Chúa Giêsu Ki tô.
ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ TỈNH SUCTUIR
Từ tỉnh mà tôi đã kể cho các bạn, người ta đi ngựa mười ngày giữa hướng Đông và Đông Bắc, trong suốt đoạn đường này không có bất cứ căn nhà nào, hoặc ít đến nỗi coi như không có và không có gì phải ghi nhớ trong quyển sách này. Sau mười ngày đường, người ta bắt gặp một tỉnh khác gọi là Suctuir (Suh Tchéou), trong tỉnh có nhiều thành phố và thị trấn. Có những người Ki tô giáo và những người thờ ngẫu tượng. Họ là thần dân của Đại Hãn. Qua tất cả các dãy núi của tỉnh này có nhiều cây đại hoàng; các nhà buôn từng mua nó để bán khắp thế giới. Dân cư không buôn bán bao nhiêu, họ sống nhờ hoa lợi từ đất đai.
Vậy là chúng ta sẽ bỏ qua chuyện này, và nói về một thành phố khác có tên là Campicion.