ĐÂY LÀ CHUYỆN KỂ VỀ THÀNH PHỐ QUINSAY
Khi đi ngựa ba ngày qua xứ sở rất xinh đẹp và gặp nhiều thành phố thị trấn, chúng ta đến thành phố Quinsay (Hang Tchéou Fou, trong tiếng Pháp, từ này có nghĩa là thành phố của Trời) rất sang trọng. Chúng tôi sẽ cho các bạn biết về sự sang trọng của nó, vì đó là thành phố sang trọng nhất, tuyệt vời nhất thế giới, như nữ hoàng của vương quốc này viết cho Baian, người đã chiếm được vùng này, để ông chuyển thư của bà đến cho Đại Hãn, nhờ đó, ông đã biết đến sự tuyệt vời của thành phố này và không cho phép làm thiệt hại và phá hủy nó. Theo nội dung của lá thư này, chúng tôi sẽ nói cho các bạn biết toàn bộ sự thật, vì Ngài Marco Polo đã biết và nhìn thấy tất cả như chúng tôi sẽ kể lại sau đây.
Trước tiên, trong thư viết rằng, thành phố Quinsay lớn đến nỗi chu vi của nó là 100 dặm. Nó có 12 ngàn chiếc cầu bằng đá cao đến nỗi một con tàu thủy lớn có thể đi qua phía dưới. Không ai mà không kinh ngạc vì có nhiều cầu như thế, vì thành phố nằm toàn bộ trong vùng có nước và được bao bọc bởi nước; vì vậy, điều thích hợp là phải có nhiều chiếc cầu để giao thông trong thành phố.
Bức thư còn cho biết ràng trong thành phố này có mười hai thứ ngành nghề khác nhau, và mỗi nghề đều tập trung vào 12 ngàn căn nhà, nơi ở của những người thợ; trong mỗi nhà ít nhất phải có đến 10 người, có khi là 20 và có khi đến 40 người. Tất cả những người này không phải là chủ, nhưng là những người thợ thủ công làm việc dưới quyền của một ông chủ. Tất cả mọi người đều làm nhiều công việc, vì nhiều thành phố khác đến mua hàng trong thành phố này.
Bức thư còn cho biết rằng có nhiều nhà buôn rất giàu, họ buôn bán lớn đến nỗi không ai dám nói sự thật. Các bạn nên biết rằng, những người chủ ngành nghề là những người chủ gia đình cũng như vợ họ không bao giờ đụng tay đụng chân đến công việc gì, nhưng họ sống trong sự sạch sẽ và giàu sang, giống như họ là những vị vua chúa. Nhà vua còn ra lệnh và quy định rằng không ai được làm một nghề nào khác ngoài nghề của bố để lại, cho dù họ có hơn 100 ngàn đồng Byzance.
Trong thành phố có một cái hồ lớn (hồ Si-hou, không phải trong thành phố, nhưng giữa thành phố và núi) có chu vi 30 dặm. Quanh hồ này có những cung điện rất đẹp và những tòa nhà sang trọng thuộc về những người có máu mặt trong thành phố, đồng thời cũng có nhiều tu viện và nhà thờ của các tín đồ thờ ngẫu tượng. Giữa hồ có hai đảo, trên mỗi đảo có một dinh thự rất sang trọng và rất bề thế giống như cung điện của hoàng đế. Khi người nào trong thành phố muốn tổ chức lễ lạc, họ thường tổ chức trong dinh thự này, vì ở đó có sẵn chén bát bằng bạc, tất cả các dụng cụ và tất cả những gì họ cần đến. Chính nhà vua đã cung cấp những thứ này cho cung điện để làm vinh danh cho dân tộc của ông, và cung điện được dành cho tất cả những ai muốn đến đó hành lễ.
Những căn nhà của thành phố có tháp cao bằng đá, nơi đó người ta cất giữ những vật quý báu nhất trong nhà, vì họ sợ lửa và vì những căn nhà đều được làm bằng gỗ.
Dân cư thờ ngẫu tượng. Từ khi Đại Hãn chinh phục họ, họ cũng dùng giấy các tông làm tiền tệ. Họ ăn tất cả các thứ thịt, thịt chó và tất cả cả các loại thú rẻ tiền mà những người Ki tô giáo không bao giờ ăn với bất cứ giá nào. Nên biết rằng, từ khi Đại Hãn nắm quyền hành trong thành phố, ông đã ra lệnh là mỗi một cây cầu phải được canh gác ngày cũng như đêm bởi 12 người, để không ai làm điều gì xấu xa ở đó, chẳng hạn như dám nổi dậy chống lại ông. Trong thành phố còn có một ngọn núi, trên đó có một cái tháp và trên tháp này có một tấm gỗ, một người gác dùng búa đánh vào tấm gỗ này khi có hỏa hoạn hoặc thiên tai nào xảy ra trong thành phố. Tiếng búa gõ kêu vang truyền đi rất xa, đến nỗi khi nghe tiếng, mỗi người đều biết chắc chắn có hỏa hoạn hoặc một sự nguy hiểm nào đó đang xảy ra trong thành phố.
Đại Hãn cho giữ gìn rất kỹ thành phố này, bởi vì nó là thủ phủ của vùng Mangi và bởi vì ông thu về nhiều nguồn lợi và kho tàng nhờ đóng thuế trên những hàng hóa lưu hành ở đó. Hàng hóa đem lại những lợi nhuận lớn đến nỗi bất cứ ai nghe nói cũng không thể nào tin được nếu như không tận mắt nhìn thấy.
Tất cả các đường phố cũng được lát đá như tất cả các đường ở vùng Mangi, đến nỗi người ta có thể đi ngựa và đi bộ khắp nơi một cách sạch sẽ. Nếu như không lát đá, người ta không thể đi ngựa một cách dễ dàng, vì xứ này rất thấp, bằng phẳng và có nhiều bùn khi có mưa.
Các bạn nên biết rằng trong thành phố Quinsay này có ba nghìn địa điểm tắm nước khoáng, ở những nơi đó, dân chúng tìm được niềm vui thú và sự sạch sẽ. Những chỗ tắm này là những nơi đẹp nhất, tuyệt vời nhất và lớn nhất trên thế giới, lớn đến mức 100 đàn ông và 100 đàn bà có thể tắm ở đó cùng một lúc.
Biển Océane ở cách thành phố này hơn 25 dặm. Hải cảng có tên là Ganfu, ở đó có nhiều tàu thủy đi hoặc đến Ấn Độ và các nước ngoài khác, mang đi và mang về những hàng hóa đủ loại đem lại lợi nhuận rất lớn cho thành phố. Từ thành phố Quinsay này đổ ra cảng biển một con sông lớn và đưa các tàu thuyền vào tận thành phố.
Đại Hãn đã chia vùng Mangi ra thành 9 khu vực và thành lập 9 vương quốc; ông phái đến mỗi vương quốc một vị vua cai trị đại diện cho ông; mỗi vị vua mỗi năm nộp thuế cho Đại Hãn một số tiền từ nguồn lợi của vương quốc mình. Trong thành Quinsay này, có một quốc vương nắm quyền cai trị trên 140 thành phố lớn và giàu có khác. Trong vùng Mangi rộng lớn này, có hơn 1200 thành phố rộng lớn và giàu có, không kể đến nhiều thị trấn và thị xã. Trong mỗi thành phố đều có một đội canh phòng theo lệnh của Đại Hãn; đội canh phòng nhỏ nhất là một ngàn người, có đội lên tới 10 ngàn, có đội 20 ngàn và thậm chí 30 ngàn; số quân tổng cộng lớn đến nỗi người ta chỉ có thể phỏng đoán. Tất cả những người canh gác này đều thuộc tỉnh Catay; đó là những người lính cừ, nhưng không phải hầu hết là lính ngựa; có một số lớn lính bộ tùy theo nhu cầu của đội canh phòng ở mỗi thành phố. Tất cả đều được Đại Hãn chu cấp. Tôi nói thật cho các bạn biết rằng sự giàu có của các thành phố này to lớn đến nỗi Đại Hãn nhận được mỗi năm số lợi tức mà chúng ta chỉ biết đại khái; tôi cho rằng người nào nghe nói đến điều này cùng không thể tin, nếu như họ không nhìn thấy.
Dân cư trong lãnh thổ này có thói quen ghi lại ngày giờ, dưới hành tinh nào và dấu hiệu gì của một đứa trẻ vừa chào đời, nên mỗi người đều biết rõ ngày sinh của mình. Khi người nào muốn lên đường đi xa, y cố tìm cho được các nhà chiêm tinh rồi nói cho họ biết về chi tiết của cuộc đời mình để xem có thể đi hoặc không được đi xa hay không. Đôi khi nhà chiêm tinh khuyến cáo y không nên đi, và họ liền từ chối đi cho đến khi nào nhà chiêm tinh bảo đã đến lúc đi được.
Vì các nhà chiêm tinh là những bậc thầy hành nghề giỏi, nhiều lần họ nói điều đúng, nên người ta rất tin vào họ.
Khi có người chết, họ cho hỏa táng xác, bà con bạn bè đều đến dự tang lễ trọng thể: họ mặc quần áo bằng đay gai và tất cả đều đi theo thi hài cùng với nhiều nhạc cụ và hát những bài kinh cầu nguyện dâng lên cho ngẫu tượng của họ; khi đến nơi hỏa táng, họ ném vào lửa cùng với xác chết những hình con ngựa có yên cương, vũ khí, nô lệ nam nữ, lạc đà và những đồ dạ khảm vàng do họ cắt từ giây da; tất cả đều cháy ra tro cùng với xác chết. Họ cho rằng người chết sẽ có tất cả những thứ đó ở bên kia thế giới và thuộc quyền của người chết; những nhạc cụ mà họ trỗi lên cũng như những lời kinh dâng lên cho ngẫu tượng sẽ dành cho người chết trong thế giới bên kia; chính ngẫu tượng sẽ đến để đón nhận y.
Trong thành phố này còn có cung điện của vị vua đã bỏ trốn, ông đã từng là lãnh chúa xứ Mangi. Đó là cung điện rộng lớn nhất thế giới như tôi sẽ kể sau đây. Nó rộng đến mức chu vi của nó là 10 dặm. Toàn thành đều được bao bọc bằng những tường thành có khoét lỗ châu mai; bên trong các bức thành này, có những khu vườn đẹp nhất và tuyệt diệu nhất thế giới; chúng có đủ những thứ trái cây ngon nhất của thế giới với nhiều con suối và nhiều hồ nhung nhúc cá. Cung điện rất lớn và rất đẹp ngự trị ở ngay chính giữa. Nó có 20 phòng xinh xắn và rộng lớn; có một phòng rộng lớn hơn các phòng khác, nơi đây một số đông người có thể vào ăn uống cùng một lúc; nó được dát vàng, trần báng và các vách tường không sơn thứ gì khác ngoài vàng. Tôi không thế kể cho các bạn tất cả những thông tin về cung điện này; có khi có đến 20 bàn khác nhau cùng kích cỡ, lớn đến nỗi 10 ngàn người có thể cùng ngồi ăn ở đó; ngoài ra còn có hơn một ngàn phòng rất đẹp và rất lớn, tất cả đều sơn son thếp vàng.
Trong thành phố này còn có một trăm sáu mươi đường phố lớn, và mỗi đường phố có 10 ngàn căn nhà, tức là tổng cộng có hơn một triệu 600 ngàn căn nhà, trong đó có một số lớn những dinh thự giàu sang. Trong thành phố chỉ có một ngôi nhà thờ duy nhất của những người Ki tô giáo thuộc phái Nestorien.
Tôi sẽ nói cho các bạn biết một chuyện khác nữa. Tất cả những người giàu có của thành phố và tất cả những người khác ở đó đều có thói quen viết trên cửa ra vào nhà họ tên của họ, tên vợ, tên các con và tên các nô lệ của họ cùng như tên tất cả những ai đang ở trong nhà, thậm chí họ còn ghi có bao nhiêu gia súc nữa. Nếu có ai trong nhà chết đi, người ta liền xóa tên người đó; nếu có đứa trẻ nào mới sinh ra, người ta liền viết tên nó lên ngay. Bằng cách này Chúa thượng luôn luôn biết ông có bao nhiêu thần dân trong thành phố. Người ta làm điều này trong toàn xứ Mangi và Catay. Người ta cũng viết lên đó tên và tên họ của tất cả những thương nhân ngoại quốc đến cư ngụ trong vùng cùng với ngày tháng họ vào và ra đi, đến nỗi Chúa cũng có thể biết ai đi ai đến trên toàn bộ lãnh thổ của ông mỗi khi ông muốn. Chắc chắn đây là hành động của một người khôn ngoan, cẩn thận và biết lo liệu.