Chương 4: Gặp lại Mười Ba Kỵ Sĩ Bàn Tròn.
Merkin cười cười đáp: “Xem ra không sai rồi, bọn chúng đã chọn một con đường xưa nay chưa có ai từng đi...” Y thở dài một tiếng, nói: “Theo các tư liệu tôi đang nắm giữ, tổng cộng có hai con đường dẫn đến Shangri-la, một con đường đi qua núi thần thánh khiết, còn một con đường nữa, thì đi qua dòng U Minh hà tăm tối. Trong sách cổ có ghi chép, Bạc Ba La thần miếu nằm ở phía bên kia dòng U Minh hà ấy, nhưng con đường đó, xưa nay vốn không thể tìm được trong bất cứ tấm bản đồ nào cả.”
Trương Lập phều phào nói: “Cường Ba thiếu gia, tôi muốn ngủ mà không sao ngủ được, bụng đói meo đói mốc, toàn thân đau nhức rã rời, lại vẫn phải chèo thuyền liên tục, lấy đâu ra hơi mà nói chuyện gì nữa chứ.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng ỉu xìu như vậy chứ, không phải cậu vẫn luôn rất vui vẻ cởi mở hay sao.”
Trương Lập liền nói bằng giọng của mấy diễn viên Kinh kịch: “Giờ tôi vừa lạnh lại vừa đói, rét ơi là rét, một chữ thảm làm sao bộc lộ hết được đây, thảm! thảm! thảm!...”
Nhạc Dương nói: “Được rồi, anh nhìn anh Dũng kia kìa, ai lại như anh, một chút khó khăn vậy mà đã kêu khổ kêu mệt rồi, sau này làm sao đi với Cường Ba thiếu gia được chứ. Lần sau đi đâu thì chớ có bảo với người ta là đi với Cường Ba thiếu gia đấy nhé.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhạc Dương, nghe giọng cậu thì hình như tinh khí cũng vẫn còn sung mãn lắm, hát một bài cho mọi người phấn chấn tinh thần xem nào.”
“Hả? Hát một bài? ” Nhạc Dương ngoảnh đầu lại, mặt nhăn như trái khổ qua: “Tha cho tôi đi, Cường Ba thiếu gia, chúng ta đã không ngủ hơn ba chục tiếng đồng hồ rồi, giờ tôi cầm mái chèo còn thấy tay chân mềm nhũn, hát hò gì nữa, chẳng còn hơi sức đâu.”
Trương Lập tức thì bật cười hích hích.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cố gắng thêm chút nữa, hát một bài rồi chúng ta ăn chút gì đó, cũng sắp đến đợt nước triều sau rồi.”
“Cường Ba thiếu gia, không phải tôi khiêm tốn đâu, nhưng với trạng thái hiện nay của tôi, có hát cũng không thể nào cổ vũ tinh thần cho ai được đâu, mà chỉ khiến mọi người thêm khổ sở thôi.” Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, đột nhiên lớn tiếng gọi: “Còm ơi! ”
Triệu Trang Sinh ở đuôi thuyền ứng tiếng đáp: “Gì? ”
Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia bảo cậu hát một bài cho mọi người phấn chấn tinh thần! ”
“Hát? Hát gì chứ? ”
“Tùy cậu đấy, hát bài gì kích động vào, bài gì khiến tinh thần người ta bừng bừng lên ấy.”
“Ờ.” Triệu Trang Sinh thoáng suy nghĩ, đoạn lớn tiếng hát lên, “Đường phía trước ở đâu, ai cùng ta xông pha...”
Vừa mới hát được đoạn mở đầu, Nhạc Dương đã lớn tiếng ngăn lại: “Không được, không được, bài hát của hội Beyond đau khổ lắm, đổi bài khác đi, đổi bài khác đi.”
Triệu Trang Sinh lại đổi một bài khác: “Anh nói chút đau đớn này, có đáng gì, lau khô lệ, chớ sợ hãi, ít nhất chúng ta vẫn còn giấc mơ, anh nói...”
Nhạc Dương lại phá đám: “Cũ quá rồi, bài này nghe càng chán hơn.”
Trương Lập cũng hùa và theo: “Ừ đấy, giờ tay chân mọi người đều mềm nhũn ra rồi, hát mấy bài phấn chấn ấy làm gì, hát bài gì du dương mềm mại để mọi người nghỉ ngơi khôi phục thể lực, mà phải có ý cảnh nữa, tốt nhất là có thể khiến mọi người cảm thấy hoàn cảnh của chúng ta lúc này rất dễ chịu vậy.”
Nhạc Dương không đồng ý: “Hoàn cảnh lúc này còn dễ chịu được à? ”
Trương Lập nói: “Tất nhiên là phải phát huy trí tưởng tượng của cậu rồi, cậu có thể nhắm mắt lại mà tưởng tượng, vùng nước xanh ngắt mênh mông này phẳng lặng nhường nào, cảnh vật xung quanh đẹp mê hồn người ra sao, trời xanh mây trắng, biển biếc cát vàng, gió nhẹ phất qua...”
Triệu Trang Sinh được gợi ý, liền nói: “Có rồi, có rồi, tìm được một bài rất hợp đây.” Liền sau đó, anh ta cất giọng run run hát lên rằng: “Thuyền nhỏ xinh xinh, đung đưa trên làn nước, đón cơn gió mát lành..., đôi chúng ta cầm đôi mái chèo, thuyền nhỏ xinh xinh...”
Nhạc Dương nghe mà rùng hết cả mình, vội vàng nói: “Không được, đổi bài khác đi, tôi sắp ọe ra rồi đây.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng để Trang Sinh hát, đã mấy ngày nay cậu ấy không ăn được gì rồi.”
Trương Lập vỗ tay cười lớn lên nói: “Hay lắm hay lắm, chính là ý cảnh này đây. Anh Dũng, anh nói xem có phải không... anh Dũng! ”
Trương Lập đưa tay ra, nắm lấy cánh tay cầm mái chèo của Nghiêm Dũng, chỉ thấy bàn tay ấy lạnh như một khối băng, nhìn lại Nghiêm Dũng, trên trán anh vẫn đang rướm mồ hôi, cả người cong lại như con tép khô, đầu gối chống lên ngực, thân thể cuộn tròn, hai hàm răng nghiến vào nhau kêu ken két, rõ ràng là đang cố chịu đựng một nỗi đau khủng khiếp. Trương Lập cả kinh, vội đặt mái chèo xuống đứng bật lên. Trác Mộc Cường Ba cũng để ý đến biểu hiện dị thường của Nghiêm Dũng, vội nói: “Sao vậy? Nghiêm Dũng? ”
Nhạc Dương cũng đã kêu lên: “Mẫn Mẫn! Pháp sư Tháp Tây, hai người mau qua đây! ”
Nghiêm Dũng khó nhọc ngẩng đầu lên, sắc mặt trắng nhợt như tờ giấy, nhưng vẫn kiên trì nói: “Tôi không sao, cứ mặc tôi, mau chèo thuyền đi! ”
Lần này thì không ai tin anh ta nữa. Lúc nói câu ấy, toàn thân Nghiêm Dũng run lên bần bật, tâm trạng kích động, vừa há miệng, anh đã vội ngoảnh đi, áp mặt vào mạn thuyền mà nôn ọe. Lần này thì Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy rất rõ, thứ màu cà phê bị nôn ra ấy chẳng phải sô cô la gì cả, mà rõ ràng chính là máu! Sau lần nôn ọe ấy, cuối cùng Nghiêm Dũng cũng không kiên trì chịu đựng được thêm nữa, thân thể lại càng co vào hơn.
Đường Mẫn và pháp sư Á La chạy đến, đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam cũng xông tới, Ba Tang hướng ngọn đèn chiếu về phía đó, chỉ thấy Nghiêm Dũng đang cố gắng khắc chế, nhưng toàn thân vẫn không tự chủ được mà run lên bần bật, bãi nôn màu cà phê phát ra mùi xú uế như của vật bài tiết. Lữ Cánh Nam vừa nhìn thấy tư thế và bãi nôn của Nghiêm Dũng, đã lập tức kinh hãi thốt lên: “Xoắn ruột! Bao lâu rồi? ”
Xoắn ruột, Trác Mộc Cường Ba thầm giật thót mình. Đó là một trong vài chứng bệnh có thể dẫn đến chết người do vận động mạnh sau bữa ăn, cảm giác đau đớn có thể khiến người ta cảm thấy như thể ruột trong ổ bụng mình bị vặn cho đứt lìa thành từng đoạn nhỏ. Người bình thường căn bản không thể nào chịu đựng nổi, sao người đàn ông này lại không hề rên lên dù chỉ một tiếng như vậy chứ?
Đường Mẫn kiểm tra triệu chứng, rồi buồn bã nói: “Có lẽ là chứng Chercherski. Anh Dũng, sao, sao anh không nói ra chứ? ” Cô đã sờ thấy rõ mồn một, ổ bụng Nghiêm Dũng trương lên như cái trống, hơn nữa còn nghe thấy cả tiếng nước óc ách bên trong nữa, nhắm mắt lại, dường như có thể nhìn thấy bộ ruột bị ngâm trong dịch tiêu hóa và máu làm cho hoại tử, đứt lìa ra thành từng khúc theo đúng nghĩa đen. Một khi đã phát hiện xoắn ruột, ngoài phẫu thuật ra thì không còn phương pháp trị liệu nào khác, càng huống hồ là trong hoàn cảnh rung lắc dữ dội này, cần phải mổ bụng ra kiểm tra kỹ hơn, rồi phẫu thuật trị liệu, bằng không tỉ lệ tử vong sẽ rất cao. Tình hình Nghiêm Dũng có thể nói là đã như cây cung kéo căng hết cỡ, nội tạng của anh chỉ sợ đã có hơn nửa bị dịch tiêu hóa và các loại vi khuẩn ăn mòn gần hết. Nghiêm Dũng lúc này chỉ còn nhờ vào nghị lực để giữ cho thần trí được tỉnh táo, một khi sức mạnh tinh thần ấy biến mất, thì dẫu là Đại La Kim Tiên xuất hiện cũng khó mà giúp hồi sinh được.
Pháp sư Á La cũng khe khẽ lắc đầu, nét mặt hết sức thương tiếc.
Nghiêm Dũng cười gượng nói: “Tôi ngỡ rằng, kiên trì thêm một chút nữa, sẽ có thể... sẽ có thể nhìn thấy Shangri-la, không ngờ... không ngờ... thân thể này rốt cuộc cũng không thể cầm cự được nữa rồi.”
Đội trưởng Hồ Dương ôm lấy hai vai Nghiêm Dũng, nói: “Bạn già của tôi, đã đi xa được chừng này rồi, cậu cố gắng thêm một chút nữa đi! ”
Nghiêm Dũng vỗ vỗ lên lưng đội trưởng Hồ Dương như thể muốn an ủi anh, đoạn nói với Trác Mộc Cường Ba đang đứng sau lưng Hồ Dương: “Cường Ba thiếu gia, chúng ta, chúng ta... thực sự có thể đến được Shangri-la ư? ”
Trác Mộc Cường Ba kiên định đáp: “Có thể, nhất định có thể! ”
Nghiêm Dũng nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt.” Anh cho tay vào trong áo, lần mò một lúc, rồi lấy ra một tấm ảnh, là ảnh của chính anh, không biết là chụp dưới chân ngọn núi nào. Nghiêm Dũng đưa tấm ảnh cho đội trưởng Hồ Dương, đoạn nói: “Đội trưởng, có lẽ tôi không cầm cự được đến lúc ấy đâu, khi nào mọi người đến đó, thì cắt hình người trong ảnh ra, rồi... chụp... chụp lại một tấm khác. Như vậy, như vậy thì không sơ hở gì đâu... đội trưởng, hứa với tôi, nếu mọi người có thể trở về, xin anh hãy mang di chúc và tấm ảnh đó giao cho con trai tôi, nói với nó, cha nó cuối cùng... cuối cùng đã đến được Shangri-la rồi, không còn gì ân hận nữa, không còn gì tiếc nuối nữa! ” Mấy câu cuối cùng ấy, cơ hồ như Nghiêm Dũng đã phải dùng hết sức lực để gào lên. Trước lúc lâm chung, hai mắt anh vẫn trợn mở trừng trừng, đôi tay nắm chặt vào cổ áo đội trưởng Hồ Dương, tựa như không cam tâm ra đi như vậy, anh vẫn chưa nhìn thấy Shangri-la mà mình khát khao mong mỏi cơ mà!
Hai tay đội trưởng Hồ Dương run bần bật, anh cầm tấm ảnh, đôi hàng lệ nóng cuối cùng cũng không ghìm nổi mà tuôn trào ra nơi khóe mắt đầy những nếp nhăn.
Lại thêm một ngọn đèn nữa chìm xuống, tựa như ngôi sao băng vạch qua bầu trời đêm tĩnh lặng, ánh sáng của nó chỉ lóe lên ngắn ngủi trong một khoảnh khắc, nhưng không ai có thể phủ nhận vẻ đẹp thê lương mê mẩn ấy.
Ngọn đèn từ từ chìm xuống biển, trái tim những người đang sống cũng theo đó chìm dần theo xuống đáy nước lạnh lẽo. Lại một tính mạng nữa mất đi, bọn họ thực không biết lúc này mình nên bi thương hay là tuyệt vọng, những cuộc biệt ly sinh tử diễn ra liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn ngủi khiến cảm xúc họ đều trở nên tê liệt, người tiếp theo rất có thể sẽ đến lượt chính bản thân mình. Trong lòng mỗi người ít nhiều đều có suy nghĩ ấy, bọn họ đang trôi theo dòng U Minh hà, một nơi vốn đã thuộc về mặt bên kia của sự sống. Sau khi xác Nghiêm Dũng chìm xuống, trên thuyền đã không còn tiếng cười, cơn gió lạnh buốt thổi tới bủa vây từng người, ai nấy im lặng nhìn về phía ngọn đèn gắn trên mũ Nghiêm Dũng dần dần biến mất, cho tới khi không còn nhìn thấy ánh sáng ấy nữa mới thôi. Nhạc Dương đột nhiên dụi dụi mắt, dường như anh có cảm giác, đèn gắn trên mũ của Nghiêm Dũng vẫn chưa chìm xuống đủ sâu thì đã đột nhiên biến mất, có phải ảo giác chăng? Anh lại dụi mắt lần nữa, những hạt nước còn chưa khô chảy dọc theo mấy sợi tóc nhỏ xuống mu bàn tay, mở mắt ra, ánh sáng mong manh của ngọn đèn nhỏ ấy đã hoàn toàn biến mất. Nhất định là ảo giác, Nhạc Dương thầm nhủ.
Lại thêm ba tiếng đồng hồ nữa trôi qua, họ đón đợt nước triều thứ ba trong tiếng hét hò giận dữ. Lần này thế nước rõ ràng là nhỏ hơn lần thứ hai rất nhiều, con thuyền hình rắn của bọn Trác Mộc Cường Ba không bị lật nhào lần nào. Xem ra họ đã tiến vào khu vực trung tâm của vùng biển ngầm này rồi, hoặc ít nhất thì cũng đã rời xa được miệng loa kèn ấy. Sau đợt nước triều này, Trương Kiện cũng rời bỏ mọi người, anh lẳng lặng ra đi trong lúc cơn nước triều đang dữ. Khi mặt nước trở lại phẳng lặng, mới phát hiện anh đã ngừng hơi thở. Theo kết quả kiểm tra của Đường Mẫn và pháp sư Á La, anh ra đi hết sức yên bình, có lẽ cũng không đau đớn gì, chỉ như người đang say ngủ trở về với vòng tay bảo vệ của Chúa.
Lại một ngọn đèn nữa tắt đi, những người còn sống vẫn dập dềnh theo con sóng. Nhạc Dương chăm chú nhìn Trương Kiện chìm dần rồi biến mất, lần này thì đã nhìn rõ hơn, không hề sai, ngọn đèn gắn trên mũ Trương Kiện mới chìm được chừng chục mét thì đã đột nhiên biến mất, giống như có vật thể gì rất lớn đột nhiên ập tới chắn đi vậy. Nhạc Dương kể lại hiện tượng này với Trác Mộc Cường Ba. Gã lặng lẽ hỏi: “Cậu cho rằng, đó là thứ gì? ”
Nhạc Dương đáp: “Có sinh vật, dưới nước này có sinh vật, hơn nữa chúng còn đang ở xung quanh con thuyền này, như thể đang đợi chờ thức ăn rơi xuống vậy.”
Trác Mộc Cường Ba tức giận gầm lên: “Ý cậu là, thi thể của Nghiêm Dũng và Trương Kiện đều đã bị thứ ở dưới nước kia ăn sạch rồi sao? ”
Nhạc Dương cúi đầu nói: “Tôi nghĩ, đúng vậy.” Nhưng rất nhanh sau đó, anh lại ngẩng đầu lên, nói tiếp: “Thế nhưng, nếu thực sự có sinh vật, thì chúng ta cũng có thức ăn rồi! ”
“À! ” Trác Mộc Cường Ba thoáng nghĩ ngợi, đoạn nói: “Ý cậu là, chúng ta có thể câu cá! Đằng nào mọi người cũng đều đang nghỉ ngơi, chúng ta có thể thử xem sao! Trương Lập, gỡ đèn pha chiếu thử xuống nước xem nào.”
Chiếu đèn cả chục phút đồng hồ, nhưng chẳng phát hiện được gì. Những người trên thuyền lại thảo luận một phen, cho rằng khả năng ấy không lớn lắm, sinh vật sống trong bóng tối thông thường đều bị ánh sáng hấp dẫn, ánh sáng mạnh như vậy chiếu xuống mà không phát hiện có dấu vết gì, thì khả năng chúng tồn tại không lớn lắm. Xét cho cùng, đây cũng là nơi sóng to gió lớn, sinh vật khó mà sống nổi.
Trương Lập lại lắp đèn pha, con thuyền nhỏ tiếp tục tiến sâu vào bóng tối. Trong ánh mắt của đám người bốn mươi tám tiếng đồng hồ liên tiếp không ngủ này đã xuất hiện vẻ mơ hồ, không ít người bắt đầu nhớ đến câu “trôi dạt ngàn vạn năm trên dòng U Minh hà”. Rốt cuộc là còn bao nhiêu lâu nữa? Lẽ nào vùng biển ngầm dưới lòng đất này, thực sự không có bờ bên kia hay sao?
Một tòa nhà nào đó ở Chechnya, nhìn bên ngoài trông chẳng khác nào một tòa nhà bình thường, nhưng ai đặt chân vào bên trong sẽ nhận ra nó vắng lặng không một bóng người. Tất cả cư dân đã được mời ra ngoài, hay bản thân nó là một nơi hoang phế? Nhưng nếu nói đây là một tòa nhà bỏ hoang, vậy tại sao các thiết bị bên trong vẫn còn đầy đủ trọn vẹn, ở mỗi góc đều đặt máy quay, đèn điện sáng rực?
Thang máy dừng ở tầng mười tám dưới lòng đất. Một người đàn ông cao chừng mét tám, và một người khác hơi thấp hơn cùng bước ra ngoài. Cả hai bịt kín mặt. Vừa bước ra khỏi cửa thang máy, đã có hai người bịt mặt tay cầm thiết bị điện tử, kiểm tra toàn thân một lượt để chắc chắn họ không mang theo vũ khí hay vật phẩm gì bằng kim loại. Hai con chó berge Đức đã được huấn luyện đặc biệt ngồi chồm hổm một bên. Nếu ngửi thấy trên người hai kẻ mới đến có chút mùi gì của hóa chất dễ cháy hoặc dễ nổ, chúng sẽ không chút khách khí mà lao tới tấn công. Sau khi kiểm tra hai người bịt mặt từ trong thang máy bước ra, hai người kia lại tự dùng thiết bị điện tử rà người mình một lượt, tỏ ý họ cũng không mang theo bất cứ vũ khí gì.
Người bịt mặt dáng thấp hơn nói bằng tiếng Anh với người đi bên cạnh: “Đã kiểm tra ba lần rồi, ông Shakurov cẩn thận thật! ” Gã cao hơn gật đầu đáp: “Những người đến đây lần này đều là nhân vật lớn như ông cả, thủ lĩnh không thể không cẩn thận hơn mấy lần, dù bất cứ người nào xảy ra vấn đề, chúng tôi cũng không thể gánh nổi trách nhiệm.” Đối với tay Badila đến từ châu Mỹ này, có thể nói y vừa khâm phục, lại vừa kính sợ. Tạm không nhắc đến chuyện Badila là đại biểu của phía Vua Ma Túy, chỉ riêng dũng khí một mình đến đây của y, những kẻ tham dự hội nghị khác đã không ai bì được rồi.
Vì giữa các thế lực hắc đạo không thể nào không tồn tại xích mích, có thể nói, ông Shakurov đã tận hết tâm cơ để giữ cho cuộc gặp lần này được tốt đẹp. Không chỉ những người tham gia hội nghị đều phải bịt mặt, tuyệt đối không mang theo bất cứ vũ khí, mà cả những kẻ bảo vệ hội nghị cũng không được mang theo vũ khí. Mỗi người tham gia có thể mang theo tối đa là hai mươi vệ sĩ, ngoài tay Badila ra, những người khác vừa khéo mang đủ hai mươi người, bọn họ đều được sắp xếp cho ở bên ngoài tòa nhà này. Đám thủ hạ được sắp xếp giữ khoảng cách như nhau với khách tham gia hội nghị, để đồng thời vẫn nhìn thấy vị trí của ông chủ mình trong phòng họp thông qua camera giám sát, hễ thấy hơi có động thái gì khác lạ là có thể lập tức xông vào trong vòng một phút.
Chỉ nghe Badila nói: “Tổ chức hội nghị thế này là rất mạo hiểm đó.”
Người cao hơn cười hùa theo nói: “Đúng vậy, đúng vậy... Valery, dẫn ông Badila xuống.” Lại đổi một gã bịt mặt cao lớn, cơ bắp nảy nở đến mức gần lòi ra cả ngoài áo dẫn Badila đi cầu thang bộ tiếp tục xuống dưới. Tên cao lớn lúc nãy đưa tay lên quệt mồ hôi trên trán. Ở cùng một chỗ với tay Badila này dù thế nào cũng không phải chuyện vui vẻ sung sướng gì. Qua lớp vải che mặt, ánh mắt của Badila thực khiến người đối diện y cảm thấy căng thẳng. Đó là ánh mắt như thế nào chứ? Hồ nghi? Không. Âm hiểm? Không, càng không. Bi thương? Gần gần như vậy. Ánh mắt ấy toát lên một vẻ bi thương gì đó, tựa như y mới có người thân chết đi vậy, nhưng thế vẫn chưa đủ, trong ánh mắt ấy còn có một vẻ gì đó khiến y căng thẳng, hoặc có thể nói là... sợ hãi!
Trong phòng họp bày một chiếc bàn tròn, xung quanh có mười bảy mười tám chiếc ghế, phía trước mỗi ghế đều đặt một tập hồ sơ, một cái bút ký, nếu người nào không biết, chắc chắn sẽ ngỡ rằng đây là cuộc họp hết sức bình thường mà thôi. Chỉ có điều, những người tham dự hội nghị đều tương đối đặc biệt. Lúc này đã có mười người đến, tất cả đều bịt mặt, đồng thời cố ý giữ khoảng cách với nhau. Ở khoảng giữa còn lại bảy tám chiếc ghế trống.
Người chủ trì cuộc họp, Shakurov, ngồi đối diện với cửa lớn. Trên bức tường sau lưng y treo một màn hình máy chiếu.
Shakurov cũng như những người khác, đội khăn trùm che kín đầu, chỉ lộ ra hai con mắt xanh thẳm, âm hiểm. Y nhìn đồng hồ, đã quá giờ họp mười phút. Y vẫn còn đang đợi, là bởi trong ba tay trùm đứng ra tổ chức cuộc họp lần này, ngoài y ra, hai kẻ còn lại vẫn chưa thấy xuất hiện. Nếu không phải ba người bọn họ cùng đứng ra tổ chức, e rằng không thể triệu tập được nhiều thủ lĩnh thế lực đen phái đại biểu đến tham gia như vậy. Tất cả mọi sự vốn đã thương lượng xong xuôi, vậy mà đến lúc hành động, hai con cáo già kia lại không xuất đầu lộ diện, rốt cuộc là chuyện gì đây? Shakurov đã thoáng ngửi thấy mùi âm mưu gì đó. Y biết, hai con cáo già kia đều không phải hạng người nhát gan. Bọn họ không đến, nhất định là đã nghe ngóng được điều gì đó. Nhưng y vẫn rất tự tin với sắp xếp của mình. Bản thân tòa nhà này đã được thiết kế đủ để chống lại cả bom nguyên tử, còn như mấy loại tên lửa dò tìm căn bản không thể làm được gì; bước vào tòa nhà này bất cứ ai cũng không có vũ khí, dù trong hội nghị có tranh chấp, cùng lắm chỉ động đến quyền cước, va chạm một chút, dẫu sao cũng nằm trong giới hạn; hơn nữa, đám khách tham gia hội nghị lần này, tên nào tên đó đều là hạng mãnh tướng đã trải nhiều khảo nghiệm, nếu thực có động thủ, thì bản thân cũng ước lượng được hậu quả thế nào. Nếu có phần tử vũ trang nào liều mạng xông vào, tạm không nói đến chuyện đây là địa bàn của y, chỉ riêng đám vệ sĩ đi theo khách dự hội nghị ở bên ngoài tòa nhà cũng đến hơn hai trăm tên rồi, ít nhiều gì cũng có thể cầm cự được một lúc. Y thực không hiểu, sách lược an toàn như vậy rồi, hai con cáo già kia còn lo lắng gì nữa chứ.
Lại thêm năm phút nữa, Shakurov cuối cùng cũng lên tiếng: “Được rồi, chúng ta không đợi nữa, những người chưa đến xem ra cũng không đến đâu. Hôm nay, may mắn mời được các vị tới đây, chủ yếu là muốn bàn về vấn đề tài liệu liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, hy vọng có thể khơi thông và trao đổi với mọi người một chút. Các vị ở đây chắc đều đã biết, Bạc Ba La thần miếu là thứ gì, mọi người hoặc ít hoặc nhiều chắc cũng đều có nghiên cứu về nó. Có người thời gian ngắn hơn một chút, chỉ nghiên cứu vài năm; có người thì tương đối lâu, đã nghiên cứu về nơi này mấy chục năm rồi. Như chúng tôi chẳng hạn, chúng tôi đã biết đến sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu từ năm 1946 rồi.”
Những người tham gia cuộc họp “ồ” lên một tiếng. Bọn họ mới chỉ biết tổ chức này tiếp xúc với Bạc Ba La thần miếu tương đối sớm, nhưng không ai ngờ lại sớm hơn mình nhiều năm đến vậy. Đương nhiên, trong số đó cũng có những kẻ khinh khỉnh coi thường, thầm nhủ các người nghiên cứu bao nhiêu năm rồi, chẳng phải cũng vẫn chưa tìm ra được cái mẹ gì hay sao.
Shakurov tựa hồ đã nhìn thấu tâm tư của bọn họ, lại tiếp lời: “Đương nhiên, tuy thời gian nghiên cứu của chúng tôi dài hơn các vị một chút, tư liệu thu thập được có lẽ cũng nhiều hơn, nhưng tiến triển thực sự thì đúng là không lớn lắm, thậm chí có thể nói, là vẫn ở trên cùng một đường chạy với các vị ở đây. Hơn nữa, theo như tôi được biết, vẫn còn những người tiếp xúc với Bạc Ba La thần miếu sớm hơn cả chúng tôi nữa, nhưng bọn họ cũng chưa tìm được nơi ấy. Kỳ thực, bản thân Bạc Ba La thần miếu có lẽ không có gì nguy hiểm, khó nhất là ở lối vào của nó, có rất nhiều người cùng mục đích với chúng ta đã bị tấm bản đồ đó khiến cho lạc lối. Hơn nữa, một nguyên nhân chủ yếu là rất nhiều tư liệu về nó đều nằm ở Tây Tạng, Trung Quốc, rất khó tìm kiếm. Đây mới là khó khăn lớn nhất của chúng ta khi tìm Bạc Ba La thần miếu.”
Ngưng lại giây lát, Shakurov tiếp lời: “Được rồi, tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề luôn. Nội dung của cuộc họp ngày hôm nay, chủ yếu là về sự kiện ổ đĩa cứng chứa tư liệu về Bạc Ba La thần miếu mới xuất hiện mấy tháng trước. Tin rằng các vị ở đây đều đã biết, hai năm trước, đội thám hiểm do một người tên là Trác Mộc Cường Ba tổ chức đã bắt đầu bí mật tìm hiểu về Bạc Ba La thần miếu. Trong hơn hai năm ấy, bọn chúng thu thập được rất nhiều thông tin liên quan đến tòa thần miếu, thậm chí so với tư liệu nghiên cứu mấy chục năm của chúng ta còn mang tính đột phá hơn nhiều. Tuy rằng rốt cuộc chúng vẫn thất bại, nhưng những tư liệu mà chúng thu thập được cũng hết sức quan trọng đối với chúng ta. Hơn nữa, theo một nguồn tin đáng tin cậy, tuy đa phần số tư liệu ấy đã được giao lại cho chính phủ Trung Quốc, nhưng bản thân chúng cũng vẫn giữ lại một phần, đó chính là thứ được các tổ chức ngầm trên toàn thế giới gọi là Ổ cứng Bạc Ba La. Tin rằng các vị ngồi đây, đều đã từng vắt óc tính kế hòng có được ổ đĩa cứng ấy rồi phải không? Hơn nữa, theo tôi được biết, trong các vị ở đây, chính xác là đã có người làm như vậy rồi. Những người đầu tiên có được ổ đĩa cứng ấy, có lẽ là một tổ chức của châu Á, cụ thể là tổ chức nào thì cũng không quan trọng nữa, bởi vì thời gian Ổ cứng Bạc Ba La ở trong tay bọn họ không vượt quá sáu tiếng đồng hồ.” Tuy nói vậy, nhưng ánh mắt Shakurov lại quét sang hàng phía bên phải mình. Một gã bịt mặt cơ hồ đang ảo não cúi gục đầu xuống.
Shakurov nói tiếp: “Chuyện xảy ra sau đó, tin rằng tất cả đều đã biết cả rồi. Chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, đã có mười ba tổ chức phi chính phủ nhỏ vĩnh viễn biến mất trên thế gian này. Ngoài ra còn có tám tổ chức phi chính phủ nổi danh trên trường quốc tế cũng tổn hao lực lượng đáng kể. Từ châu Á, đến châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, cuối cùng lại sang đến châu Âu, hình như tất cả các tổ chức phi chính phủ và tổ chức cấp tiến trên toàn thế giới đều đã bị cuốn vào sự kiện Ổ cứng Bạc Ba La này, chém giết nhau đến trời long đất lở. Kết quả thì sao chứ? Chẳng phải là thậm chí rốt cuộc trong cái ổ cứng có chứa thông tin gì cũng không ai biết à. Đối với sự kiện lần này, tôi và mấy người bạn già cảm thấy hết sức chấn động, vì vậy mới lộ mặt can thiệp, chỉ mong có thể làm lắng xuống trận phong ba không cần thiết này mà thôi.”
Những người bịt mặt khác không ai là không mắng thầm trong bụng: con bà nó, không phải ổ đĩa cứng ấy cuối cùng đã bị lão cướp đi rồi hay sao? Nếu trong tay lão không có cái ổ cứng ấy, có chó mới ngồi đây nghe lão đánh rắm thối như vậy.
Shakurov lại nói tiếp: “Mong mọi người chớ nên nghi ngờ thành ý và quyết tâm của chúng tôi. Lần này tôi mời mọi người đến đây, chính là để công khai các nội dung chứa trong ổ cứng đó, mọi người đều có phần, tuyệt đối không nuốt lời. Sự thực là, tuyệt đối không có tổ chức nào có thể nuốt trôi được những thứ bên trong Bạc Ba La thần miếu đó. Mục đích của chúng tôi, chỉ là mong mọi người có thể hợp tác, cùng nhau tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, từ bỏ cách làm mỗi người một kiểu, ngấm ngầm tranh đoạt trước kia đi. Chỉ có vậy, chúng ta mới có thể tìm được Bạc Ba La thần miếu trước đối thủ một bước.”
Những người dự hội nghị lập tức chia nhau râm ran thảo luận, mỗi người một ý kiến. Có người cho rằng đây là cơ hội, đằng nào thì tài sản trong Bạc Ba La thần miếu cũng đủ để thay đổi vận mệnh của cả một đất nước, mỗi người nếu được chia phần thì cũng không hề ít; lại có kẻ cho rằng tư liệu thì có thể công khai, nhưng mọi người vẫn nên dựa vào thực lực mà hành động, ai có bản lĩnh thì người đó có thể tránh được tai mắt của chính phủ Trung Quốc mà tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, lấy được bao nhiêu là có bấy nhiêu, dựa vào cái gì mà công khai hợp tác chứ; ngoài ra cũng có người nghĩ rằng Shakurov nói không đúng sự thật, cái ổ cứng đã ở trong tay y được mấy ngày rồi, làm sao biết được y không động tay động chân vào đó, giấu đi hết những thông tin quan trọng hay là làm gì khác rồi...
Một lát sau, gã cao lớn bịt mặt tên là Valery bước đến bên cạnh Shakurov thấp giọng thì thầm mấy câu. Shakurov dường như rất hài lòng, khẽ gật đầu, nói: “Mời ông ấy vào đây.”
Kế đó, y lại nói với mọi người tham gia hội nghị: “Mọi người yên lặng. Trước tiên, xin gửi đến mọi người một phần tài liệu chúng tôi có được sau khi phá giải ổ cứng Bạc Ba La.” Nói đoạn, trên màn hình sau lưng y liền hiện lên tài liệu hình ảnh bọn Trác Mộc Cường Ba quay được trong địa cung Maya. Tất cả lập tức lặng người đi, nhìn chằm chằm không chớp mắt vào màn hình lớn, như thể chỉ sợ để lỡ mất chi tiết gì đó.
Lúc này, Badila mới bước vào phòng họp, ánh mắt hết sức cổ quái, khiến Shakurov cảm thấy không hề dễ chịu chút nào. Đó rốt cuộc là ánh mắt như thế nào vậy, khiến người ta có cảm giác bị đè nén áp bức, một ánh mắt u uất, đúng, u uất. Đó là một kiểu u uất băng lạnh, mang theo chút bi thương hờ hững, khiến người ta nhìn đã thấy khó chịu, nhưng lại có gì đó quen quen. Y đã thấy ánh mắt đó ở đâu rồi nhỉ? Badila vừa bước vào phòng họp, mọi người liền có cảm giác như thể nhiệt độ trong phòng đột nhiên giảm xuống mấy độ. Shakurov lạnh lùng nói: “Ông đến trễ, cũng nên cho tôi một lý do chứ.”
Không ngờ, Badila hoàn toàn không để ý đến lời chất vấn của Shakurov, chỉ đảo mắt một vòng quanh phòng họp nói: “Sao chỉ có mấy người này thôi? ” Ngữ khí đầy vẻ khiêu khích.
Shakurov bừng bừng nổi giận. Trên địa bàn của y, xưa nay chưa từng có kẻ nào dám khiêu chiến với quyền uy của y như vậy. Nhưng tên Badila này là đại diện của Vua Ma Túy, kẻ có quan hệ mật thiết với tất cả các thế lực buôn bán ma túy ở châu Mỹ và vùng Đông Nam Á. Bọn y muốn tiến vào Tây Tạng thì phải lợi dụng thế lực của chúng, vì vậy Shakurov không giận dữ quát tháo, mà chỉ cao giọng nói: “Ông kia, xin hãy chú ý đến cách nói năng! ”
Badila nhướng nhướng mày, tựa như Shakurov không hề tồn tại, chỉ lẩm bẩm nói một mình: “Không phải ông nói đã mời đại biểu của mười bảy tổ chức hay sao? Xem ra vẫn còn mấy con cáo già biết trước, nên đào tẩu mất rồi! ”
Thế này thì đã rõ rành rành là đang khiêu chiến rồi. Shakurov và đám đại biểu thế giới ngầm kia làm sao còn không biết được nữa. Chỉ nghe Shakurov lớn tiếng nói: “Valery! ” Đồng thời quát hỏi: “Ông có ý gì vậy, Badila? ” Y đã gọi ra tên đối phương, chứng tỏ đã không còn để ý đến việc giúp đối phương giữ bí mật thân phận nữa.
“Badila? Hắn là Badila ở đâu vậy? ” Một người bịt mặt bên cạnh Shakurov cất tiếng hỏi.
Shakurov nói: “Hắn là đại biểu của Vua Ma Túy Colombia.”
“Không! ” Người bịt mặt bên cạnh y liền kêu ré lên, “Hắn không phải Badila, tôi đã gặp Badila rồi. Kẻ này là giả! ”
Nhưng tất cả đều đã muộn, tên Badila giả mạo ấy đột nhiên vung tay một cái, cầm tập hồ sơ trên bàn lên. Trong tay y, mép tập hồ sơ ấy đột nhiên biến thành lưỡi đao sắc bén vô cùng, chỉ trong chớp mắt đã cắt đứt động mạch trên cổ hai người bịt mặt ở cạnh đó. Kế đó, bàn tay Badila đập mạnh xuống mặt bàn, cây bút dùng để ký tên kia liền bắn tung lên, cổ tay y lật nhanh một cái, nắp bút không biết từ lúc nào đã rơi ra, ngọn bút như một mũi tên bắn vọt vào cổ họng người bịt mặt vừa chỉ ra y là kẻ giả mạo. Người bịt mặt ấy loạng choạng lùi lại hai bước, cổ họng phát ra những tiếng “ọc ọc” rồi ngã ngửa. Còn lúc ấy, tên Badila giả mạo đã cầm hai chiếc ghế băng lên, lần lượt ném về hai người bịt mặt khác, kế đó tung chân đá ra một bước, cả chiếc bàn hội nghị hình tròn đã bị đá văng về phía trước, làm Shakurov đứng đối diện bị đụng oằn cả người lại.
Lúc ấy, tên Valery vai u thịt bắp kia mới xông tới chỗ chiếc bàn tròn, nhằm vào cẳng chân đá ra của Badila giả kia, nắm tay lại chặt xuống. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như tia lửa lóe lên ấy, hắn nhìn thấy Badila cơ hồ đang nhìn mình cười, cười lạnh lùng.
Đúng lúc y còn đang ngạc nhiên trước nụ cười cổ quái ấy, đột nhiên phát hiện bàn tay mình đã chặt vào khoảng không. Liền sau đó, Valery chợt cảm thấy răng cửa đau nhói lên, một vật cứng băng lạnh đã nhét vào trong miệng mình, áp vào hàm trên rồi không ngừng tiến sâu, cơ hồ như chạm phải thứ gì đó, rồi đến cảm giác vỡ vụn, sâu trong cổ họng liền có một thứ dịch thể ấm nóng chảy ra, tràn vào trong miệng, cuối cùng mới là cảm giác đau đớn do xương cổ gãy lìa. Không thể nào! Trong khoảnh khắc vòng qua chiếc bàn tròn đó, Valery đã phán đoán chuẩn xác tốc độ xuất thủ và sức mạnh của Badila, tại sao chỉ trong một nháy mắt, tốc độ và sức mạnh của đối phương đã tăng lên tới mức y không thể nào lý giải được như vậy chứ? Một kẻ từng lăn lộn trên sàn đấu ngầm mười mấy năm như y đương nhiên hiểu rất rõ, trong những cuộc chiến sinh tử mà phán đoán sai lầm về tốc độ và sức mạnh của đối phương, sẽ dẫn đến kết quả như thế nào. Nhưng y rõ ràng là vua cận chiến không ngai của giới đấu sĩ Nga cơ mà! Tại sao, tại sao kẻ kia lại sở hữu tốc độ và sức mạnh mà chính y cũng không thể ước đoán được như thế? Không thể nào! Đây là ý nghĩ cuối cùng trong đầu Valery trước khi mất đi ý thức.
Ông vua không ngai của giới đấu sĩ Nga, không ngờ mới chỉ một chiêu đã mất mạng, thậm chí cả cơ hội hoàn thủ cũng không có. Nếu Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang nhìn thấy cảnh tượng này, chỉ sợ sẽ lập tức nghĩ ngay đến việc chạy trốn như thế nào. Nhưng Shakurov không thể chạy thoát, tất cả mọi người trong căn phòng này đều không thể chạy thoát.
Shakurov bị chiếc bàn hội nghị hình tròn ấy đụng phải, cảm giác như thể bụng mình bị xe tăng húc vào vậy, ổ bụng quặn thắt lên, hoàn toàn không còn sức lực phản kháng nữa, cứ vậy mà ôm bụng đổ vật xuống. Trong khoảnh khắc ngã xuống đó, y vẫn kịp nhìn thấy Badila tung cước đá vỡ tung một chiếc ghế băng trên không trung, hai tay bắt lấy hai chân ghế nhét vào miệng tên vệ sĩ cao cấp nhất của mình và bụng một gã khách bịt mặt khác.
Shakurov không thể ngờ, gian phòng hội nghị không có vũ khí mà y cứ ngỡ là đã hết sức an toàn, không ngờ lại trở thành nấm mồ chôn cả bọn. Tên Badila giả mạo ấy rốt cuộc là ai? Hắn... hắn sao dám phạm vào sai lầm lớn đến như vậy, dám khiêu chiến toàn bộ thế lực ngầm trên khắp thế giới? Lẽ nào hắn thật sự không biết hậu quả của việc làm ấy hay sao? Shakurov hết sức nghi hoặc, đột nhiên nghĩ đến một chuyện, không, không đúng! Hai con cáo già kia không đến họp, lẽ nào bọn y đã nghe được phong thanh gì từ trước? Thế nhưng, đám người mà y mời đến này đều là người đại diện của các tổ chức ngầm nổi danh khắp thế giới, làm gì có tổ chức nào có thể hoàn toàn không để mắt đến bọn y như vậy cơ chứ? Tên của từng tổ chức khủng bố thuộc hàng siêu cấp trên thế giới lần lượt hiện lên trong óc y, nhưng rồi nhất loạt đều bị phủ định
Lúc này, hầu như tất cả đám đại biểu bịt mặt trong phòng họp đều đã bị gã Badila kia giải quyết, gian phòng tĩnh lặng như tờ, không một tiếng động. “Ta sắp chết rồi sao? ” Shakurov nằm dưới đất, ý nghĩ ấy đột nhiên xuất hiện trong tâm trí. Y ra đời đã hơn bốn mươi năm, ngày nào cũng đều trải qua tranh đấu, chém giết ác liệt, nhưng chưa từng có một giây một khắc nào y khiếp sợ cái chết giống như lúc này đây. Tên Badila đó... tốc độ ấy, sức mạnh ấy, kỹ thuật ấy, y chưa từng thấy bao giờ, không thể ngờ được một người lại có thể giết người dễ dàng như thế, bất cứ thứ gì lọt vào tay cũng đều trở thành vũ khí giết người được. Toàn bộ quá trình như thể đã được tính toán hết sức cẩn thận trong máy tính, phản ứng và động tác né tránh của mỗi người, toàn bộ đều nằm trong tầm kiểm soát của đối phương. Thật quá đáng sợ! Tên Badila này, thực sự là sát thủ đáng sợ nhất mà y từng gặp trong đời! Nhưng dù hắn giết sạch tất cả những người trong gian phòng này, dẫu sao thì cũng chỉ có một thân một mình, bên ngoài vẫn còn mấy trăm tên hung thần ác sát cầm vũ khí trong tay, lẽ nào y cũng có thể giết hết toàn bộ bọn chúng?
Badila đã đến bên cạnh Shakurov, từ trên cao nhìn xuống, vẫn ánh mắt đượm vẻ u uất đó, vẫn cảm giác khiến người ta lạnh toát đến tâm can đó. Shakurov đột nhiên không còn cảm thấy sợ hãi trước cái chết nữa, y đã buông bỏ mọi phản kháng, chỉ là vẫn thầm nhủ trong lòng, ánh mắt ấy thật quen thuộc, thật quen thuộc, rốt cuộc là đã gặp ở nơi nào chứ? À! Shakurov sực nhớ ra, đó là thần sắc thường lộ ra trong mắt những người thân hay bè bạn của người chết lúc hạ táng ở nghĩa trang, thương xót, tiếc nuối, lại đượm vẻ bi thương, chỉ có điều, trong đôi mắt Badila, còn thấp thoáng cả vẻ châm biếm và khinh rẻ. Cái... cái tên này! Lẽ nào trong mắt hắn, mọi người khác đều chẳng khác nào người đã chết? Kẻ này rốt cuộc là ai vậy chứ?
“Mày... mày là ai? ” Cuối cùng, Shakurov vẫn cất tiếng hỏi, hy vọng rằng ít nhất cũng biết được rốt cuộc mình chết trong tay ai. Không ngờ, tên Badila giả mạo kia hình như không hề nghe thấy, vẫn lẩm bẩm tự nói một mình: “Chúng mày là lũ ngu xuẩn, cản đường bọn tao rồi. Kẻ nào cản đường bọn tao, đều phải chết! ” Nói dứt lời, liền giẫm nát xương ức của Shakurov. Shakurov cảm thấy hết sức rõ rệt, ngực mình như thể bị một tảng đá khồng lồ nặng cả chục tấn đè xuống, trái tim y vẫn gắng sức giãy giụa đập lên, nhưng sự phản kháng ấy thực quá đỗi bất lực. Chỉ trong thoáng chốc, đã không còn nghe thấy tiếng máu chảy nữa, ý thức Shakurov vẫn còn tỉnh táo, song y hiểu rõ rằng, trái tim mình đã ngừng nhịp đập, chẳng bao lâu sau nữa, y sẽ chết vì thiếu máu và oxy lên não. Đúng lúc ấy, một cái tên đáng sợ trồi lên từ nơi sâu thẳm nhất trong ý thức của y, đó là một cái tên khiến người ta thậm chí còn không dám nghĩ đến... bọn chúng luôn ẩn mình ở trong bóng tối thăm thẳm, nhưng đến cả những tổ chức bí mật nổi tiếng nhất thế giới mỗi khi nghe đến cái tên này cũng phải rùng mình biến sắc!
Trong khoảnh khắc ấy, Shakurov cảm thấy mình tỉnh táo hơn bao giờ hết, toàn bộ thân thể dường như đang trôi nổi dập dềnh trên không trung, hoàn toàn không còn cảm giác bị đè nén như lúc ban đầu nữa, chỉ là, nỗi kinh hoàng và khiếp sợ ở sâu thẳm trong ý thức khiến y cảm thấy linh hồn mình đang run lên bần bật. Y dùng hết chút sức lực cuối cùng của mình, khản giọng hét lên thành tiếng: “Mười... Ba... Kỵ... Sĩ... Bàn... Tròn...”
Trước khi mất đi ý thức, Shakurov nhìn thấy khóe mắt của Badila. Trong đôi mắt u uất ấy, dường như đã có thêm một nét cười không sao nhìn thấu nổi. Tại sao, Mười Ba Kỵ Sĩ Bàn Tròn, bọn họ cũng đang tìm kiếm ư... Ý nghĩ cuối cùng của Shakurov cũng vẫn đầy những nghi hoặc, liền sau đó, y bắt đầu chìm sâu vào vực sâu vô tận, không bao giờ tỉnh lại nữa.
Tên Badila giả mạo kiểm tra lại một lượt, xác nhận trong phòng họp không còn dấu hiệu nào của sự sống, bèn chầm chậm đứng lên, ngoài cửa lại xuất hiện thêm một người đàn ông gầy guộc trên khoác áo gió màu trắng, dưới mặc quần bò đen. Người này cao hơn Badila gần một cái đầu, ước chừng chưa đến bốn mươi tuổi, lông mày rất mờ nhạt, sắc mặt trắng đến dị thường, có chút gì đó hơi giống người bị bệnh bạch tạng, nhưng mái tóc thì lại có màu nâu đỏ rất rực rỡ.
Badila nhìn thấy đối phương, liền yên tâm mỉm cười. Y biết, người này xuất hiện ở đây, đồng nghĩa với việc mấy trăm tên cầm súng ngoài kia đã không còn khả năng phản kháng gì nữa. Badila bước lên trước, khẽ cúi đầu xuống, đưa tay phải lên sờ dái tai, nói: “Cám ơn sự giúp đỡ của anh, đại đội trưởng Fahkri.”
Người đàn ông tên là Fahkri ấy nét mặt trơ ra như gỗ, đưa mắt nhìn đám người nằm la liệt trong phòng, đoạn nói: “Đám người này, hình như đều là đại diện của các thế lực ngầm thì phải. Anh làm vậy, liệu có hơi lỗ mãng không? ”
Badila gượng gạo nhìn về phía Tây Nam, nói: “Kỳ thực, tôi chỉ sợ lần hành động này...”
“Nếu cấp trên đã giao cho anh hành động một mình, thì anh cũng không cần phải tiết lộ cho tôi làm gì.” Fahkri ngắt lời, “Có điều hôm nay tôi đã ra tay, dù chúng ta có ngụy trang thêm nữa cũng vẫn bị các tổ chức lớn điều tra ra thôi. Tôi không hy vọng vì chuyện này mà gây ảnh hưởng gì đến kế hoạch của cấp trên đã vạch ra đâu.”
Badila cười tươi nói: “Không sao đâu, bọn chúng không có nhiều thời gian như vậy, mà cũng không bỏ công bỏ sức ra điều tra chúng ta làm gì, dẫu sao thì tôi với anh cũng chỉ là hạng tốt nhép mà thôi. Mười Ba Kỵ Sĩ Bàn Tròn từng nói, kế hoạch cần phải chu đáo cẩn mật, không được phép có bất cứ sơ hở nào cả.”
Thấy Badila nhắc đến cái tên Mười Ba Kỵ Sĩ Bàn Tròn đó, Fahkri thoáng chau mày nói: “Tôi phải nhắc nhở anh, quân tốt muốn qua sông bắt vua, điều kiện tiên quyết là không được để đối thủ chú ý đến, đội trưởng đội T... Chồn! ”
“Thế giới của con người, không chỉ đơn giản là phân chia thành thế giới tinh thần và thế giới vật chất, nhưng để tiện cho con lý giải, ta tạm thời chia ra như vậy đã. Chắc con cũng biết, con người có dục vọng vật chất, mà cũng có dục vọng về tinh thần, vì vậy, họ mới nảy sinh ra ham muốn theo đuổi vật chất, đồng thời cũng có những theo đuổi về mặt tinh thần. Khi con người không được thỏa mãn, họ có ba phương thức biểu đạt khác nhau: bỏ cuộc, tiếp tục, hoặc lơ lửng giữa bỏ cuộc và tiếp tục kiên trì, chỉ lựa chọn để mà lựa chọn. Khi con người bị tổn thương, thì người cần cho họ nhất chính là bác sĩ và mục sư, bác sĩ chữa lành những vết thương của nhục thể, còn mục sư thì giúp hàn gắn những khe nứt của tâm linh, vì vậy họ đều là những người rất được tôn kính. Tuy nhiên, trong thế giới vật chất, trải qua mấy ngàn năm phát triển, nhân loại về cơ bản đã hình thành một bộ phép tắc về vật chất tương đối hoàn chỉnh, nó đặt ra một loạt các quy định đối với sự theo đuổi vật chất của con người, thế nào là theo đuổi hợp lý, thế nào là bất hợp lý, đều đã tương đối rõ ràng. Thế nhưng, còn thế giới tinh thần thì sao? Con người cơ hồ chưa từng chế định ra một bộ pháp điển tinh thần, quy định những gì có thể suy nghĩ, còn những gì không thể tưởng tượng. Có thể con sẽ nói, vật chất biểu đạt bằng phương thức cụ thể, còn thế giới tinh thần, lại phức tạp hơn rất nhiều, hơn nữa nó cũng không có phương thức biểu đạt cụ thể, không ai có thể biết được người khác đang nghĩ gì. Không sai, đây đích thực là một nguyên nhân quan trọng khiến chúng ta không thể chế định được một bộ phép tắc cho thế giới tinh thần, nhưng đó không phải là toàn bộ nguyên nhân. Trên thực tế, tôn giáo xưa nay vẫn đóng vai trò quan trọng này, chí ít nó cũng cho người ta biết, cách nghĩ nào là chính xác, cách nghĩ nào là tà ác, đồng thời dùng phương thức độc đáo mà chỉ riêng tôn giáo mới có, đặt ra những rào cản về tinh thần đối với những kẻ có tư tưởng tà ác. Trong xã hội của loài người, tác dụng của tôn giáo cũng quan trọng tương đương với pháp luật vậy. Vì thế, những bậc đại trí huệ thực sự không bao giờ liên hệ những thần tích với các thành tựu khoa học kỹ thuật ngày nay, bởi vì trong thế giới tinh thần, pháp điển của tôn giáo là độc nhất vô nhị, giáo lý của họ, vượt trên bất cứ cuốn sách nào về phương diện tâm lý tinh thần hiện đại ngày nay; không có danh tác khoa học nào có thể thay thế được địa vị của tôn giáo trong thế giới tinh thần. Bất cứ nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng nào cũng sẽ không phản đối, bài xích hoặc phủ định sự tồn tại của tôn giáo. Nhưng điểm này xưa nay vẫn luôn bị giải thích rằng, làm vậy chỉ để tiện cho thống trị hoặc nô dịch hóa thống trị. Giải thích như vậy là không chính xác, không toàn diện. Ý nghĩa thực sự của tôn giáo chính là ở chỗ, nó là quy tắc pháp luật của toàn nhân loại trong thế giới tinh thần. Con người muốn tồn tại, trước tiên cần phải có bản năng cầu sinh và sinh sôi nảy nở; xã hội muốn tồn tại, nhất thiết cần phải có pháp quy và người chấp hành pháp luật; tôn giáo được sinh ra do nhu cầu của con người, khi nào nhu cầu về mặt tinh thần của con người vẫn còn, nó sẽ không bị diệt vong. Con à, thử nghĩ mà xem, nếu trên thế giới này, không có linh hồn, cũng không có kiếp sau và luân hồi, không có thiên đường cũng không có địa ngục, không có người ngoài hành tinh với trí tuệ phát triển cao và những nền văn minh chúng ta chưa biết đến, vậy thì con người... thật cô độc xiết bao...” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực tỉnh, lòng bàn tay đẫm một lớp mồ hôi lạnh. Mẫn Mẫn vẫn cuộn tròn trên đùi gã, gã có thể cảm nhận được sự mềm mại và ấm áp nơi thân thể nhỏ nhắn như chú mèo con của cô. Trương Lập, Nhạc Dương đều ôm mái chèo ngồi xổm bên cạnh mạn thuyền, ngọn đèn gắn trên đầu dập dềnh theo theo sóng. Gã có thể nhìn thấy được gương mặt tái nhợt và những đôi mắt đỏ vằn lên của các thành viên trong đoàn. Không ngờ gã lại ngủ thiếp đi, đã bao nhiêu lâu rồi? Trác Mộc Cường Ba khẽ lắc lắc đầu cho tỉnh táo hơn. Kỳ lạ thật, gã đã dựa vào vai đội trưởng Hồ Dương ư?
Vừa ngẩng đầu lên, gã liền chạm phải một gương mặt khác. Trác Mộc Cường Ba vội lập tức ngồi thẳng dậy. Lữ... Lữ Cánh Nam, gã đã dựa đầu vào vai cô ngủ thiếp đi từ lúc nào vậy? Vừa nãy chạm khẽ vào, chỉ mong không làm cô tỉnh giấc.
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại, để chống chọi với cái lạnh, mọi người ngồi quây lại một chỗ nghỉ ngơi. Ắc quy gần hết điện, Trương Lập lúc đó nói, nếu đã không chèo thuyền, thì nên tắt đèn pha đi để tiết kiệm điện năng, mọi người hãy dùng đèn gắn trên đầu để chiếu sáng. Trong bóng tối, không gian tĩnh lặng không một tiếng động, ánh sáng của ngọn đèn trên đầu lại dìu dịu, vậy nên gã ngủ thiếp đi lúc nào mà chẳng hay. Lúc này, cảm giác đói khát lại bắt đầu dấy lên đến mức khó chịu, gã bèn cẩn thận giữ nguyên tư thế ngồi bất động, khẽ khàng đưa tay múc một cốc nước, ngửa cổ uống cạn, khóe mắt lại thấy bốn con mắt đỏ vằn lên ở phía đối diện. Trương Lập và Nhạc Dương đang nhìn gã chằm chằm. Nét mặt cả hai hết sức quái đản, như muốn cười nhưng lại gắng hết sức nhịn không để tiếng cười bật ra vậy.
Trác Mộc Cường Ba nhíu mày lại, trừng mắt lên hỏi: “Cười cái gì mà cười? ”
Nhạc Dương đảo mắt một vòng, nhìn Mẫn Mẫn đang nằm trong lòng Trác Mộc Cường Ba, rồi lại nhướng mắt lên hất sang phía bên phải, rõ ràng là đang nhìn Lữ Cánh Nam mà lúc nãy gã mới dựa đầu vào, kế đó anh chàng lại lè lưỡi liếm liếm môi, làm bộ liếc mắt đưa tình với Trác Mộc Cường Ba, đoạn giơ ngón tay cái lên. Mấy người chưa ngủ nhìn thấy điệu bộ ấy của Nhạc Dương đều không khỏi mỉm cười. Trương Lập ngồi ngay bên cạnh lại càng cười đến không khép miệng vào được. Trác Mộc Cường Ba giận dữ trợn trừng mắt lên, sát khí đằng đằng truyền đi tín hiệu cảnh cáo, răng nghiến kèn kẹt, môi mấp máy, nét mặt như thể đang nguyền rủa, ý tứ rõ là muốn nói: “Hai thằng nhóc các cậu, cẩn thận đấy! ”
Nhạc Dương chẳng hề e dè dẩu môi về phía đùi gã, Trác Mộc Cường Ba vội cúi đầu xuống. Mẫn Mẫn đâu có ngủ, cô đang mở to đôi mắt nhìn chằm chằm vào vẻ biểu cảm phong phú trên gương mặt gã. Trác Mộc Cường Ba bất giác giật thót mình, cảm giác trên mặt nóng bừng bừng. Còn Nhạc Dương thì há miệng cười nghiêng cười ngả, động tác hết sức khoa trương, nhưng lại không hề phát ra bất cứ âm thanh nào.
Vừa thấy Mẫn Mẫn đang nhìn mình, Trác Mộc Cường Ba liền ngồi ngay ngắn dậy. Kế đó con thuyền nhỏ lại tròng trành một chặp, Lữ Cánh Nam cơ hồ cũng đã tỉnh giấc. Sắc mặt Nhạc Dương và Trương Lập tức thì trở nên nghiêm túc vô cùng, tựa như cả hai cũng chỉ vừa ngủ dậy thôi vậy.
Lữ Cánh Nam cũng như không biết có chuyện gì xảy ra, bình tĩnh nói: “Thật ngại quá, không ngờ tôi cũng thiếp đi mất. Tôi ngủ được bao lâu rồi? ”
Nhạc Dương đáp: “Theo tính toán của pháp sư Tháp Tây, chúng ta đã ở dưới vùng biển ngầm này được ba mươi tám canh giờ rồi.”
Trác Mộc Cường Ba thầm chấn động trong lòng, ba mươi tám canh giờ, tức là bảy mươi sáu tiếng đồng hồ. Bảy mươi sáu tiếng đồng hồ này đã trải qua như thế nào chứ, thời gian được tính từ lúc bọn gã gặp phải lực thủy triều đáng sợ như thể sóng thần ập đến đó, kế đó cả bọn đều phải liều mạng đua tốc độ với con sóng, khó nhọc tiến lên trong bóng đêm mịt mùng không thời gian, không cả phương hướng này. Cho đến thời điểm này, bọn gã đã trải qua sáu lần nước triều dâng đáng sợ. Trên con sóng cuồn cuộn, Nghiêm Dũng, Trương Kiện đã lần lượt trầm mình nơi đáy nước; đến canh giờ thứ hai mươi ba, bọn gã đã ăn hết sạch chút thức ăn cuối cùng; sau canh giờ thứ ba mươi, cả bọn đã không còn sức để khua mái chèo nữa; ở vùng biển ngầm sâu dưới lòng đất tối tăm này, đói khát đồng hành với cái lạnh, những người trên con thuyền nhỏ đành ngồi vây lại với nhau để giữ ấm. Lúc này, bọn họ chỉ còn lại mấy ống thuốc dinh dưỡng duy trì sự sống, nhưng tất cả những người tỉnh táo đều cố nhịn cảm giác đau quặn trong dạ dày, gắng dựa vào nước ngọt dưới biển để cầm cự... Trên thuyền, vẫn còn hai người nằm thiêm thiếp, họ cần những ống thuốc đó hơn nhiều.
Trôi lênh đênh trong bóng tối. Tuy dòng nước biển không đẩy ngược họ trở về nữa, nhưng không ai biết được, rốt cuộc họ đang trôi đi đâu về đâu, bao giờ thì tới điểm cuối của cuộc hành trình này. Hồi nhỏ, Trác Mộc Cường Ba đã từng cho rằng những thứ gây tổn hại đến thân thể con người như cạm bẫy, mãnh thú, súng ống là vô cùng đáng sợ; về sau gã mới dần dần hiểu được, sự độc ác của lòng người còn ghê gớm hơn mãnh thú và gậy gộc, súng ống gấp bội phần, đồng thời nỗi đau khi tâm hồn bị tổn thương cũng lớn hơn rất nhiều so với những gì thân thể chịu đựng; còn đến lúc này đây, Trác Mộc Cường Ba đang dần lĩnh ngộ được những gì cha gã từng dạy: “Con người, không hề sợ mãnh thú thượng cổ, hay âm mưu bội phản, thậm chí còn không sợ cả nỗi đau và chết chóc. Thứ con người thực sự hãi sợ nhất, chính là không biết, khi không thể nào biết được khoảnh khắc tiếp sau đó sẽ xảy ra chuyện gì, đó mới là lúc trong lòng con người cảm thấy sợ hãi.”
Trác Mộc Cường Ba cũng giống như những người khác, hai tay ủ rũ gác lên đầu gối, ánh mắt thẫn thờ nhìn khoảng trống ở giữa vòng quây của mọi người. Thì ra bóng đêm đáng sợ đến nhường ấy, trong vùng tối mênh mang này, người ta vĩnh viễn không thể nào biết được khoảnh khắc tiếp theo sẽ có chuyện gì phát sinh. Tất cả chỉ có thể lặng lẽ ngồi quây lại với nhau trên con thuyền nhỏ. Đây là một nhà ngục không hề có canh phòng, chỉ có Tử thần đến thị sát theo thời gian quy định, mỗi lần lại lấy đi một sinh mệnh, thậm chí còn không cho những người còn lại có thời gian để mà đau đớn. Đây là U Minh hà, dòng sông chỉ dành cho những bóng u linh, không phải bậc dũng sĩ chân chính thì không thể có dũng khí để bước chân vào. Trác Mộc Cường Ba không nén nổi ý nghĩ, nếu không có những đồng đội này, nếu mọi người không gắng sức chống đỡ cho nhau, liệu gã có thể cầm cự được trong môi trường tăm tối này mấy nỗi, chỉ e sớm đã ngã xuống từ lâu rồi. Đồng thời gã cũng hiểu rõ, càng rơi vào bước đường cùng, tinh thần ý chí của con người càng có tính chất quyết định đối với tỉ lệ sinh tồn, không thể để mọi người tiếp tục lặng lẽ chờ đợi cái chết như vậy được. Ngoài hai vị Mật tu giả là pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây, trong đám bọn họ không một ai có thể sống lâu trong hoàn cảnh lặng im phăng phắc như thế này được.
Lặng lẽ cầm cự, trong hoàn cảnh u ám, băng lạnh, cô độc, bọn họ đang trải qua một hành trình dài hoàn toàn cách biệt với thế gian. Thời gian cứ trôi đi từng phút từng giây, không biết đã được bao nhiêu lâu. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cất tiếng hỏi: “Trương Lập, cậu vẫn còn sống đấy chứ? ”
“Ừm! ” Ngọn đèn trên đầu Trương Lập đung đưa lắc lư một chặp, quầng sáng cơ hồ rạng hơn một chút.
“Chắc chắn chứ? ”
Trương Lập thoáng ngần ngừ, đoạn nói: “Đợi chút, để tôi xác nhận lại đã.”
Giây lát sau, Nhạc Dương kêu “ối” lên một tiếng, nói: “Sao anh cắn tôi? ”
Chỉ nghe Trương Lập hỏi: “Đau không? ”
“Dở hơi à, tôi cắn anh một cái xem có đau không nhé? ”
Trương Lập quay sang nói với Trác Mộc Cường Ba: “Báo cáo Cường Ba thiếu gia, đã xác nhận, tôi vẫn sống.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tốt lắm, kể câu chuyện cười đi.”
Nhạc Dương tiếp lời: “Phải kể sao cho tất cả mọi người đều cười mới thôi.” Dứt lời, anh chàng cầm bình nước lên đổ ừng ực vào miệng.
“Cũng được thôi.” Trương Lập nói: “Tôi sẽ kể chuyện đợi tàu hỏa. Chuyện kể rằng, một hôm nọ, có một cô gọi điện đến bộ phận quản lý đường sắt phàn nàn, nói mỗi khi có tàu hỏa chạy qua, là nhà cô ta như là có động đất vậy, không thể nào sống nổi nữa. Bộ p