Chương 8: Lạc Lối Ở Shangri:la.
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Nhạc Dương ngửa cổ lên nhìn bầu trời đêm, mấy ánh sao lấp lóe, bất giác thốt lên: “Hay thật, đêm nay màn sương mù phía trên Shangri-la lại tan đi, lại có thể thấy bầu trời sao rồi.” “Thật không? ” Trác Mộc Cường Ba cũng ngẩng đầu lên. Có điều, gã và Nhạc Dương đều nhanh chóng phát hiện ra, những ngôi sao ấy có gì đó không ổn, đó không chỉ là những ánh sao lấp lánh, mà còn di chuyển với tốc độ rất nhanh, không giống như quỹ đạo của các vì sao chút nào. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, nhíu mày nói: “Lạ thật đấy! ”
Nếu Shangri-la có ba tầng bình đài thật, thì bọn họ chỉ có thể trông thấy được tầng thứ nhất và thứ hai, vì tầng thứ ba và trên cao nữa lúc nào cũng bị mây mù che kín, không thể nhìn được.
Nhưng hôm nay, đêm hôm nay, Shangri-la lại tựa như nàng dâu mới đêm động phòng, chỉ hững hờ phủ nhẹ một lớp sa mỏng, mây mù đều tan hết, chỉ còn lại một màu trắng tinh khiết thần thánh. Khe nứt hẹp dài cong cong luôn bị mây mù khuất lấp trên đỉnh đầu, giờ đây đã hiển hiện rõ rệt. Chỗ họ đang đứng là một thung lũng kẹt giữa hai mạch núi lớn, hoặc nói là một mạch núi nứt toác ra cũng không có gì sai. Hai bên có mấy ngọn núi cao sừng sững cùng nghiêng nghiêng về phía trung tâm thung lũng, dáng hơi cong cong như răng sói. Nếu nói đây là một đóa sen, vậy thì những ngọn núi ấy chính là những cánh sen còn đang khép nụ. Lúc này giữa khe núi không ngờ lại khảm đầy sao trời lấp lánh, tựa hồ dải Ngân hà được kéo lại gần cả trăm lần, một chiếc mâm ngọc ló lên khỏi khe nứt, ánh sáng trong vắt đẹp đến ngất ngây lạ thường.
“Trăng kìa! ” Tất cả hân hoan reo lên. Vừa mới đây thôi, họ còn tưởng mình đã hoàn toàn tách biệt khỏi thế gian, không biết đang ở chốn nào nơi nào, giờ đây được trông thấy vầng trăng vắng bóng đã lâu, làm sao không kích động cho đành. Điều này ít ra cũng chứng minh họ vẫn còn ở một góc nào đó không ai biết đến trên địa cầu, chứ không phải đã rơi vào vực sâu của chốn địa ngục A Tỳ.
Pháp sư Á La và mấy người đã chìm vào giấc ngủ, nghe thấy tiếng hoan hô cũng bước ra, ngạc nhiên phát hiện, Shangri-la vốn vẫn chìm khuất sau màn sương, giờ đã hoàn toàn hiển lộ trước mắt.
“Giống hệt! Đúng là giống hệt! ” Đường Mẫn nhảy cẫng lên reo vang. Cô nói “giống hệt” ý là chỉ cảnh tượng nhìn thấy lúc này giống hệt như trong Hương Ba La mật quang bảo giám. Từ lúc họ đặt chân lên mảnh đất này, vẫn chưa ai dám khẳng định, liệu đây có đúng là nơi họ muốn tìm kiếm hay không. Tuy rằng đã phát hiện ra dấu vết người xưa để lại, nhưng dù sao ở bên dưới cũng không thể trông thấy những cung điện huy hoàng tráng lệ ấy, cũng không thể thấy vẻ đẹp tựa tòa thành trong mây, hay thánh địa Liên Hoa. Mãi cho tới đêm nay, họ mới tin chắc rằng, mình không đi lầm đường. Nơi đây, chắc chắn chính là nơi họ kiếm tìm rồi!
Pháp sư Á La thì trầm ngâm suy tư: “Mạch núi ấy, đỉnh núi ấy, tại sao lại có cảm giác như đã thấy ở đâu rồi nhỉ? À! Phải rồi, núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, đêm hôm đó, mây mù cũng tan hết, nếu nhìn từ bên ngoài, hình dáng thực sự rất giống.” Nghĩ tới đây, ông chầm chậm nói: “Nói vậy thì, khe nứt trên đỉnh núi Tư Tất Kiệt Mạc, quả đúng là lối vào Shangri-la rồi! ”
Nhạc Dương mừng rỡ nói: “Đúng rồi! Sao tôi không phát hiện ra nhỉ! Mọi người nhìn kìa, ngọn núi đối diện ấy, chỗ đấy đấy, độ cong của đỉnh núi thứ hai bên tay trái, với ngọn bên tay phải kia nữa, đó chính là núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc đấy! Chắc chắn chính là núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc rồi! ”
Trương Lập tiếc rẻ nói: “Chà chà! Hồi ấy mà quyết tâm nhảy từ trên xuống, nói không chừng đã thành công rồi ấy chứ! ”
Đội trưởng Hồ Dương nhìn lên chỗ hõm, lắc đầu nói: “Nếu nhảy từ trên đó xuống, rất có thể sẽ rơi xuống biển, căn bản không có hy vọng rơi xuống được mé bình đài bên này.”
Lữ Cánh Nam lo lắng nói: “Nếu như, có người đặt thiết bị định vị ở bên trong Shangri-la, đồng thời có thể liên lạc được với bên ngoài, vậy thì muốn nhảy dù từ trên đỉnh xuống cũng không phải chuyện khó đâu.” Cô hết sức lo lắng, liếc nhìn Sean một cái, liền phát hiện ra pháp sư Á La cũng đang chăm chú nhìn anh ta từ phía sau.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nói: “Tôi hiểu rồi! Hai tấm bản đồ da sói ấy đều là thật! Vì vậy rất có khả năng được cắt ra từ cùng một tấm da sói! Suy đoán của các chuyên gia không hề sai, chỉ là chúng ta đã chọn sai tuyến đường, nếu như lên đỉnh từ phía bên kia...” Gã chỉ ngón tay lên đỉnh đầu nói: “Rất có khả năng sẽ tìm được con đường thông thẳng tới tầng bình đài thứ ba.” Gã bất ngờ đứng lên, chỉ tay ra phía xa, lồng ngực phập phồng, đột nhiên lảo đảo, suýt chút nữa thì ngã xuống dưới, may có Ba Tang và Trương Lập ở hai bên kịp thời chộp lại.
Khi họ phát hiện ra lối vào ở U Minh hà, thực ra mọi người đều ngấm ngầm có cảm giác, vùng đất Shangri-la ở đầu bên kia của dòng sông ngầm này, có lẽ không giống với nơi tuyệt hiểm mà Đường Thọ và Ba Tang đã từng đến qua đường đỉnh núi. Nói cách khác, e rằng nơi này chỉ có Bạc Ba La thần miếu đã biến mất trong lịch sử, chứ không có Tử kỳ lân nào cả. Song không ai nói ra điều đó, thậm chí cả Trác Mộc Cường Ba cũng không hề biểu lộ ra ngoài. Gã hiểu rõ, mọi người đã trải qua bao nhiêu khó khăn gian khổ mới phát hiện được đầu mối duy nhất ấy, chỉ cần khẳng định có sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu, vậy thì, cho dù có Tử kỳ lân hay không, bọn họ cũng không thể bỏ cuộc được nữa. Vì vậy, dọc đường tới đây, Trác Mộc Cường Ba đều cố gắng nén nhịn cảm giác hụt hẫng to lớn. Giờ đây đột nhiên phát hiện ra, nơi bọn họ đặt chân đến, vẫn có khả năng chính là nơi Đường Thọ và Ba Tang từng lui bước, Tử kỳ lân cũng rất có khả năng đang ở đâu đó quanh đây, thử hỏi gã làm sao mà không kích động, làm sao mà không mừng rỡ như muốn phát cuồng lên được?
Triệu Trang Sinh gật gù: “Thì ra nơi này vẫn thông với thế giới bên ngoài, thì ra là thế! ” Dường như anh nghĩ ra điều gì đó, cả Sean cũng vậy.
Lữ Cánh Nam nói với Ba Tang: “Lẽ nào các anh đi săn nhiều như vậy, mà không lần nào phát hiện ra hình dáng của ngọn núi đó? ”
“Không, lần nào chúng tôi cũng đều đi trong sương mù, tầm nhìn chỉ giới hạn ở mấy trăm mét xung quanh mình thôi.” Nhìn bộ dạng chau mày của Ba Tang, Lữ Cánh Nam cho rằng anh ta không nói dối.
Nhạc Dương nghi hoặc nói: “Tại sao bình thường trên đó lúc nào cũng có sương mù bao phủ thế nhỉ? Không biết những khi sương mù tan đi giống lúc này có quy luật gì chăng? ”
Nghe Nhạc Dương hỏi, mọi người cùng ngoảnh đầu hướng ánh mắt về phía pháp sư Á La. Chỉ nghe pháp sư đáp: “Trong các cuộn da không thấy ghi chép gì, hiện tượng tự nhiên được nhắc đến trong đó chỉ có một thứ được gọi là ‘rồng ngẩng đầu’, ở tầng bình đài thứ ba. Có điều dường như cũng không có thời gian cố định, tình hình cụ thể thế nào không được ghi chép rõ ràng lắm.” Giờ đây, mọi người đều đã rõ trí nhớ nhìn một lần là không quên của pháp sư Á La, ông đã nói không có, tức là không có.
Mặt trăng xuất hiện áng chừng một tiếng đồng hồ, sau đó màn sương mù dần dần tụ lại, bầu trời trở lại tối đen. Có điều, họ đã phát hiện ra dáng vẻ thực sự của Shangri-la, mỗi người đều ôm theo bầu tâm sự, hồi lâu sau mới ngủ lại được.
Hai ngày một đêm, nhóm người của Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng leo lên được vách đá dựng đứng. Trương Lập và Nhạc Dương lên đỉnh đầu tiên. Khi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn còn cách mấy mét nữa, đã nghe thấy Trương Lập hét vang: “A... A... A..., mẹ ơi mẹ ơi... mẹ ơi... mẹ ơi....”
Nhạc Dương cũng hét lớn: “Đây là cái gì... cái gì.... cái gì...”
Tiếng vọng của hai người hòa vào nhau, khiến người ta có cảm giác không gian tĩnh lặng lạ thường.
Leo lên được tầng bình đài thứ hai, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều giật mình cả kinh. Phần rìa của tầng thứ hai này không ngờ lại là một thế giới hoàn toàn khác so với tầng dưới. Nơi đây không có rừng nguyên sinh cây cối rậm rì che phủ, mà chỉ toàn gò đá nổi lô nhô khắp nơi, nhỏ thì cao mấy mét, mười mấy mét, lớn thì hơn trăm mét, liên miên nhấp nhô kéo dài, hình dạng thôi thì đủ mọi kiểu. Các loài thực vật chỉ nằm rải rác điểm xuyết giữa các gò đá. Có cây tre phủ phần đỉnh của gò đá như chiếc khăn bịt đầu, lại có cây buông rủ xuống từ hai bên như dải thắt lưng, lại có loài thực vật mọc lên thành một mảng xanh xanh giữa hai gò đá. Nhưng khiến người ta kinh ngạc nhất thì chính là bản thân những gò đá ấy, chúng không chỉ có một màu xám xịt hoặc đỏ nâu như đá ở tầng thứ nhất, mà giống một dải lụa màu chia thành tầng lớp rõ ràng, nom như tấm bảng pha màu của các họa sĩ vẽ tranh sơn dầu.
Đỏ cam vàng lam lục chàm tím đen trắng xám... họ thực sự không thể đếm được tổng cộng có bao nhiêu màu sắc tổ hợp thành thế giới đầy những mảng màu kéo dài ra ngút ngát ấy, có những dải màu rất ngay ngắn, quấn từng vòng từng vòng vạch nên các đường đồng tâm hoặc những vòng xoáy ốc; lại có dải vặn vẹo uốn éo, trùng trùng điệp điệp như con sóng ngoằn ngoèo vươn về phía trước; lại có chỗ giống như cồn cát, bị gió thổi lên từng tầng từng tầng nếp nhăn lăn tăn, cả không gian ngập tràn các màu sắc mê ảo.
Đội trưởng Hồ Dương giải thích: “Đây chính là trầm tích dung nham của đại Tân sinh. Chúng chảy từ chỗ cao hơn xuống, rồi dần nguội đi ở đây, chất chồng thành từng gò đồi nhỏ. Trong dung nham có các khoáng vật khác nhau, nên tạo thành các dải màu khác nhau rõ rệt thế này.”
“Thật... thật... kỳ lạ quá đi mất! ” Trương Lập thốt lên, bước mấy bước về phía trước, đột nhiên cả người nghiêng hẳn sang một bên, anh vội kêu: “Không ổn, không ổn! ” Càng đi về phía trước, cơ thể càng nghiêng nhiều hơn, cuối cùng thì lộn nhào một cú, lăn lống lốc vào một khoảng hõm tạo bởi mấy gò đá vây xung quanh. Nhạc Dương định tới cứu Trương Lập, nhưng cũng vừa bước được hai ba bước đã mất thăng bằng. Tuy nhiên anh phản ứng nhanh, vội vàng thụp gối xuống, hai tay chống đất, nên không bị lăn nhào như Trương Lập. Lúc này Trương Lập cũng đã đứng lên, có vẻ lấy làm khó hiểu với cú ngã vừa rồi của mình.
Đội trưởng Hồ Dương nói: “Đó là do ảo giác đấy, nguyên lý cũng giống như cậu cảm thấy choáng váng khi đi trong lòng sông băng thôi, thị lực của chúng ta có thể phân biệt được những đường thẳng và đường gấp khúc đơn giản, nhưng màu sắc phức tạp và đường cong khúc khuỷu ở đây làm nhiễu thị giác. Cậu trông thấy một đường thẳng, kỳ thực lại là một con dốc, nhưng cơ thể cậu thì vẫn tiếp tục đi như trên đường thẳng, kiểu như cậu nhìn thấy phía trước có bậc thang, nhấc chân bước lên mà lại đạp vào khoảng không ấy, thân thể đột nhiên mất thăng bằng. Mọi người hãy cố gắng đi vào phía bên trong, bằng không nếu để mất thăng bằng ngã lăn ra khỏi bình đài thì toi đấy. Đợi khi nào cơ thể mọi người dần dần thích ứng với sự sai biệt thị giác này thì mọi thứ sẽ trở lại bình thường thôi.”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn xuống dưới, chỉ thấy biển xanh liền trời biếc, rừng cây nối nước ngàn, mây bay dưới chân, nước chảy trên đá, cảnh sắc hết sức lạ thường nhưng cũng rất đẹp mắt. Gã ngẩng đầu lên, lại thấy tầng bình đài thứ ba ẩn nấp trong mây mù, chỉ có mấy dải thác như lụa buông xuống trong gió.
Theo ghi chép từ các cuộn da trong làng Công Bố, tầng bình đài này có rất nhiều di tích, đều cổ xưa đến mức không biết là do ai xây dựng, còn cả hơn trăm ngôi làng lớn nhỏ, đều đã hình thành từ trước khi người Qua Ba đến đây. Nhưng nhìn thấy cảnh ngộ của làng Công Bố, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không có nhiều ảo tưởng. Có trời mới biết ở đây đã xảy ra chuyện gì, những ngôi làng ấy có thể bảo tồn được trong thế giới đầy rẫy dã thú hoành hành này, bản thân điều đó thôi đã là một kỳ tích rồi.
“Tại sao không trực tiếp làm luôn dây treo đưa thẳng lên tầng thứ ba, còn phải băng qua tầng bình đài thứ hai này làm quái gì nhỉ? ” Nhạc Dương lẩm bẩm thu ống nhòm lại. Trên vách đá không thấy thang trời do dây leo mọc tạo thành nữa.
Trương Lập lườm anh một cái, nói: “Cậu thì biết cái gì, những chỗ có nước ngầm rỉ ra như thế không dễ tìm đâu. Nếu không lợi dụng địa thế đặc biệt phân thành từng tầng từng đoạn đó, thì không thể nào lắp đặt thiết bị đưa người lên xuống được, đầu tiên là cậu đã không thể làm được dây thừng nào dài hơn nghìn mét được rồi.”
“Hơn nữa để lộ mình giữa không trung thật quá nguy hiểm, lũ chim chóc và mãnh thú sẽ phá hoại các thiết bị, ” đội trưởng Hồ Dương bổ sung.
“Vậy từ đây chúng ta có thể leo thẳng lên tầng thứ ba luôn không? ” Nhạc Dương lại hỏi đội trưởng Hồ Dương.
Pháp sư Á La lắc đầu trả lời thay: “Không thể. Vách đá chỗ này toàn là hình nón ngược nghiêng vào bên trong, cơ hồ không tìm thấy chỗ nào để bám tay, giống như lúc chúng ta ở dưới tầng thứ nhất vậy. Bằng không, tùy tiện chọn bừa chỗ nào cũng có thể leo lên được, chúng ta hà tất phải đi vòng một vòng lớn thế làm gì.”
Nhạc Dương thở dài: “Chậc, xem ra vẫn phải băng qua cả bình nguyên này rồi, không biết còn phải đi bao nhiêu lâu nữa nhỉ.”
Lữ Cánh Nam nói: “Đừng ở đó thở ngắn than dài nữa, dò đường trước đi.”
Đầu tiên là tìm nguồn nước, cắm trại dò đường. Trong khu rừng nguyên sinh bốn bề toàn nguy cơ này, không tìm hiểu rõ tình hình xung quanh là không thể được. Họ dè dặt tiến lên mép tầng bình đài thứ hai, dọc đường cũng không phát hiện ra dấu tích nào của các loài thú dữ lớn. Sau đó, cả bọn tìm được một dòng suối nhỏ, xem ra chính là đầu nguồn của dòng suối chảy trong khe núi ở thôn Công Bố. Trác Mộc Cường Ba quyết định cắm trại nghỉ ngơi ở đây, để bọn Nhạc Dương, Trương Lập đi kiểm tra xung quanh.
Chưa đầy mười phút sau, lều trại còn chưa dựng xong, đã thấy ánh đỏ trên đồng hồ nguyên tử nhấp nháy, Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Xảy ra chuyện gì vậy? ” Nhạc Dương ở đầu bên kia nôn nóng gọi: “Cường Ba thiếu gia, anh đến đây xem đi, tôi và Trương Lập phát hiện được một số thứ.”
Đó là một vạt cây bụi mọc giữa rừng toàn những cây khổng lồ có gai, cao chừng mười mét, một tấm vải to tướng phủ lên bên trên, tấm vải đã rách bươm, nhưng vẫn có thể nhìn ra, đó là một cái dù. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta đi vào xem sao.” Trong vạt cây bụi ấy đầy gai nhọn. Thứ thực vật quái dị đó gai chĩa dài cả mét, tua tủa đâm ra giữa các thân cây như những lưỡi kiếm, muốn đi vào bên trong thực sự hết sức khó khăn. Trác Mộc Cường Ba cầm con dao pha ra sức phạt bớt gai nhọn mở đường. Lúc đến được bên dưới tấm dù, từng khúc xương trắng lù lù hiện ra trước mắt. Qua phán đoán sơ bộ cho thấy chúng thuộc về một người đàn ông.
Đội trưởng Hồ Dương ngẩng đầu nhìn lên, xuyên qua tầng tầng gai nhọn chi chít, xuyên qua những tán cây cao ngất phía trên, lờ mờ có thể trông thấy lối ra ẩn khuất sau màn sương xám xịt của Shangri-la. Tất cả mọi người đều cùng nghĩ đến một điều, xem ra người này, chắc là đã liều mình nhảy từ trên đỉnh núi tuyết xuống, anh ta may mắn không nhảy xuống biển, nhưng rồi rốt cuộc cũng vẫn phải mất mạng.
Nhạc Dương nhặt một mảnh vải rách dưới đất lên, dùng sức giật mạnh, đoạn nói: “Cũng không lâu lắm đâu, vải dù còn rất chắc.”
Đội trưởng Hồ Dương quét mắt một vòng xung quanh khu rừng, mặc dù không nhìn rõ lắm, nhưng anh vẫn nói với giọng khẳng định: “Không còn lưu lại thứ gì khác, cả bao đựng đồ cũng không.”
Sean nói: “Người nhảy dù thường không đeo ba lô quá nặng, trước tiên là bất tiện khi mở dù, thứ nữa là rất khó khống chế. Thông thường, bọn họ sẽ buộc các thứ cần thiết vào máy phát tín hiệu hoặc thiết bị gì đó tương tự như thế thả dù xuống trước, sau đó mới dựa theo vị trí của máy phát mà nhảy dù.”
Triệu Trang Sinh hờ hững nói: “Thì ra, chúng ta không phải những người duy nhất đến được đây.”
Trương Lập bổ sung thêm: “Ừm, bọn họ không chỉ có một người.” Ai cũng đều hiểu, trên đỉnh núi tuyết, chẳng ai lại ngu xuẩn đến mức một mình nhảy thẳng vào vòng tay của Tử thần như thế. Hẳn là ít nhất cũng phải là một đám người giống như họ. Giờ đây họ mới chỉ phát hiện một cái dù, nói không chừng, ở những chỗ khác cũng có nữa.
“Tìm... tìm thấy rồi...” Nhạc Dương bò toài ra đất, cẩn thận chui vào giữa một rừng gai nhọn. Khi anh chật vật chui lùi được ra, trên tay đã có thêm một tấm thẻ sắt đã gỉ sét buộc vào dây xích nhỏ. Tấm thẻ này rất giống với thẻ quân nhân của các binh sĩ ngoại quốc, bên trên khắc tên, số hiệu và thời gian. Người đàn ông tên là Walt này sinh năm 1972. Đội trưởng Hồ Dương suy nghĩ giây lát, rồi nhớ lại: “Tôi nhớ ra rồi, mấy người thuộc nhóm tay Walt này mất tích năm 1991, lúc đó tôi đang khảo sát ở đỉnh Chomolungma. Họ có hai mươi mấy người, chia làm ba nhóm, hình như là đi chinh phục đỉnh Hạ Bang Mã. Về sau có tin báo bị mất tích ba người, chúng tôi còn tham gia công tác tìm kiếm nữa, nhưng không có thu hoạch gì hết.”
Nhạc Dương nói: “Thì ra là vậy, xem ra ba vị dũng sĩ nhảy xuống này không thể phát ra tín hiệu gì nữa, vì vậy những người phía sau cũng đành phải bỏ cuộc.”
Ngoài mấy thứ đó ra, họ không phát hiện được gì thêm. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đi thôi, trở về chỗ cắm trại, kể cho mọi người chuyện xảy ra ngày hôm nay. Lúc về đến nơi, trời đã tối mịt. Sau khi kể lại mọi chuyện, mọi người bàn bạc một phen, vẫn chưa biết ở đây có sinh vật gì kỳ dị hay không. Cắm trại trên cây lúc này không an toàn bằng dựng lều dưới đất, mỗi đêm ít nhất phải có hai người trở lên canh gác, ngoài ra cách bố trí các lều trại cũng phải điều chỉnh lại, bên ngoài khu cắm trại có bổ sung thêm một số hố bẫy và cọc bắt voi đơn giản, chỉ hy vọng đừng gặp phải các loại sinh vật khổng lồ cao ba bốn tầng nhà.
Còn người nhảy dù dũng cảm kia, lại mang đến cho bọn Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều nghi vấn hơn nữa. Nếu đã có không chỉ một người nhảy dù, vậy thì những người khác chẳng lẽ đều nhảy hết xuống biển rồi? Hay là đã sinh tồn được ở vùng đất hoàn toàn cách biệt này? Nhưng ở bên ngoài không hề có bất cứ tin đồn nào về con đường thông đến Shangri-la. Mọi người thảo luận một hồi, xét thấy chỉ có ba tình huống có thể dẫn đến kết quả này: một là không có người nào sống sót trở ra, hai là những người đi ra được vẫn giữ kín như bưng về hành trình ấy, khả năng cuối cùng là vì họ nghiên cứu chưa đủ kỹ càng, nên không thể tra được nhiều đầu mối hơn. Đối với họ, hai khả năng đầu đều không phải tin tức tốt lành, nhưng vì họ không hiểu nhiều lắm về nơi này, vì vậy cũng không thể nào đưa ra được một kết luận chính xác. Cuối cùng vẫn là pháp sư Á La đưa ra, chỉ có thể đi một bước tính một bước, nếu may mắn có thể phát hiện được làng mạc và dân cư còn sót lại trên tầng bình đài thứ hai này, chắc có lẽ sẽ tìm hiểu được nhiều thông tin hơn nữa từ họ.
Đêm khuya, ở một góc nhỏ không ai để ý đến, một bàn tay đang nắm một thiết bị còn nhỏ hơn viên đạn một chút, trông như một cái đinh ốc, khẽ ấn nhè nhẹ, thiết bị sáng lóe lên một cái. Người cầm nó biết rằng, thiết bị phát tín hiệu này đã bắt đầu phát sóng vô tuyến ra bên ngoài theo quy luật nhất định. Y không do dự nữa, lập tức cẩn thận chôn thiết bị nhỏ ấy xuống, nhẹ nhàng lách đi.
Bóng người chôn thiết bị ấy vừa đi, một bóng người khác lại đến chỗ đó, đào lên, lấp lại cẩn thận, ấn một cái trên đầu, tắt thiết bị phát tín hiệu, rồi bỏ vào trong túi.
Khu vực không người ở Tây Tạng. Trong một chiếc xe tiếp nhận tín hiệu vệ tinh đã được ngụy trang, một hồi còi báo động gấp rút vang lên làm gã đàn ông cao lớn đang say ngủ giật mình tỉnh giấc, y nhìn vào màn hình ra đa, rồi vội vàng cầm điện thoại di động lên gọi.
Lahsa. Max đưa điện thoại cho Merkin. Merkin thấp giọng hỏi mấy câu, rồi một nụ cười đắc ý chợt hiện lên trên gương mặt: “Cuối cùng chúng cũng đến rồi! ” Y mở máy tính xách tay, kết nối mạng, số liệu bản đồ lập tức gửi qua.
Nhìn nụ cười của ông chủ, Max cũng thấy hưng phấn hẳn lên: “Ở đâu vậy? ”
Merkin nói: “Cách chỗ chúng ta lên đỉnh lần trước chưa đầy sáu mươi kilomet.”
“Hả! ” Max kêu lên: “Nói vậy thì chỗ lần trước chúng ta đến cũng gần chính xác rồi còn gì, thật không thể nào ngờ được. Nhưng mà, sao lại thế chứ? Ông chủ, bao nhiêu nhóm đã mất mạng ở gần đỉnh núi đó, liệu có phải nên đợi thêm một thời gian, tôi sợ bọn chúng cố ý...”
Merkin nói: “Không... mày không hiểu đâu, tấm bản đồ đó vốn là đồ thực, còn nhớ tao đã bảo mày gì không, hai tấm bản đồ ấy cùng chỉ đến một điểm đích. Chỗ đáng sợ của U Minh hà là bóng đêm vô cùng vô tận và dòng chảy ngầm cuồn cuộn, chỗ đáng sợ của núi tuyết là sương mù dày đặc trên đỉnh núi và từ trường khiến tất cả các thiết bị điện tử mất tác dụng, dù là con đường nào, cũng đều không thể dễ dàng mà đến được. Giờ đã có tọa độ, chúng ta có thể nhảy dù rồi. À, ngu xuẩn thật, có bao nhiêu đội leo núi đã lên được đỉnh, nhưng có mấy đội lên được từ đầu phía bên này đâu? Tao hiểu rồi, phía bên kia là sinh, phía bên này chính là tử, người nào bước qua cánh cửa nấy, cần phải từ bỏ hết mọi hy vọng. Chẳng trách mà xưa nay vẫn chưa có ai thành công, thì ra nguyên nhân chính là thế! ”
Y vội vàng gọi điện thoại thông báo cho Soares: “Này, Kahn, anh mau đến Tây Tạng đi. À, không, chúng ta sẽ gặp nhau ở Kathmandu. Nhớ mang theo thành quả nghiên cứu của anh nữa nhé, lần này chúng ta phải cho chúng biết mặt một phen.”
Theo sự chỉ hướng trong Hương Ba La mật quang bảo giám, hướng đi ở tầng thứ hai này trái ngược với tầng thứ nhất, là đi từ bên phải sang bên trái, khi đến gần chỗ mép bình đài mới có đường đi lên tầng trên. Nếu tỉ lệ trong đó vẽ chính xác, vậy thì thời gian cần để vượt qua tầng thứ hai này chắc sẽ gấp ba lần tầng thứ nhất.
Nhưng hành trình này không khó khăn như ở tầng thứ nhất. Nếu ở tầng bình đài thứ nhất là rừng nguyên sinh không khí ẩm thấp tăm tối, bốn bề đầy rẫy nguy cơ, thì trên tầng thứ hai này, đã bắt đầu hiển lộ những phong cảnh độc đáo. Nơi này giống một khu bảo hộ tự nhiên cấp quốc gia, vừa tràn ngập vẻ nguyên thủy, thô hào, lại ẩn chứa vẻ đẹp tinh tế, biến ảo. Không nhắc đến những màu sắc rực rỡ mê ly khiến người ta có ảo giác, chỉ riêng muôn vàn hình thái kỳ dị của đá núi thôi cũng đã đủ khiến người ta ngắm nhìn không chán mắt rồi.
Những ụ đá bệ đá gò đá cao mấy chục đến cả mấy trăm mét, sau khi được nước suối và gió ăn mòn, lại được những lớp nham thạch nóng chảy khác phủ lên, xâm thực, xuyên thấu, tầng tầng lớp lớp, hình thành nên những vẻ đẹp độc đáo tựa hồ có hàng ngàn bàn tay điêu khắc.
Cũng hệt như lần đầu tiên họ thấy thôn Công Bố, đá núi ở đây cũng khiến bọn Trác Mộc Cường Ba không biết phải hình dung thế nào, chỉ cảm thấy khung cảnh toát lên một vẻ ngông cuồng hoang dã, không chịu bất cứ ước thúc hay phong cách nào.
Nhìn từ xa, có chỗ trông như cánh tay người đàn ông gân guốc, cơ bắp cuồn cuộn phá đất vươn lên đến tận mây xanh; lại có chỗ giống như tảng đá Aye 1, độc bá một phương, khí thế át hết mọi vật xung quanh; có nơi lại nối liền như bướu lạc đà, hoặc uốn lượn như lưng động vật, lại còn cả chỗ ngoằn ngoèo kéo dài bất tận, tựa như dải Vạn lý Trường thành sừng sững giữa chốn núi non, khí thế ngất trời. Thêm vào đó, khung cảnh lại được điểm xuyết bởi cây cối xanh tươi mát mắt, hoặc trong những vách đá cao ngất thẳng đứng bỗng như có người khổng lồ dùng búa chẻ đôi ngọn núi, một dòng thác trắng xóa đổ xuống; hoặc giữa những đỉnh núi nhọn hoắt có những áng mây nô đùa đuổi bắt, biến ảo không ngừng; cũng có nơi mây mù bị vây giữa các đỉnh núi, cuồn cuộn trào cả ra, tựa như làn khói đặc quánh quây quanh thác nước. Lại còn có vô số hồ nước, cả lớn cả nhỏ, có hồ tròn vạnh như hạt trân châu, lại có hồ hình vầng trăng khuyết, nằm rải rác khắp cả vùng núi non trùng trùng điệp điệp, màu sắc rực rỡ chẳng khác nào phường nhuộm vải ở miền sông nước Giang Nam, sắc vàng như chanh, sắc cam như quýt, bên ngoài nhuộm thêm một vòng xanh ngọc bích; nếu không thì đỏ rực như ráng chiều, xanh ngắt như biển khơi, rồi phủ lên một lớp màu ngân bạch. Dù là đội trưởng Hồ Dương đã đi nhiều biết nhiều, hay pháp sư Á La học vấn thâm sâu, hoặc Trác Mộc Cường Ba đã đi khắp các miền Nam Bắc cũng đều chưa từng thấy qua cảnh tượng nào như thế, chưa từng thấy hồ nào như ở đây, chưa từng thấy màu sắc nào như ở đây. Cổ nhân có câu: “Sông là dải lưng xanh, núi là trâm bích ngọc”, thực không sai chút nào. Khi nhìn lại, những núi những non ấy, đã bị mây mù vẩn vít quấn quanh, thời ẩn thời hiện, thoắt cái đã hóa thành lầu vàng gác ngọc, khiến người ta chỉ muốn thả hồn theo gió. Đến gần hơn, cảnh tượng lại càng khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Bề ngoài những khối nham thạch ấy tựa như dòng thác bị đóng băng, còn các dải màu uốn lượn chẳng khác nào cầu vồng, hai yếu tố kết hợp với nhau một cách hoàn mỹ tạo thành một thể thống nhất, khiến người ta có ảo giác như thể cầu vồng rơi xuống cùng dòng thác cuồn cuộn chảy.
Đi giữa rừng đá rực rỡ ấy, những tảng đá trụ đá hình dạng quái dị càng lúc càng nhiều, trụ thì giống như cây xương bồ chín khúc, vươn lên cao mãi; trụ lại giống suối phun nước ba tầng. Có lúc, bọn Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy như mình đang đi giữa một rừng binh khí của vương quốc người khổng lồ, đao, thương, kiếm, côn, xếp la liệt trước mắt, nhìn ngang lại thấy nào kích, nào cung, gần xa cao thấp đều không giống nhau; lại có lúc như lạc vào vương quốc tiền sử, các loài động vật quái dị to lớn nhăm nhe muốn bổ tới, muốn nhảy lên, muốn bỏ chạy, tựa hồ trong một chớp mắt đều đã bị phép thuật nào đó biến thành đá núi ở đây; đi tiếp về phía trước nữa, lại có những dải đá giống Bồ tát, giống con thuyền đi biển, giống voi chiến, giống sư tử đại bàng, nhưng nếu đổi góc nhìn khác, lại ra một hình dáng hoàn toàn khác trước, khiến người ta tưởng tượng ra muôn vàn thứ, mà lại chẳng thể nào hình dung chính xác được.
Có khi phía trước đột ngột xuất hiện một tảng đá lớn chắn đường, thoạt nhìn trông tưởng không thể trèo qua, lúc đến gần lại chợt thấy ở giữa có khe nứt, một con đường ruột dê ngoằn ngoèo vươn ra phía trước rồi biến mất ở đằng xa như một kỳ tích. Cũng có lúc dưới đất đột nhiên mọc lên mấy trụ đá nhọn hoắt, cao ngất chọc tận mây trời, phía trên mấy trụ đá ấy kẹt cứng một tảng thiên thạch thể tích lớn hơn chúng gấp mấy lần, nhìn đung đưa như trứng để đầu đẳng, vậy mà họ vẫn phải đi qua bên dưới tảng thiên thạch đó, mất mấy tiếng đồng hồ. Cũng có nhiều khi, họ phải vòng qua vòng lại trong các hang động như mê cung. Trong hang động đá núi lửa có một loại địa hình hết sức đặc biệt, nhìn thì tưởng bằng phẳng trơn bóng, nhưng thực chất lại có những lỗ nhỏ dạng tổ ong. Khi có nước suối chảy qua, thứ nham thạch như miếng bọt biển này hút đầy nước, người nào bất cẩn giẫm lên đó sẽ chẳng khác nào giẫm phải bẫy, vách đá xung quanh sẽ như thằng bé nghịch ngợm tè ra một dòng nước suối trong mát phun lên người kẻ không may. Mỗi lần như thế, những người khác đều cười ồ lên sảng khoái.
Họ cứ vừa cười vừa nhanh nhẹn tiến lên phía trước, dọc đường chông gai, song ai nấy hưng phấn lạ kỳ, cảnh sắc tươi đẹp cùng không khí trong lành của nơi đây đủ để xua tan mọi mệt mỏi. Phía trước không có đường, thì tìm một con đường khác, gặp núi thì vượt núi, gặp rừng thì băng rừng, thiên nhiên vĩ đại cũng không chút tiếc rẻ mà đem hết thảy mọi quang cảnh kỳ dị nhất của thế gian phơi bày ra trước mặt họ, khiến họ không ngớt trầm trồ thán phục trước núi non, cây cối, mây trời của nơi đây...
Còn về các loài sinh vật, sau khi quan sát hình thái các loài sinh vật dọc đường đi, họ phát hiện hình thể của các loài động vật họ côn trùng có xu thế thu nhỏ lại nhanh chóng. Sean giải thích, đây là một quá trình tiến hóa, thể hình của các loài côn trùng có xương ngoài tăng đến một kích cỡ nhất định sẽ ngừng lại; trong khi đó các loài sinh vật xương trong mới xuất hiện lại có thể trở nên to lớn hơn nữa. Lúc này, côn trùng đã từ kẻ đi săn trở thành con mồi, mà con nào nhỏ hơn thì dễ lẩn trốn hơn, có cơ hội sống sót cao hơn... tất cả đều chỉ vì sinh tồn!
Điều làm họ cảm thấy may mắn nhất là, loài quái thú cao ba tầng lầu mà họ luôn lo lắng từ đầu, đến nay vẫn chưa xuất hiện lần nào!
Ngày thứ mười ở tầng bình đài thứ hai, họ không thể không rời khỏi vùng ven để đi sâu vào bên trong. Vì địa hình nơi này hơi giống chiếc xe goòng, bên ngoài cao bên trong thấp, phần mép bên ngoài chỉ còn lại những đồi đá trơ trọi. Mà lúc này, họ đã ba ngày không phát hiện được dòng suối nào, nước dự trữ cũng sắp hết đến nơi.
Từ vùng ven đi vào bên trong chừng gần chục cây số, cuối cùng phát hiện một vùng hồ có thể lấy nước, liên tiếp chín cái liền. Kích cỡ và hình dáng của chín cái hồ này giống nhau đến kinh người, hệt như một hàng dấu chân của người khổng lồ để lại trên bề mặt nham thạch. Nơi đây là một vùng đất trũng, xung quanh có vô số dòng chảy ngầm đổ dồn về, diện tích mỗi cái hồ áng chừng khoảng bốn năm chục cây số vuông, nối liền thành một chuỗi ngay ngắn. Bên bờ hồ rải rác những khu rừng đá thưa thớt, các trụ đá cái cao cái thấp, nhưng bề ngoài rất giống nhau, na ná một loại nấm ăn có tên là nấm đùi gà. Kỳ thực, người đầu tiên phát hiện ra rừng đá này nghĩ rằng, những trụ đá ấy rất giống với sinh thực khí của đàn ông, chỉ có điều không dám nói ra mà thôi.
Lúc này, bọn họ đã bắt đầu xuất hiện những bất đồng về phương hướng của cả nhóm. Sean cho rằng, vùng xung quanh không thấy có nguồn nước nào rõ rệt, dải đất bên rìa thạch lâm chỉ mọc toàn những cây cao to rậm rạp, nơi đây có khả năng là nơi tụ tập của quái thú, sau khi lấy đủ nước, cần lập tức rời đi. Nhưng hầu hết mọi người còn lại đều cho rằng, bây giờ trời đã muộn, dù có rời đi cũng không thể trở về khu vực mép bình đài, rồi cũng vẫn phải ở lại trong rừng sâu, so với đụng độ quái thú trong rừng sâu, thì chi bằng cứ ở lại bên hồ nước, ít nhất thì ngày mai cũng có thể mang theo được nhiều nước hơn. Mà kết quả quan sát khu vực rìa xung quanh hồ nước cho thấy, không phát hiện ra dấu chân hay xương cốt của loài động vật khổng lồ nào, thậm chí còn chẳng phát hiện ra dấu vết hoạt động của loài sinh vật nào cả, trong hồ cũng hết sức bình lặng. Lữ Cánh Nam phán đoán sơ bộ, nơi này không có quái thú qua lại, ít nhất là mấy ngày gần đây chưa từng xuất hiện, và khả năng có sinh vật sống theo đàn lớn ở khu vực quanh đó cũng rất thấp.
Về vấn đề này, Nhạc Dương đã đưa ra mấy suy luận: thứ nhất, hồ nước này chỉ hình thành trong thời gian ngắn, chẳng hạn ở tầng thứ ba hoặc tầng thứ hai này đổ mưa lớn, những dòng chảy ngầm sẽ dồn vào các chỗ trũng thấp rồi hình thành nên một hồ nước thế này, khi mưa ngừng lại, hồ nước sẽ lại nhanh chóng biến mất; thứ hai, các dòng chảy ngầm tụ lại thành hồ này lộ ra trên mặt đất ở nơi nào đó khác, những chỗ đó tiện lấy nước hơn, vì vậy các sinh vật quanh vùng cũng tự nhiên chẳng đến đây tụ tập làm gì, mà chỉ thỉnh thoảng mới ghé qua; thứ ba, xung quanh đây có một kẻ săn mồi siêu cấp cực kỳ đáng sợ, nơi này đã trở thành hồ nước riêng của chúng, các loài sinh vật khác đương nhiên cũng không dám lại gần, còn việc không để lại dấu tích thì bởi bùn dưới đất rất mềm, dù là có dấu chân hay vết tích gì cũng sẽ biến mất rất nhanh, mà sau khi chết thì xương cốt cũng chìm hết xuống dưới bùn thôi.
Nếu suy luận của Nhạc Dương chính xác, thì bên bờ hồ này chẳng những không nguy hiểm, mà ngược lại còn là một nơi tương đối an toàn. Nói theo cách của Trương Lập là, dù có kẻ săn mồi siêu cấp đáng sợ ấy tồn tại đi chăng nữa, thì chỉ cần bố trí mấy cái bẫy đơn giản để phát hiện và cảnh báo là cũng đủ rồi. Các loài vũ khí uy lực lớn của họ, chính là chuẩn bị để đối phó với những kẻ săn mồi đáng sợ như thế kia mà.
Chỉ có Ba Tang ủng hộ quan điểm của Sean. Lý do của anh ta rất đơn giản, hồ nước này quá yên tĩnh, yên tĩnh đến bất bình thường, yên tĩnh đến mức có gì đó kỳ dị. Nếu không phải vạn bất đắc dĩ, anh ta quyết không muốn cắm trại ở đây một chút nào.
Muốn đưa ra phán đoán giữa cảm tính và lý tính là tương đối khó khăn, không ai nghi ngờ lý luận của Sean và trực giác của Ba Tang, có điều, cũng không ai phản bác lại quan điểm của Nhạc Dương và Lữ Cánh Nam. Chủ yếu nhất là, đối với những người liên tiếp nhiều ngày thiếu nước, cái hồ trước mắt có thể nói là một thứ dụ hoặc, những người có thể kháng cự lại sự hấp dẫn của nó thực sự rất ít. Trương Lập thấy mọi người cứ do dự không quyết, bèn đưa ra một hệ thống phòng ngự và cạm bẫy hoàn thiện hơn nữa. Anh sẽ đào một cái hào cách ly xung quanh khu trại, bên cạnh hồ nước, đường kính ít nhất năm mét trở lên, trong hào bỏ các loại gỗ dễ cháy, đằng nào thì ở đây nhiều nhất chính là gỗ, rồi tẩm dầu vào. Nếu gặp tình huống khẩn cấp, chỉ cần đốt lửa là sẽ hình thành một vách chắn hết sức hiệu quả.
Nghe Trương Lập nói xong, đội trưởng Hồ Dương cũng gia nhập vào hàng ngũ những người ủng hộ hạ trại, Triệu Trang Sinh tất nhiên là theo sát Nhạc Dương, còn đối với Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, hồ nước còn một điểm lợi rất quan trọng khác... chính là có thể tắm rửa. Tuy họ đã quen với việc bôn ba gió bụi, cả ngày làm bạn với đầm lầy bùn đất, nhưng thiên tính của phụ nữ vốn là vậy, nếu có thể tắm mà phải bỏ lỡ cơ hội thì họ còn khó chịu hơn cả bị giết chứ chẳng nghi. Cảm giác quần áo thấm đẫm mồ hôi dính chặt vào người như một cái khăn bông dính đầy nhựa cao su, vừa lành lạnh vừa trơn trơn ấy, họ còn thấy sợ hơn cả gặp phải quái thú khổng lồ, đặc biệt là khi ở bên cạnh Cường Ba thiếu gia, cảm giác ấy lại càng chết người hơn nữa. Trong hai phe, Ba Tang và Sean rõ ràng rơi vào thế yếu, thậm chí họ còn chẳng có cả tư cách để thảo luận, cục thế rõ ràng là nghiêng hẳn về một phía. Người duy nhất không có ý kiến là pháp sư Á La, một Mật tu giả. Đối với ông, thích ứng với mọi hoàn cảnh để sinh tồn vốn là điều cơ bản nhất. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba quyết định sẽ hạ trại lại đây, đồng thời đề nghị mấy người bọn Nhạc Dương đi kiểm tra xung quanh. Trương Lập bận sắp xếp các cạm bẫy, Nhạc Dương bèn gọi Triệu Trang Sinh cùng mình đi ra xung quanh xem xét.
Có điều, lần này Nhạc Dương không kiểm tra trong vòng bán kính một trăm mét xung quanh khu trại như thường lệ. Anh dẫn Triệu Trang Sinh đi xa dần, hơn nữa hình như còn không hề chú ý đến những cây to nghiêng ngả và các bụi cây bị đè dẹp xuống, tâm tư cơ hồ đã để ở một nơi khác.
Trong rừng u ám, lạnh lẽo, gió luồn lách khắp mọi nơi khiến cây cối run rẩy phát ra những âm thanh xào xạc, khiến người ta bất giác đưa tay lên khép cổ áo. Mặt đất phủ đầy rễ cây và dây leo, ngoài ra chỉ có các vũng nước đọng, Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh người trước kẻ sau giẫm lên đất bùn ẩm ướt, tiếng bước chân lộn xộn vang lên trong khu rừng u tĩnh, gấp gáp mà dường như vẫn có chút kìm nén.
Triệu Trang Sinh vẫn chưa nhận ra vẻ dị thường của Nhạc Dương, vẫn tấp tểnh bước theo phía sau, không ngừng hỏi han: “Này, Nhạc Dương, hình như chúng ta đi xa khu trại quá rồi thì phải.”
“Không xa, tôi đang đo đạc một chút.”
“Có phải cậu phát hiện được gì rồi không? Sao cứ đi thẳng mãi thế? Đi nữa là đến bên dưới tầng bình đài thứ ba, đó là khu bị khuất bóng, liệu có quá nguy hiểm không? ”
“Biết rồi, cứ đi đi.”
“Nhạc Dương, cậu xem kìa, mấy cái cây kia sao nghiêng hết cả đi thế kia nhỉ? Rễ cây cũng bật cả lên nữa. Lạ thật, cây to thế kia mà, lẽ nào bị gió thổi bật cả lên? ”
“Chỗ này sao mà gập gà gập ghềnh thế, chỗ nào cũng đầy các vũng nước nhỏ, chẳng may mà trượt ngã thì tôi hết quần áo thay rồi đấy. Nhạc Dương, cậu còn đồ thay không? ”
“Hết rồi.”
“Được chưa thế, chúng ta đi xa thế này rồi cũng có phát hiện con vật lớn nào đâu, có phải nên đi vòng về khu trại rồi không? Hôm nay cậu làm sao thế? Cứ đi mãi về một hướng, cũng chẳng bảo tôi là phát hiện được gì rồi.”
Nhạc Dương dừng lại, đột nhiên xoay người đối diện với Triệu Trang Sinh. Triệu Trang Sinh nhìn chằm chằm xuống đất, thốt lên: “Nhạc Dương, cậu xem, cái vũng nước này trông kỳ lạ thật, sao mà giống dấu chân thế nhỉ? ” Anh ta lấy tay đo thử độ dài của vũng nước ấy, lại nói tiếp: “Chậc, nếu là dấu chân, thì con này cũng to lắm đấy, chắc chúng ta không gặp phải quái thú cao ba tầng nhà gì đó đâu nhỉ... Khục khục, may mà tôi không có cái miệng chim lợn như Trương Lập.”
Nhạc Dương ngần ngừ giây lát, cuối cùng cũng chầm chậm cất tiếng: “Còm à, tôi...”
Triệu Trang Sinh đột nhiên kêu lên: “Có động tĩnh! ”
Có tiếng lạo xạo vang lên, Nhạc Dương ngoảnh đầu nhìn, liền thấy một con vật nhỏ trông như con thằn lằn đứng trên hai chân chạy vụt ra bên dưới bụi cây, đang tròn mắt cảnh giác nhìn hai kẻ không mời mà tới khổng lồ. Triệu Trang Sinh nhanh chân đuổi lên mấy bước, cười cười: “Thằn lằn! Không phải chứ? Con này còn bé hơn con tắc kè hoa mà thầy giáo tôi ở Đức nuôi nữa, chẳng lẽ đó chính là tổ tiên của nhân loại trong truyền thuyết? He he, xem ra phải bắt về cho anh Sean giám định rồi.”
Con thằn lằn nhỏ ấy dường như cảm nhận được nguy hiểm, vội chui tọt trở vào bụi cây. Nhạc Dương thấy không có gì nguy hiểm nữa, liền nhìn chằm chằm vào Triệu Trang Sinh hỏi: “Còm à, tôi hỏi cậu, mấy đêm nay cậu đã làm gì vậy? ”
“Gì hả? Cái gì mà làm gì? Thì ngoài canh đêm ra, chỉ có ngủ thôi thứ còn làm gì nữa.” Triệu Trang Sinh không dám nhìn thẳng vào mắt Nhạc Dương, mệt mỏi nghiêng người dựa vào một tảng đá hình dạng kỳ dị.
Nhạc Dương không nói gì, chỉ lấy trong túi ra một nắm những thiết bị phát tín hiệu trông như viên đạn, thả từng cái từng cái xuống đất, cuối cùng để lại một cái trên lòng bàn tay, xòe ra về phía Triệu Trang Sinh: “Từ buổi tối hôm nhìn thấy khe hở trên đỉnh Shangri-la ở vách đá lớn, mỗi đêm cậu đều tìm cách đặt một cái thiết bị phát tín hiệu này, cho đến hôm nay tổng cộng đã có mười một cái, tất cả đều ở đây. Có thể cho tôi biết, tại vì sao không? ” Giọng nói bình tĩnh của anh đã hơi run lên, ánh mắt Nhạc Dương nhìn Triệu Trang Sinh dần dần trở nên sắc bén.
Triệu Trang Sinh không trả lời, anh ta chỉ lạnh lùng hỏi ngược lại: “Cậu giám sát tôi à? ”
Nhạc Dương nói: “Đúng vậy, trong phạm vi có thể, chú ý quan sát từng người đồng hành, đây chính là nhiệm vụ giáo quan giao cho tôi. Chỉ là tôi không thể ngờ, thực sự không thể ngờ, đến cả cậu cũng...”
Triệu Trang Sinh không che giấu nữa, chỉ bướng bỉnh ngẩng cao đầu nói: “Đúng vậy, chính là tôi, cậu định làm gì? Giết tôi à? ”
Nhạc Dương buồn bã chau mày: “Còm, cậu làm việc cho tổ chức nào? ”
Triệu Trang Sinh cười cười: “Cậu có phải ngày đầu tiên làm lính trinh sát đâu, sao lại hỏi câu ngu xuẩn như thế. Hừ, chúng ta vào sinh ra tử để làm gì? Giáo quan giao cho cậu nhiệm vụ ấy, chắc chắn cậu không thể nghi ngờ mình tôi phải không. Chắc là cậu cũng biết, trong những người sống sót ra khỏi U Minh hà, thử hỏi có mấy người không có mục đích của mình chứ? Đừng có mà bảo với tôi là cậu lại cao thượng đến mức quên sống quên chết vì một người hoàn toàn không liên quan gì đấy nhé! Cậu dám nói là cậu không có mục đích không? Chẳng qua chỉ là ông chủ đứng sau lưng mỗi người khác nhau mà thôi. Hôm nay cậu đã vạch trần sự việc ra rồi, vậy thì tốt, chúng ta cứ thẳng thừng luôn đi. Nếu người sau lưng tôi đến đây, tôi cũng sẽ cho cậu được chút lợi ích, thấy sao hả? ”
Nhạc Dương thấy trái tim mình nguội lạnh, tiếc nuối lắc đầu: “Tôi từng nghĩ rằng, chúng ta sẽ là những người bạn thân thiết nhất, cậu cũng không phải là người có thể bán đứng bạn bè vì lợi ích, sao cậu lại trở thành như thế? Ở Đức, rốt cuộc cậu đã học những gì? ” Anh như thể đang nhìn một người hoàn toàn xa lạ.
Triệu Trang Sinh cười khổ nói: “Lẽ nào cậu không phát hiện ra? Con người bao giờ chẳng sống vì một số lợi ích nào đó, đây chính là chân lý của cuộc đời. Mỗi người đều có giá của mình, đó chính là giá trị của cuộc sống, cậu cũng không thể nào thoát ra khỏi cái vòng đó. Tôi làm việc mình cần phải làm vì một cái giá thích hợp, phải lấy mạng ra đổi đấy. Cậu biết mà, thực ra tôi không hề muốn đối đầu chính diện với cậu một chút nào, nếu cậu thực sự đã quên tình bạn từng có giữa chúng ta...” Khẩu súng trong tay anh ta lặng lẽ từ từ giơ lên.
“Đừng ngu ngốc nữa! ” Nhạc Dương cũng giơ súng lên, chỉ có điều, anh có chính khí lẫm liệt, tốc độ rút súng cũng nhanh hơn Triệu Trang Sinh nhiều. Nhạc Dương một tay cầm súng, một tay nắm cái máy phát tín hiệu đó, nói với Triệu Trang Sinh: “Sử dụng các dòng hạt năng lượng cao sinh ra mạch xung biến tần, phát đi tín hiệu sóng điện theo từng khoảng thời gian nhất định, rồi vệ tinh đồng bộ tiếp nhận, lại truyền đi qua các trạm trung chuyển trên mặt đất. Phương pháp tiên tiến lắm, nhưng vô dụng thôi! Dù tôi không phát hiện ra, dù tôi để chúng lại chỗ đó, người ở sau lưng cậu cũng không nhận được tín hiệu gì hết. Cậu chưa trèo lên đỉnh núi tuyết đó, nên cũng không biết ở đó có từ trường rất kỳ quái, tất cả mọi tín hiệu sóng điện từ đều bị hút hết. Tín hiệu của cậu cũng không thể nào phát đi được! Cậu đừng ảo tưởng nữa, tôi đảm bảo với cậu, người của cậu tuyệt đối không thể xuất hiện ở nơi này đâu! ” Nhạc Dương ném mạnh cái máy phát tín hiệu cầm trong tay vào mặt Triệu Trang Sinh, sắc mặt Triệu Trang Sinh biến hẳn đi.
Ngữ khí Nhạc Dương trở nên mềm mỏng hơn: “Đừng như vậy nữa được không. Chắc cậu cũng biết, tôi không bao giờ ngờ được rằng sẽ có một ngày chúng ta cầm súng chĩa vào nhau thế này, cũng chưa từng nghĩ sẽ tổn thương đến cậu. Hôm nay tôi dẫn cậu đi xa như vậy, chính là không muốn để những người khác biết. Trở về đội ngũ, tiếp tục tiến lên phía trước với mọi người đi. Ở vùng rừng nguyên sinh này, sức của chúng ta là cực kỳ nhỏ bé, mỗi ngày đều phải tranh đấu với mọi thứ xung quanh để sinh tồn, hà tất phải tranh đấu với nhau nữa? Tôi có thể không nói chuyện hôm nay với bất cứ người nào khác, chỉ cần cậu đừng làm những chuyện tổn thương đến mọi người nữa. Cậu hỏi tôi gia nhập đội ngũ này với mục đích gì, vậy thì tôi có thể nói cho cậu biết. Mới ban đầu, đó chỉ là nhiệm vụ của tôi, nhưng bây giờ, đó đã trở thành sứ mệnh. Trong suốt quá trình ấy, mạng của tôi, đã được Cường Ba thiếu gia và những đồng đội khác liều chết cứu về tổng cộng bốn lần, ít nhất có bốn lần tôi đã chết chắc, thế nhưng tôi vẫn sống, đây chính là nguyên nhân tại sao tôi lại ở đây.”
Triệu Trang Sinh như thể đã hiểu ra: “Để báo ân? ”
Nhạc Dương nói với giọng khinh thường: “Cậu lại sai rồi. Thực ra, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ báo ân gì cả, chỉ là khi ở cùng với mọi người, tôi cảm thấy rất vui vẻ, rất đủ đầy, chỉ đơn giản vậy thôi. Vận mệnh của mọi người đã trói chặt lại với nhau, chúng tôi có thể vừa cười đùa vừa đối mặt với mọi thiên tai nhân họa và tất cả kẻ địch mạnh nhất, dù cho gặp phải bao nhiêu khó khăn, khi ở bên mọi người, cậu sẽ không thấy sợ hãi nữa. Chẳng những vậy, chặng đường này, sẽ là ký ức cả đời không thể nào quên được, đặc biệt là khi cậu cống hiến một phần sức lực, dù chỉ là rất nhỏ nhoi thôi, cậu cũng sẽ hiểu rõ được giá trị tồn tại của mình hơn bất cứ lúc nào. Cảm giác ấy, sợ rằng cậu chưa bao giờ có rồi. Vì vậy, tôi hy vọng, cậu có thể gia nhập với chúng tôi. Ở vùng đất này, cho đến hiện giờ, chúng ta là những con người duy nhất còn sống sót, sao chúng ta không thể buông bỏ tất cả mọi thành kiến mà đoàn kết lại chứ? ”
Triệu Trang Sinh cúi đầu không nói gì, nhưng khẩu súng trên tay đã từ từ hạ xuống. Nhạc Dương cũng hạ nòng súng xuống. Nhưng trong chớp mắt, Triệu Trang Sinh lại giơ súng lên. Lần này, anh ta nhanh hơn Nhạc Dương. “Nghe cũng có có lý lắm đấy, lại cảm động nữa, nhưng như cậu nói đấy, tôi không có cảm giác đồng sinh cộng tử giống cậu và bọn họ. Nếu cậu không nói chuyện này ra, nói không chừng chúng ta còn có thể chung sống hòa bình; nhưng cậu đã vạch trần tôi rồi, vì vậy...” ngón tay đặt trên cò súng của Triệu Trang Sinh nhất thời cũng không thể nào bóp lại, chỉ thấy Nhạc Dương đứng đối diện với anh ta đang trợn tròn mắt, nhìn chằm chằm vào mình như không thể tin được, không ngờ lại cũng giương súng lên, cậu ta thật sự muốn chết hay sao!
Tiếng súng cùng lúc vang lên, Triệu Trang Sinh bắn trúng cánh tay cầm súng của Nhạc Dương, nhưng Nhạc Dương lại bắn vào chỗ khác. Anh ta ngây người, Nhạc Dương không bắn mình, vậy cậu ta bắn gì? Chỉ nghe Nhạc Dương lớn tiếng hét lên: “Mau chạy đi! ”
Triệu Trang Sinh vẫn còn chưa hiểu ra, chỉ cảm thấy một luồng sức mạnh khổng lồ từ chỗ eo hông truyền lại, tựa hồ nghe thấy tiếng xương cốt vỡ nát, thân thể bỗng nhẹ bẫng, sao mình rời khỏi mặt đất thế này, màu đen ấy, có phải là máu không? Máu sao đỏ đến mức hóa đen thẫm thế kia?
Còn Nhạc Dương lại nhìn thấy, tảng nham thạch kỳ quái sau lưng Triệu Trang Sinh bỗng nhúc nhích, lẳng lặng không một tiếng động, mở cặp mắt to như chuông đồng. Anh vừa cất tiếng cảnh báo, con vật khổng lồ đã há miệng đớp một cái, nghiến Triệu Trang Sinh vào trong, máu tươi bắn tung tóe khắp mặt đất. Phát súng của Nhạc Dương bắn trúng một bên má con quái vật, khiến nó đau đớn hất văng Triệu Trang Sinh, đồng thời đứng bật hẳn dậy. Sắc trời lập tức tối sầm, thân hình nó thật đáng sợ, không ngờ còn cao hơn cả những bụi cây cao mười mấy mét kia. Tảng đá lớn mà Triệu Trang Sinh dựa vào, hóa ra lại chính là cái đầu của con quái khổng lồ này! Nhạc Dương giật mình chấn động, trong đầu chỉ vang lên một giọng nói: “Quái thú cao ba tầng nhà! Quái thú cao ba tầng nhà...”
Thể hình cao lớn cùng hàm răng dài sắc nhọn như những lưỡi mã tấu lập tức khiến Nhạc Dương liên tưởng đến kẻ săn mồi khủng khiếp nhất kỷ Jura, khủng long bạo chúa! Tuy con vật trước mắt không giống trên phim lắm, nhưng chắc chắn không sai, chúng đều là những kẻ săn mồi đáng sợ nhất. Nhìn bề ngoài, nó giống một con cá sấu khổng lồ biết đi đứng trên hai chân. Bị con quái vật đi đứng như người lại mọc một cái đầu dài như cá sấu ấy nhìn chằm chằm, tự sâu trong đáy lòng Nhạc Dương bất chợt dâng tràn cảm giác sợ hãi của một con mồi. Nhưng lúc này anh không thể né tránh nữa. Anh liếc mắt nhìn theo hướng Triệu Trang Sinh bị hất văng lên rơi xuống, nghiến chặt răng, vừa nổ súng vừa dùng thiết bị liên lạc trên đồng hồ nguyên tử cầu cứu. Đồng hồ nguyên tử không có hồi âm, Nhạc Dương giờ mới sực nhớ ra, anh và Triệu Trang Sinh đã đi quá xa. Đạn nã vào con cá sấu hình người làm bắn tóe ra lên một thứ huyết tương màu xanh, nhưng chỉ khiến nó càng thêm nổi trận lôi đình, căn bản không thể gây ra những vết thương chí mạng. Con vật khổng lồ gầm lên, khiến người ta run rẩy, rồi nó cúi đầu làm mặt đất rung bần bật. Nhạc Dương sợ hãi ngây ra mất mấy giây, đến khoảnh khắc sinh tử mới lách được người né theo bản năng. Con quái vật không thu thế kịp, đâm thẳng vào một thân cây lớn. “Ầm” một tiếng, gốc cây khổng lồ đã bị con quái vật khỏe vâm đó húc bật, nghiêng sang một bên. Con quái lại ngẩng đầu gầm lớn, thân hình đung đưa, tách hai thân cây lớn ra, lao về phía Nhạc Dương.
Nhạc Dương cầm súng nấp sau một thân cây đường kính mấy mét, bàn tay đã hơi run rẩy, không ngừng tự nhắc nhở chính mình: “Bình tĩnh đi nào, Nhạc Dương, mày phải bình tĩnh. Con quái ấy ngoài được cái to xác ra thì chẳng có gì đáng sợ cả, không có gì đáng sợ cả... Mày nhất định phải nghĩ cách báo cho Cường Ba thiếu gia, nhất định có cách... Phải rồi! Lựu đạn khói! ”
Mặt đất chấn động, con quái vật khổng lồ đã hất thân cây Nhạc Dương ẩn nấp sang một bên. Nhạc Dương phơi ra lồ lộ giữa một khoảng đất trống, chỉ còn biết cầu khẩn lựu đạn khói sẽ có hiệu quả nữa mà thôi. Con cá sấu khổng lồ giận đùng đùng nhìn con vật hai chân đã gây đau đớn cho thân thể nó, nhất định phải bắt nó bỏ vào miệng nghiền nát ra mới hả được cơn giận này. Đột nhiên, con côn trùng nhỏ ấy phóng ra những tia sáng chói lóa, rồi một hóa làm hai, luồng sáng ấy phát ra những âm thanh khó chịu bay về một phía! Kẻ săn mồi đã bị chọc giận hết cỡ! Nó gầm lên đuổi về phía đó.
Lồng ngực Nhạc Dương vẫn không ngừng nhấp nhô lên xuống, anh không dám do dự thêm dù chỉ một giây, vừa nãy tay hơi run run, ném quả lựu đạn đi không được xa lắm. Trước khi con vật giống khủng long bạo chúa ấy quay đầu lại, cần phải thông báo với bọn Cường Ba thiếu gia, bằng không cả mình lẫn Triệu Trang Sinh đều không thể thoát khỏi. Anh rút ra một cây gậy ngắn, bẻ đôi ra, một luồng khói tím cuồn cuộn dâng lên. Nhạc Dương ném cây gậy tỏa khói sang hướng khác, còn mình thì lợi dụng sự yểm hộ của các thân cây bò về phía Triệu Trang Sinh.
Trong trại, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang mới lắp xong đài quan sát. Họ vừa từ trên một thân cây lớn trèo xuống, bỗng nghe thấy tiếng gầm váng động cả không gian từ trong rừng dội ra, mặt đất rung lên, kế đó lại có hai tiếng khác nữa, mọi người trong trại đều ngừng tay, đưa mắt nhìn về phía âm thanh ấy.
Trương Lập và Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh hàng cột bắt voi vẫn chưa chôn xong, chỉ thấy pháp sư Á La lướt tới, nói: “Sinh vật khổng lồ, lấy vũ khí, chúng ta đi! ”
“Sinh vật khổng lồ? ” Sắc mặt Trương Lập lộ vẻ nghi hoặc, âm thanh nghe có vẻ đáng sợ thật, nhưng âm thanh lớn chưa chắc gì thể hình đã lớn. Lữ Cánh Nam dường như biết được Trương Lập đang ngờ vực điều gì, liền dừng tay, cầm khẩu AK47 nhanh chóng chạ