Chương 9 Vượt Ngục
Trại giam phố Bow dọn bữa sáng cho các tù nhân vào lúc sáu giờ sáng. Đúng vào thời điểm đó, hai ngày sau, trước khi ánh sáng ban ngày kịp soi sáng phố phường, Irene Doyle xuất hiện tại bàn tiếp tân yêu cầu được gặp Sherlock Holmes. Đó là một yêu cầu kì quặc, đặc biệt là khi cô gia sư chẳng thấy đi cùng. Viên cảnh sát trực ban ngần ngừ, nhưng anh ta biết người nhà Doyle cùng với cung cách lập dị của họ, và cho rằng Irene có một lí do xác đáng - lí do nhân đạo - để đến đây vào giờ này. Chắc hẳn cậu bé phạm nhân cảm thấy đặc biệt cô đơn vào buổi sáng. Anh ta cho rằng một cỗ xe ngựa hai bánh đang chờ cô bé.
Nhưng thật ra Irene đi một mình. Cô lẻn ra khỏi giường vào lúc sáng sớm và chạy qua những phố phường đang tỉnh giấc, trong lòng sợ chết khiếp, chiếc khăn quàng trùm lên mặt. Trước khi gặp Sherlock, cô không thể nào tưởng tượng nổi mình sẽ làm điều đang làm. Có lẽ do ma xui quỷ khiến. Hay là để phục vụ cho công lí? Cô đã quyết định liều mình một phen.
Có năm cảnh sát trong ca trực sáng: người trực ban ngồi ở chiếc bàn giấy to sụ bằng gỗ trong khu vực tiếp tân, đằng sau phòng chờ tại cổng vào, một người trợ lí ngồi ở chiếc bàn nhỏ hơn về bên trái, hai cảnh sát đứng gác phía sau cánh cửa chính, và một cai ngục canh chừng các phạm nhân trong những buồng giam.
Irene đến vừa kịp lúc. Người cai tù có bộ ria rậm đang đi ra từ căn bếp nằm bên dưới cầu thang, đôi ủng đen giẫm lên những bậc thang gỗ cũ kĩ mòn vẹt, tay bưng bảy tô cháo và bảy cái ca thiếc đựng trên một chiếc khay gỗ. Bộ chìa khóa đeo ở thắt lưng kêu leng keng.
- Tôi có thể đi cùng anh không? - Cô hỏi trong lúc vội vàng kí vào sổ thăm viếng.
- Ơ... - Người cai tù nhìn cấp trên dò hỏi. Tay cảnh sát trực ban gật đầu.
- Lối này, thưa cô.
Họ đi qua mấy cái bàn giấy để đến một cánh cửa sắt to nặng nằm phía cuối phòng tiếp tân. Tại đó họ chạm mặt một viên cảnh sát. Anh ta mở cửa, hướng dẫn họ bước qua, rồi đi theo. Để đến được các buồng giam phải bước xuống năm bậc thang đá phía cuối của đồn cảnh sát. Các buồng giam này nằm ngang tầm mặt đất, dọc theo những đoạn hành lang quét vôi quây xung quanh một cái sân.
Sherlock không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi cậu thấy Irene xuất hiện cùng hai người đàn ông.
Hôm nay, tất cả những người bị bắt giam đều được nhốt ở cùng một hành lang. Người cai tù bắt đầu phát món cháo bột nhớp nháp từ phòng giam cuối cùng đi ngược lên phía cậu bé, người bị giam ở gần lối vào nhất.
Irene dừng chân trước buồng giam của Sherlock. Cô gật đầu với cậu. Họ bắt đầu nói chuyện về thời tiết trong khi viên cảnh sát đi xuống cuối hành lang để phát cháo.
Không bao lâu sau viên cảnh sát và người cai tù quay lại. Chỉ còn mỗi một tô cháo. Người cai tù đứng trước cửa buồng giam của Sherlock, tay cảnh sát quan sát trong lúc ông ta tìm chiếc chìa khóa đúng, một cái chìa bằng sắt to sụ, khá đơn giản. Ông ta ấn nó vào trong ổ khóa.
- Tôi đưa cháo cho cậu ấy nhé? - Irene nói.
Lại là một đòi hỏi lạ lùng. Nó khiến người cai tù không thoải mái. Ông ta làm việc theo quy củ. Ông ta thích quy củ. Ông đưa mắt nhìn viên cảnh sát, rồi nhìn Irene.
- Thế này... tôi... ơ...
Irene cầm lấy cái tô từ khay gỗ. Chiếc chìa khóa to đùng vẫn còn nằm trong ổ. Để đưa tô cháo cho Sherlock, cô phải bước chân chen qua giữa người cai tù và chiếc chìa khóa được gắn vào thắt lưng của ông ta bằng một sợi xích nhỏ. Cô đưa tay rút cái chìa ra khỏi ổ khóa và làm rơi nó vào trong tô cháo.
- Ối! - Cô thốt lên.
- Không sao đâu, thưa cô. - Viên cai tù nói, rồi cẩn thận rút chìa khóa ra khỏi tô cháo. - Dù thế nào thì cậu ta vẫn ăn nó thôi mà. Đó là tất cả những gì phạm nhân được cung cấp từ giờ cho đến trưa. - Ông đưa cánh tay hộ pháp ra chắn trước mặt cô. - Nhưng tôi cho là tôi phải đưa cháo cho cậu ta. Luật là luật.
Irene đưa trẻ cho ông ta tô cháo rồi lùi lại. Viên cai tù mở cửa và đưa cháo cho Sherlock. Cậu cầm lấy và đặt nó xuống chiếc giường đá, nhìn vào nó. Đường nét của chiếc chìa khóa vẫn còn hằn rất rõ ràng trên bề mặt của món cháo đặc quánh, bên cạnh cái muỗng gỗ đang gần như dựng đứng.
Sherlock bỏ mặc nó nằm đó. Cậu nghe thấy tiếng cửa đóng lại sau lưng.
- Cậu không ăn hả Holmes? - Người cai tù hỏi, hé mắt nhìn qua các song sắt.
- Tôi không đói lắm.
Ông ta bật cười.
- Rồi sẽ đói. Thanh tra Lestrade đã lên lịch cho một cuộc... "thăm hỏi"... với cậu sáng ngày mai. Tôi nghĩ cậu nên ăn đi.
Nhưng Sherlock không nhúc nhích.
- Tùy cậu.
Người cai tù nhún vai. Ghế của ông ta đặt ở một vị trí có thể quan sát tất cả các cánh cửa buồng giam, nhưng ông ta thích đi tới đi lui. Mỗi buổi sáng, kể từ lúc cậu đến đây, người cai ngục đều đi qua đi lại bảy lần trong hành lang trước khi ngồi xuống. Ở lượt đi thứ năm, Irene chen vào. Hai người đứng với nhau tại một vị trí không cho phép ông ta nhìn vào bên trong buồng giam của Sherlock, và cô bé cầm chân ông ta ở đó, thắc mắc về các chi tiết giờ giấc thăm viếng trong tuần này.
Trong lúc cô khởi sự đi gặp người cai tù, Sherlock nhào qua buồng giam đến cái giường. Cậu lấy cái muỗng gỗ múc phần trên của chỗ cháo ra và đặt thứ bột đang cứng lại cùng với dấu vết của chiếc chìa khóa lên giường, sát cạnh tường, sau đó múc thêm một muỗng nữa, nhiều hơn, đổ ra giường ở ngay bên cạnh chỗ cháo kia. Sau khi xong việc, cậu ngồi chắn phía trước chúng.
Irene cảm ơn viên cai tù đã giải đáp thắc mắc và để ông ta tiếp tục lộ trình. Cô nhanh chóng chào tạm biệt Sherlock bước lên các bậc thang tới khu vực văn phòng phía trước rồi cánh cửa sắt to lớn mở ra và đóng lại. Tiếng những bước chân của viên cai tù vang lên trong hành lang mỗi lúc một gần lại.
- À, tôi nhận thấy cậu đã ngon miệng trở lại, cậu Holmes.
Sherlock đang ngồi trên giường, tô cháo nằm trên hai đầu gối, muỗng trong tay, có vẻ như đang dùng bữa.
Sáng hôm đó, mỗi lần người cai tù rảo bước đi tuần là Sherlock lại quay về chỗ hai đống cháo nằm cạnh vách tường. Trong vòng nửa tiếng, cậu đã có chiếc chìa khóa bằng bột cháo. Cậu hoàn thành nó vừa lúc đúng lúc. Món cháo đã sắp sửa cứng lại như đá.
***
Các cai ngục của trại giam phố Bow dĩ nhiên là không được phép ngủ trong lúc làm nhiệm vụ. Nhưng Sherlock biết thỉnh thoảng họ vẫn ngủ quên. Do hoảng sợ và lạ chỗ, cậu đã nhiều lần thức giấc trong vài đêm vừa rồi, và mỗi lần đều để ý quan sát: người trực đêm ngồi trên một chiếc ghế phía cuối hành lang có thói quen gà gật vào tầm bốn giờ sáng. Cậu biết giờ nhờ vị trí của mặt trăng mà cậu nhìn thấy qua một trong những ô cửa sổ nhỏ trong hành lang mở ra khoảng sân.
Cậu quan sát mặt trăng qua hàng song sắt. Trong tay cậu là chiếc chìa khóa thô sơ, vừa vặn với một thứ thô thiển không kém là cái ổ khóa đồ sộ. Nó cứng như một chiếc gậy chơi cricket.
Y như rằng, vào khoảng bốn giờ đêm là cằm của người canh gác ngục gục xuống ngực. Ông là một cựu binh, có thể choàng tỉnh khỏi giấc ngủ gà gật chỉ với một tiếng chuột rúc rích.
Sherlock tra chìa vào ổ khóa.
Cậu thử xoay nhẹ. Ổ khóe kêu rin rít. Người cai tù ngọ nguậy trên ghế.
- Coi nào, tôi chỉ uống có một ca bia thôi, tôi thề đấy... - Ông ta lẩm bẩm, mắt vẫn nhắm nghiền, chỉ có miệng là nhóp nhép như thể đang nhai gì đấy. Rồi ông ta lại ngủ thiếp đi.
Cậu bé đứng bất động cạnh lỗ khóa chờ đợi. Nhưng không được chờ lâu quá: đợt chợp mắt của người cai tù không bao giờ kéo dài.
Chiếc chìa khóa vẫn nằm trong lỗ khóa. Cậu xoay thử. Nó không nhúc nhích. Có thể cài chìa chưa đủ cứng chắc. Cậu thử lại lần nữa. Lần này cậu giữ cho nó ở ngay chính giữa ổ khóa, để nó có thể đẩy cái lẫy khóa một cách chính xác, và xoay chìa thật chậm rãi, thầm cầu nguyện cho nó đừng kêu đánh tách. Nhưng cậu có thể cảm thấy món làm bằng cháo rắn như sắc đang bắt đầu phát ra tiếng. Cậu rút nó ra và thử một lần nữa, xoay thật cẩn thận. Chậm rãi... nó quay.
Cậu đã mở khóa thành công.
Bây giờ cậu phải mở cửa. nó luôn kêu kèn kẹt mỗi khi được cai tù mở ra.
Sherlock bắt đầu nhẹ nhàng đẩy cánh cửa. Cứ vài giây là nó lại kêu ken két và người gác đêm lại trở mình. Cậu lách ra ngoài hành lang. Thật không thể tin nổi. Tim cậu đập liên hồi. Cậu dợm bước tiến về phía cổng chính, nhưng dừng phắt lại.
Mohmmad.
Khi liếc nhìn vào buồng giam bên cạnh, cậu phát hoảng khi thấy anh chàng người Ả rập đang trưng mắt nhìn. Anh ta đang thức và đứng ngay đằng sau chấn song. Đôi mắt anh ta ánh lên một ta lạ lùng trong đêm tối. Dường như chúng đang tính toán. Người phạm nhân có vẻ như già hẳn đi.
Ông gác ngục lại cựa mình.
Hai người phạm nhân nhìn nhau một lúc. Làm thế nào Sherlock dám chắc rằng Mohammad Adalji nói sự thật? Cậu gần như chắc chắn, nhưng không hoàn toàn. Chưa đâu. Cậu quay lưng... và nhón chân bước đi. Anh chàng Ả rập gần như nhoài hẳn người ra để túm lấy cậu. Trong một thoáng, có vẻ như anh ta sắp hét toáng lên. Nhưng anh ta tự kìm mình lại, khuôn mặt bừng lên sự phẫn nộ.
Trong chớp mắt, Sherlock di chuyển lên các bậc thang, lặng lẽ như một bóng ma, mở hé ánh cửa chính nằm ở đầu hành lang và lách người qua. Cậu thấy mình đang ở trong phòng tiếp tân phía trước. Ngay trước mặt và nằm về bên phải cậu nhìn thấy một cái bàn giấy nhỏ, rồi một cái lớn hơn bằng gỗ nằm xa hơn một chút. Không có ai ngồi ở chiếc bàn đầu tiên, nhưng một trung sĩ cảnh sát đang ngồi ở chiếc bàn thứ hai. Sherlock đang ở phía sau lưng anh ta một chút. Anh ta đang cúi đầu cắm cúi viết vào quyển sổ, chốc chốc lại chấm bút vào lọ mực. Cậu thu mình sát mặt đất, tiến đến cái bàn nhỏ hơn, nấp đằng sau nó, khuất mắt viên trung sĩ. Cậu cảm thấy hơi thở của mình to như tiếng phì phò của ông già làm nón khi ông thổi lò sưởi. Cậu cố gắng trấn tĩnh lại. Viên cảnh sát đang ở cách đó khoảng bốn mét rưỡi. Sherock bắt đầu điểm lại những hình ảnh mà tâm trí cậu đã chộp được của mặt tiền đồn cảnh sát phố Bow khi cậu được đưa đến đây một tuần trước đó. Cậu biết màn đêm Luân Đôn và sự tự do nằm về bên tay trái của mình, cậu cần đi qua một cái cửa vòm mở toang trong căn phòng này, tiếp đến là sáu bước chân băng qua phòng đợi và ra khỏi cánh cửa trước đồ sợ sơn đen. Nhưng viên trung sĩnh gác đêm, người mà cậu không nhìn rõ được hết vào lúc này, có tyể nhận thấy ngay nếu có người đi ra hay đi vào.
Cậu hé mắt nhìn từ sau bàn giấy qua vòm cửa và thấy một cảnh sát đang ngồi trên một trong các băng ghế của phòng chờ.
Cậu sẽ phải liều chạy thôi. Nhưng sự bất ngờ là một ưu thế của cậu. Cậu sẽ dùng trí thông minh đường phố của mình và chạy qua viên trung sĩ trong chớp mắt. Thực sự chỉ còn phải thoát khỏi một tay cảnh sát. Khi sang đến phòng bên kia, cậu sẽ biết đích xác cửa chính có then cài nằm ở đâu.
Bỗng có một tiếng động ở phía sau lưng cậu.
- Cái quái g... - Một giọng nói thốt lên. Đó là ông già cai ngục, vừa tỉnh giấc và phát hiện buồng giam trống không.
Sherlock bật dậy.
Chạy thôi!
Cậu lao qua cửa vòm để ngỏ, người gác ngục bám theo đằng sau. Cậu băng qua căn phòng chỉ trong một tích tắc. Nhận ra người cảnh sát trên băng ghế trong gian phòng ngoài đang đứng dậy để tóm mình, cậu cúi thấp đầu, tựa như vận động viên bóng bầu dục trong một pha chen lấn. Cậu luồn qua giữa hai chân anh ta và lao qua phòng đợi. Cửa nhà giam đây rồi. Nhưng đột nhiên từ đâu mọc ra ba ông cảnh sát khác - trước đó cả ba đang nằm ườn trên các băng ghế mà cậu không quan sát được.
Nhưng cậu đã đúng: yếu tố bất ngờ tạo thuận lợi cho cậu. Tốc độ là điều tối quan trọng. Chỉ một viên cảnh sát ở gần cửa là có thể tóm gáy cậu. Ông ta lao bổ vào cậu. Sherlock lại thụp người xuống và ông ta bay qua đầu cậu, chỉ kịp đưa một tay chụp lấy tấm áo khoác đen của cậu. Sherlock xoay sở thoát ra được và đẩy tung cánh cửa. Trong chớp mắt cậu đã lao như bay trên các bậc tam cấp bằng đá, vụt qua cánh cổng bằng sắt uống có những ngọn đèn tròn màu xanh và biến vào đêm tối. Sherlock chạy qua cơn ác mộng ấy, bám theo sau là lực lượng cảnh sát. Cậu lại nghe thấy tiếng vĩ cầm vang lên cuồng loạn. Đêm nay sương mù bao phủ dày đặc.
Việc cuối cùng cậu làm trong khi thức đêm là vạch ra một kế hoạch mà mình sẽ thực hiện nếu thoát ra được bên ngoài. Cậu nghĩ tới mọi tình huống có thể, từ khả năng tốt nhất... cho đến tình huống hiện tại mà cậu đang lâm vào, với mấy ông cảnh sát bám theo sát nút. Cậu không thể về nhà, không thể chạy nhanh hơn cảnh sát, không thể trốn đâu được lâu, vì sẽ không có ai chứa chấp cậu hết... ngoại trừ có lẽ là một tên tội phạm, kẻ sống ngoài đường, kẻ biết làm thế nào tránh né chính quyền, kẻ có thể cảm thấy được lợi lộc gì đó nếu giúp cậu.
Giáo chủ! Cậu ở đâu?
Sherlock guồng chân băng qua phố Bow, rẽ sang phía tây vào Covent Garden, chạy ngang qua Nhà hát lung linh ánh đèn hơi đốt mà không buồn liếc nhìn. Cậu chưa bao giờ thắng một cuộc thi chạy nào ở trong trường, nhưng đó là vì cậu không bận tâm đến việc đó. Khi muốn, cậu có thể thực hiện mọi thứ. Đôi chân của cậu dài và thon như chân chó đua. Cậu rẽ lên hướng bắc, về phía những con phố hẹp, nơi cậu biết Giáo chủ và nhóm Bụi đời thường lai vãng. Đôi ủng của cậu nện cồm cộp trên nền đá. Mưa lại bắt đầu lắc rắc rơi. Cậu nghe thấy tiếng thở hổn hển của mình.
Bọn nó đâu rồi?
Cậu không có lí do gì để tin Giáo chủ sẽ giúp mình. Chỉ là một linh cảm, một trực giác theo kiểu mà cậu thường hay có với thằng bé giang hồ du đãng, có điều gì đó trong hoàn cảnh này sẽ thu hút nó, giữa nó và cậu tồn tại một sự gắn bó không thể gọi tên. Địch thủ của cậu cũng có thể cứu cậu để theo dõi cậu.
Bọn nó thường ở gần đây. Đâu đó.
Trong lúc chạy vội vàng, cậu liếc nhìn mọi ngõ ngách. Chẳng có gì. Toán cảnh sát đang la hét phía sau cậu, giọng họ vang dội trên những con phố âm u mờ sương. Sherlock chạy bổ về hướng tây, đi qua các quán trọ đã đóng và các cửa hiệu tối om, rồi ngược lên hướng bắc theo một con phố chật hẹp. Chỉ trong giây lát nó đã trở nên chật chội hơn. Rồi cậu nhận ra nơi mình đang chạy vào... Ngã bảy. Trước đây cậu chưa bao giờ dám bén mảng đến chỗ này, nơi mà bảy con phố nhỏ giao nhau giữa lòng Luân Đôn: một bộ phận đáng xấu hổ của khu trung tâm mục nát, nổi tiếng với sự bần cùng khốn khổ và tình trạng bạo lực. Nó được xem như sào huyệt của bọn trộm cắp. Nhưng đây là nơi mà cậu phải đến. Đây là nơi cậu có thể tìm thấy Giáo chủ.
Cảnh sát đang rút ngắn khoảng cách, tiếng ủng truy đuổi của họ trở nên to hơn. Tại giao lộ, cậu chọn một lối và chạy vào trong đó. Nó là một con hẻm với hai bên là các ngôi nhà ba tầng sụp đổ. Nhiều con người ăn mặc rách rưới nằm trên vỉa hè chật chội và lẫn cả xuống đường. Cậu lao qua những lối đi chật hẹp mà chỉ có những người móc cống của Luân Đôn mới chui vào. Trong lúc vội vàng phóng qua một lối đi, cậu nhận thấy một vài chuyển động trong bóng tối.
Bụi đời?
Chắc là thế rồi. Con hẻm nhỏ phình ra thành một cái sân bé tí để rồi thắt lại ở đầu bên kia. Đó là một nơi lí tưởng để ngủ. Cậu biến vào con hẻm, lao về phía bóng tối. Ngay cả giờ đây, trong tình cảnh tuyệt vọng của mình, nó vẫn làm chân cậu run lẩy bẩy. Sherlock chưa bao giờ chui đầu vào một cái lỗ như thế này.
Một cái đầu người chậm chạp ngóc lên, đối mặt với cậu trong sương mù. Rồi nguyên bộ ngực hiện ra. Sherlock dừng phắt lại. Người nằm la liệt khắp nơi. Bộ ngực có hình dáng dài và mỏng.
- Công tử Holmes, nếu tao không nhầm.
Thằng bé thậm chí không có vẻ ngái ngủ. Khắp xung quanh thỉ lĩnh, đám Bụi đời nằm chồng chất, miệng ngáy o o.
- Giáo chủ!
- Gặp rắc rối hả, công tử? - Những chiếc răng vàng ệch của thằng nhóc hiên lên lờ mờ trong đêm tối.
- Bọn họ đang đuổi theo tôi.
- Nghe nói mày vừa phải vào an dưỡng trong ngục Bow. Thế đã thoát rồi cơ à?
Có một chút ngưỡng mộ trong giọng điệu của Giáo chủ.
- Bọn họ đang đuổi theo tôi.
Giáo chủ nhìn xuôi theo con hẻm phía sau Sherlock. Người cảnh sát đầu tiên đã tới. Anh ta nhìn lom lom, ngập ngừng mặc dù con mồi đã ở rất gần.
- Lối này! - Giáo chủ thốt lên, đẩy Sherlock Holmes đi trước. - Đi về hướng đông, sau đó lên phía bắc. Biến đi!
Sherlock không đợi nói thêm. Cậu gắng sức len qua Giáo chủ và đám Bụi đời. Bọn trẻ càu nhàu rủa xả rồi bắt đầu ngồi dậy.
- Để nó qua! - Thằng bé thủ lĩnh rít lên. - Tao đang đợi báo cáo đây! Thông tin nhé!
Sherlock đã biến ra khỏi đầu kia của con hẻm.
Giáo chủ quay lại đối diện với toán cảnh sát đang chạy đến.
- Nhóm Bụi đời đâu! Đứng dậy cả đi nào! Đêm nay tao muốn cầm chân bọn họ ít nhất một phút cho Sherlock Holmes. Mấy cái xe ủi kia không thể làm gì chúng ta được đâu. Bọn chúng đâu thể nào tống giam chúng ta vì tội đứng lố nhố làm cản đường.
Cảnh sát vấp phải đám Bụi đời. Những tiếng chửi tục văng ra từ miệng bọn họ được đáp lại bằng những lời xin lỗi từ tụi nhóc. Nhưng bằng cách nào đó, mặc cho nỗ lực tránh đường rõ ràng của nhóm Bụi đời, chúng vẫn chặn ngay trước mũi các cảnh sát. Gần như một phút đã trôi qua trước khi toán cảnh sát tới được đầu hẻm bên kia. Khi bọn họ ra đến con phố bên ngoài, cậu bé đã mất dạng.
***
Bố đã dạy cậu phải biết lắng nghe những người thông thạo, nên cậu làm đúng như Giáo chủ nói. Nếu thằng bé du đãng bảo rằng rẽ sang đông rồi lên phía bắc, thì cậu sẽ chạy sang đông rồi lên bắc. Còn một lí do nữa, một lí do rất chính đáng, để tẩu thoát theo hướng đó.
Cậu chạy dích dắc cho đến khi gặp những cái cây trên quảng trường Bloomsbury xinh xắn. Cậu đi vào một khu vực mà các cảnh sát không ngờ tới. Bảo tàng Anh quốc, một kho tàng thông tin tuyệt diệu, nằm trên con phố phía bên trái cậu. Xa hơn là Đại học Luân Đôn, giấc mơ một thời của cha cậu.
Sherlock sắp đứt hơi đến nơi. Đã nhiều phút rồi cậu không nghe thấy hay nhìn thấy các cảnh sát truy đuổi. Đã đến lúc đi bộ. Như thế trông cậu càng đỡ khả nghi. Đây là một khu vực khác xa khu phố nhà cậu. Nơi đây cư ngụ toàn người có học thức. Các giáo sư, những nhà hảo tâm, và đây cũng là nơi cậu có thể tìm... Irene.
Phải. Đây là hướng đi đúng đắn nhất, nó ăn khớp với phần cuối cùng trong kế hoạch vượt ngục của cậu.
Irene và bố cô sống ở đâu đó gần đây. Phố Montague, theo lời cô nói. Đại lộ cậu đang đi được chiếu sáng đầy đủ bằng những ngọn đèn khí đốt cao bằng sắt sơn màu đen - giống như mọi khu sang trọng. Cậu đi theo hướng bắc cho đến khi vỉa hè chấm dứt và nhìn lên cái tên ghi trên tòa nhà cuối cùng - Bedford Place. Cậu gần đến nơi rồi, cậu biết như thế. Cậu đang ở phía nam của một công viên khác. Rẽ trái về phía tòa bảo tàng kì vĩ xây bằng đá xám với hàng cột kiểu La Mã, cậu tiến đến lề trái của phố... Montague.
Irene đang ngủ say ở đâu đây, trên con phố này.
Cậu lang thang dọc theo vỉa hè, xem xét từng ngôi nhà. Tất cả chúng đều ngay hàng thẳng lối, nằm liền kề nhau, tuy hẹp bề ngang nhưng cao ba tầng rưỡi, với tầng trệt có màu trắng kem và các tầng trên xây bằng gạch nâu hoặc đá trắng. Những đóa hoa rực rỡ nở bung trên các chậu cây gắn ở cửa sổ. Không phải nhà nào cũng có đánh số, tuy vậy một số căn có tên gia chủ hoặc tên giao dịch.
Cậu đứng từ ngoài phố phóng mắt đọc chữ, không dám lại gần cửa trước của các ngôi nhà. Những hàng rào sắt đen bóng bao bọc cho từng ngôi nhà, tiếp đến là vài bậc tam cấp đá dẫn lên cửa chính, với khu dành cho gia nhân nằm bên dưới. Khi đã đi đến cuối con phố, phía đối diện của nhà bảo tàng, Sherlock dừng chân gần một tòa nhà xây bằng gạch. Nó có gắn một tấm biển bằng đồng. Cậu đọc: Hội... thăm... viếng...
Cậu đã tìm ra Irene.
Nhưng bây giờ làm gì đây? Cậu không thể cứ như thế bước lên các bậc thềm và gõ cửa. Ông Doyle sẽ lập tức đưa cậu trở lại trại giam.
Cậu nhìn theo cả hai hướng. Trên phố không có ai. Nhà của gia đình Doyle liền kề với ngôi nhà hàng xóm về phía bắc, nhưng nó là căn cuối cùng của một dãy nhà, nên có một lối đi nhỏ rộng khoảng sáu tấc chạy về phía sau nhà. Một cánh cổng sắt chặng ngang lối đi. Sherlock thu mình đi tới đó. Cánh cổng dễ dàng mở ra. Cậu nhích từng bước theo lối đi và chẳng bao lâu sau đã đứng trước một khoảng sân sau có tường bao quanh rộng bằng với ngôi nhà và sâu chừng hai mét rưỡi. Nhìn qua lối vào trổ trên tường, cậu trông thấy phần lớn mảnh sân đã bị chiếm chỗ bởi một ngôi nhà nhỏ... dành cho chó.
Ôi trời!
Sherlock hoảng hồn thoái lui. Cậu đi giật lùi, mặt hướng về cái sân, sẵn sàng cho một cuộc tấn công hoặc một tràng sủa hung tợn. Nhưng chẳng có gì cả. Lạ thật! Con chó không nhận ra cậu. Nó ngủ à? Hay nó già và bị nghễnh ngãng? Cậu nhìn thấy sợi dây xích của nó nằm trên nền gạch và dừng lại. Không có con vật nào bị gắn vào đầu kia sợi xích cả.
Một phút sau cậu đã nằm trong cái cũi chó trống không. Cho dù thuộc loại khuyển nào, thì chó cưng nhà Doyle lúc này cũng không có ở trong ngôi nhà nhỏ dành cho nó. Sherlock co người lại, kéo tấm chăn hôi hám đắp lên chân, đặt đầu nằm trên mặt đất, mắt mở to trong khi tim đập thùm thụp. Khi đã yên vị, ý nghĩ đầu tiên của cậu là dành cho mẹ. Cậu cần phải gặp bố mẹ. Cậu có cảm giác như mình đã chạy hằng mấy ngày trời liền. Nước mắt dâng lên, nhưng Sherlock nén chúng lại. Thôi nào, cậu tự nhủ, thôi nào. Còn nhiều việc phải làm. Còn nhiều điều phải chứng tỏ.
Chẳng bao lâu sau cậu thiếp đi.