← Quay lại trang sách

Chương 13 Nhìn Thấy Quỷ

Sherlock sẽ không giải thích gì thêm cho tới khi cả hai đã trở về phố Montague. Cậu có vẻ hoảng sợ. Cậu nhìn thẳng trước mặt như thể đang trông thấy kẻ sát nhân lộ ra trên nóc của một tòa nhà, quan sát bằng con mắt của quạ.

Irene đi trước cậu khoảng một chục mét, thỉnh thoảng lại liếc nhìn ra phía sau để chắc chắn là Sherlock vẫn đang đi theo. Hai đứa đi từ nhà thờ Saint Paul, qua khu trung tâm Luân Đôn náo nhiệt về khu phố yên tĩnh của cô. Sherlock dừng lại cách đó một quãng xa, trong lúc cô bước qua cánh cổng bằng sắt uốn và leo lên các bậc đá đến cửa trước ngôi nhà. Nếu nó không khóa tức là bố cô đang ở nhà.

Cô thử đẩy cửa. Nó bị khóa. Thò tay vào túi xách tìm chìa khóa, cô dõi mắt xuống phố về phía Sherlock ra hiệu. Vài phút sau hai đứa đã ngồi chễm chệ trên chiếc trường kỉ trong căn phòng khách nhỏ ở tầng trệt, cùng với John Stuart Mill nằm duỗi người bên cạnh. Irene ngồi cạnh khung cửa sổ lớn để có thể quan sát cả hai phía của con phố. Sherlock thì giấu mình khỏi tầm nhìn từ bên ngoài nhờ tấm màn cửa màu đỏ thắm.

Ông Andrew Doyle sắp sửa về. Nhưng Irene tò mò muốn được nghe kể ngay bây giờ.

Vừa ngồi xuống là Sherlock nói luôn:

- Điều đầu tiên tớ nhận ra khi đến nơi là độ lớn của vệt máu... nó cho thấy kẻ sát nhân có thể đã biết nạn nhân, bởi vì đó không phải là kiểu giết nhanh chuồn gọn của một tên cướp. Đó là một vụ án mạng vì tình tàn nhẫn.

Irene điều chỉnh tư thế ngồi và thu xếp vạt váy dài bằng len dạ trên chiếc trường kỉ bọc da. Tự cô muốn trốn khỏi sự kiểm soát chặt chẽ trong nhà và cùng cậu bé đi tìm công lí. Nhưng giờ thì cô bắt đầu phải đối diện sự thực nghiệt ngã của toàn bộ vụ việc.

Sherlock ngưng nói. Tâm trí cậu lại phiêu du đi chỗ khác, cố gắng hình dung ra tên sát nhân. Irene lôi cậu quay lại.

- Nhưng làm sao cậu biết lũ quạ đã chứng kiến vụ việc? Rất có thể sáng hôm sau, khi mặt trời chiếu vào trong hẻm, chúng tình cờ bay ngang qua và nhận thấy một phần của con mắt cùng chiếc xuyến lấp lánh trên mặt đất. Hay biết đâu chúng đã ở đó vào đêm hôm xảy ra vụ việc, hoặc gần đó, nhưng chỉ nghe thấy tiếng hét của người phụ nữ, hoặc nhận thấy người phụ nữ ở đó, cùng những món đồ lấp lánh nằm lăn lóc trên mặt đất cách cô ta không xa? Lũ quạ kinh hoàng bay mất, để rồi cứ tiếp tục quay lại tìm kiếm món đồ bởi vì chưa kịp lấy thì đã bị đánh động mỗi khi có người xuất hiện. Không thể biết được chúng đã nhìn thấy những gì. Không thể nào. Cậu phải ở đó mới nói được.

- Tớ biết chúng đã thấy gì. - Sherlock thì thầm, đan những ngón tay trắng dài vào nhau và siết lại thật chặt.

- Làm sao cậu biết được? - Cô gặng hỏi.

- Có một con quạ đậu trên một tòa nhà khi tớ đến đó. Tớ đã quan sát nó. Nó làm ba việc. Nó kiểm tra đống đá, nơi tớ đã tìm thấy con mắt thủy tinh, rồi nó đi lên đi xuống dọc theo lối đi, và đi loanh quanh ngẫu nhiên tại vị trí nằm đối diện với vết máu trong hẻm. - Sherlock hé đầu qua tấm màn cửa, nhìn bên ngoài, rồi nghiêng người lại gần Irene. - Con quạ không mất nhiều thời gian cho vị trí nơi từng có con mắt thủy tinh, vì nó có thể thấy con mắt đã biến mất. Thế rồi nó bắt đầu tìm kiếm một thứ gì khác... thứ gì đó làm nó quan tâm, thứ gì đó lấp lánh. Việc nó tìm kiếm gần chỗ tớ tìm thấy chiếc xuyến chính là dấu hiệu cho biết nó đã chứng kiến vụ giết người... Nó biết chiếc xuyến đã bị bung ra trong lúc giằng co.

- Nhưng mà - Irene phản đối - biết đâu nó chỉ nhận ra chiếc xuyến tay lấp lánh lẫn trong đất đá theo cách tớ đã nói? Biết đâu con quạ trông thấy nó nằm ở chỗ đó sau khi án mạng đã diễn ra? Biết đâu nó di chuyển ngẫu nhiên chỉ vì nó không biết chắc chiếc xuyến nằm chỗ nào thì sao?

- Lúc đầu tớ cũng đã nghĩ như thế... - Sherlock nói - Cậu nói đúng. Điều tớ vừa nói chỉ cho chúng ta biết là con quạ có thể nhìn thấy thứ gì đó bay ngang qua con hẻm... đó không phải là bằng chứng.

- Vậy... bằng chứng là gì?

- Con quạ đi lên đi xuống dọc theo con hẻm... - cậu nghiêng người sát vào Irene đến nỗi mũi hai đứa suýt chạm vào nhau -... trên một đường thẳng giống từ vệt máu ra ngoài đường.

Irene nhún vai. Sherlock nói có lí. Con quạ hẳn phải trông thấy nạn nhân hoặc tên giết người, hoặc cả hai từ ngoài phố bước vào đường hẻm và đi thẳng một lèo đến chỗ xảy ra án mạng... hay ít nhất thì nó cũng phải nhìn thấy kẻ thủ ác chạy trở ra ngoài phố sau khi đã thực hiện hành vi man rợ của mình. Nó biết họ đi đâu.

Vụ án mạng tại Whitechapel không phải là không được chứng kiến.

- Con quạ đã nhìn thấy. - Irene thốt lên.

Chiếc đồng hồ cổ kính trong sảnh kêu tích tắc.

- Và chúng ta phải tìm cách để nhìn thấy được như nó. - Sherlock tư lự.

Cậu ngước lên và nhìn thấy sự hãi hùng trên gương mặt Irene. Cậu biết cô không muốn nhìn thấy sự việc hãi hùng đó, không bao giờ. Cô chỉ muốn mọi chuyện trôi qua: cậu được tự do, Mohammad được thả, người phụ nữ tội nghiệp kia được yên nghỉ, và thủ phạm thực sự bị đưa ra trước công lí. Sherlock thì khác. Cậu muốn được hiểu tường tận vụ việc. Và cậu muốn mọi người được báo thù.

Nhưng vào lúc này, mội việc cũng hãi hùng tương tự như hình ảnh trong đầu cậu đã xuất hiện ngoài phố.

- Bố về! - Irene hét lên.

Bố cô đang tiến lại gần cửa trước. Mải đắm chìm trong cuộc nói chuyện, cô đã quên không giám sát bên ngoài.

- Nhanh. Ra ngoài nhanh lên! - Cô vừa đứng bật dậy vừa kêu lên.

Sherlock nhỏm dậy, lao phắt qua phòng khách nhỏ, chạy theo hành lang qua phòng ăn để ra cửa sau. Cậu có thể nghe thấy tiếng ông Andrew mở cửa trước, dỡ mũ và treo ô lên.

- Irene ơi.

- Dạ, bố gọi con ạ?

Cô con gái đột ngột xuất hiện trước mặt bố mình như một bóng ma. Cô nói bằng một giọng bình thản trong khi đứng ngay lối đi, chắn tầm nhìn hướng hành lang của bố. Bộ ria màu hạt dẻ của ông nhoẻn cười..

Sherlock mở cửa hậu rồi nhẹ nhàng đóng lại trước khi xuống chỗ trú ẩn trong cũi chó. Cậu lách vào trong đó rồi nằm yên, co chân vào để đôi ủng không ló ra ngoài. Trong nhà không thấy động tĩnh gì.

Sherlock cảm thấy khó mà giữ bình tĩnh được. Bố cậu đã dạy rằng cảm xúc thái quá là kẻ thù của nhà khoa học. "Hãy vận dụng lí trí lạnh lùng và cứng rắn. Hãy để nó dẫn lối cho con, con trai ạ. Hãy làm chậm rãi và chính xác khi con đang tìm kiếm một giải pháp." Đúng như thế, cậu nghĩ bụng, khi mổ một con ếch hay đun thứ hóa chất nào đó trên đèn cồn, nhưng đây là vấn đề sống chết. Trong cậu có lòng nhiệt huyết của mẹ, mà cậu không thể gạt bỏ. Cậu chỉ muốn đứng dậy, phá tung cái cũi chó này và hét lên với thiên hạ rằng cậu không phải là tội phạm, rằng Mohammad vô tội, rằng cuộc sống này thật không công bằng, và rằng kẻ thủ ác thực sự phải bị trả giá. Những kẻ bất lương dù ở bất cư nơi nào cũng đều phải trả giá.

Cậu muốn nhìn thấu vụ án mạng này ngay bây giờ.

Cậu để cho trí tưởng tượng của mình tự do. Những cọng lông vũ đen bóng bao bọc lấy cậu, chung quanh là lớp sương mù vàng vọt trong màn đêm Luân Đôn hung hiểm. Cậu đang nghiêng người trên mép của một tòa nhà, nhưng không phải là tòa nhà trong con hẻm đó. Cậu đang ở trên phố Old Yard, ngay gần nơi tiếp giáp với đường Whitechapel. Dưới kia, một người phụ nữ vội vã chạy, gót đôi ủng cột dây nện trên lớp đá lát đường trong khi cô ta nhìn quanh quất, tuyệt vọng đi đến một nơi nào đó. Cô ta mang theo một chiếc đèn lồng nhỏ chỉ đủ sức phát ra một thứ ánh sáng lờ mờ trong đêm tối. Cô còn khá trẻ và xinh đẹp, kim cương đeo đầy trên cái cổ trắng, vành tay và đôi tay mềm mại. Những con quạ này đã nhìn thấy người phụ nữ khá lâu trước khi cô ta bị giết, cậu chắc chắn như thế. Vì cô lấp lánh trong đêm tối dưới mắt chúng. Chứ chúng còn lí do gì khác để kéo đến hiện trường vụ án này đây? Vì một tiếng thét à? Cái đó chỉ làm chúng kinh động thôi.

Cô gái rẽ vào trong hẻm, dừng lại. Một người nào đó đến gặp cô đúng như kế hoạch. Lúc đó lũ quạ đáp xuống một tòa nhà trong hẻm, mắt vẫn dõi theo ánh sáng lấp lánh phát ra từ người phụ nữ xinh đẹp và đầy lo lắng kia. Rồi bắt đầu có lời qua tiếng lại. Một tiếng thét kinh dị vang lên và những vật thể lấp lánh văng tung tóe... Sherlock không thể nhìn thấy kẻ nào đã làm chuyện đó... chưa thể.

Còn về người phụ nữ? Giờ thì cậu đã biết chút ít về cô ta. Cô ta đeo rất nhiều nữ trang. Chắc chắn cậu sẽ tìm ra được gì đó từ chuyện này.

Đã đến lúc tiếp tục thu hoạch định các bước tiếp theo: nhờ Irene kiểm tra tất cả các nhà sản xuất mắt thủy tinh trong danh bạ ngành nghề của thành phố; tìm ra một nhân chứng có mặt ở gần hiện trường vụ án, người đã nghe thấy chút gì đó vào đêm xảy ra án mạng.

Nhưng tâm trí cậu vẫn quay về với người phụ nữ kia. Cô ta là ai? Vì sao lại ra ngoài đó giữa đêm hôm khuya khoắt? Tại sao lại có kẻ lạnh lùng hạ sát cô gái này trong khu East End?

***

Khi Irene giấu thức ăn dưới tấm khăn quàng đen đến cho Sherlock vào giờ ăn tối, cậu hỏi cô bé có ghé thăm thư viện Guildhall được không; và trước khi bị mùi kinh khủng của John Stuart Mill ám vào lần nữa, cậu lỉnh ra khỏi sân sau, đi tới quảng trường Lincoln's Inn Fields. Cậu tìm thấy Giáo chủ tại một con đường nhỏ cạnh đấy. Thằng bé đang ngồi trên một cái thùng chứa nước mưa lật úp gỉ nhoèn đặt cạnh một tòa nhà. Đám Bụi đời lâu la đứng rải rác dọc theo vách tường. Cái mũ bị nhậy cắn lỗ chỗ nằm vắt vẻo trên mái tóc mướt mồ hôi của nó, trong khi chiếc áo choàng có đuôi được xếp gọn gàng bên cạnh. Trong tay nó là một cuốn tập mà Sherlock thường thấy nó hí hoáy ghi chép vào. Nó thích đặt ra những bài toán số học rắc rối để xem mình có thể giải được hay không. Có một thời điểm trong quá khứ bí ẩn của mình, Giáo chủ đã được biết rằng cần học toán để trở nên thông minh. "Toán giúp cho đầu óc sắc bén", nó thường nói thế. "Toán giúp bồi dưỡng trí não của ta trước các thử thách của cuộc sống."

Mặc dù đã biết Sherlock đang đến, nó chỉ thủng thẳng ngước mắt lên nhìn khi thằng bé cao gầy đã ở bên cạnh, rồi lại cúi xuống với các con số của mình. Rõ ràng là nó sẽ không cung cấp cho kẻ đào tẩu kia bất kì sự trợ giúp nào nữa. Tất cả những gì nó mong muốn tối hôm nay là thông tin.

Sherlock có thể bị treo cổ nếu không tìm ra được kẻ thủ ác khu East End, nên cậu đành huy động tất cả dũng khí để đặt câu hỏi - một cách cẩn trọng:

- Tôi... cần biết liệu có ai nghe được gì đó vào đêm xảy ra vụ án hay không. Liệu các Bụi đời có thể dò hỏi hộ tôi trong khu East End được không?

Thằng nhóc thủ lĩnh đứng dậy, khoanh tay lại.

- Cô gái đâu? - Giọng nó có vẻ không bằng lòng.

- Tối nay cô ấy không thể đến nhập bọn với chúng ta được.

Giáo chủ không thấy có chút hài hước nào trong chuyện này. Nó dò xét gương mặt Sherlock.

- Mày không nên lôi cô ấy vào rắc rối như thế này. Phải là tao thì đã không thế.

- Cô ấy muốn tham gia.

- Tại sao?

- Cô ấy tin ở công lí.

Giáo chủ bật cười:

- Tao nghĩ cô bé này hơi ngờ nghệch.

- Irene là một người biết quan tâm đến người khác.

Thằng nhóc đội mũ xem vẻ sắp sửa tung một cú đấm. Rõ ràng nó cố gắng ngăn mình lại. Nó yêu cầu được nghe báo cáo. Sherlock thuật lại những gì cậu đã biết, cẩn thận chọn lọc những chi tiết nào muốn tiết lộ, với hi vọng chừng ấy là đủ để Giáo chủ hài lòng. Khi cậu nói xong, Giáo chủ nhìn cậu như một ông vua đang xem xét liệu có nên giữ lại mạng sống của thằng bé trước mặt mình, liệu những thông tin kia có đáng giá để nhập vào kho tri thức các hoạt động ngầm bao la của nhóm Bụi đời. Nhưng rồi nó nghĩ đến Irene Doyle và lời kêu gọi giúp đỡ Sherlock của cô. Nếu nó không giúp Holmes, Irene sẽ biết và sẽ quan tâm nó ít hơn. Ngoài ra còn một khả năng nữa là nếu không bị treo cổ, Holmes rất có thể khai sáng thêm gì đó về vụ án mạng này. Tìm hiểu về những biến cố như thế này chẳng bao giờ là thừa cả. Nó quay mặt đi.

- Tao sẽ làm chuyện này... vì cô bé.

***

Sherlock ở ngoài đường cả đêm. Cậu suy ngẫm về nạn nhân vụ giết người. Cậu cần phải biết cô ta là ai, và biết ngay bây giờ. Cậu cần xem các tờ báo ưa thích của mình.

Theo tính toán của cậu về số ngày đã trôi qua, cậu biết hôm nay là Chủ nhật. Chuyện này làm cậu nảy ra một ý. Trước khi mặt trời lên thì cậu đã kịp thận trọng tiếp cận cánh bán hàng rong quen biết ở gần quảng trường Trafalgar.

Đa phần những thằng bé bán báo, dù là mới hay cũ, đều coi cậu là một sự phiền hà. Trước đây, cậu đã từng thử ăn trộm báo khi không thể tìm ra thứ mình cần trong thùng rác. Chúng đã bắt quả tang cậu và định báo cảnh sát. Một thằng có con chó bull với quầng lông đen quanh mắt đã từng một lần giở trò xấu xa đó với Sherlock.

Nhưng có một người bán báo không như thế. Đó là anh chàng Dupin tội nghiệp bị cụt chân và mang bộ mặt dị hình. Anh chuyên ngồi trên một cái ghế thấp phía sau một ki-ốt tạm bợ bằng gỗ để chào mời chỗ sách báo của mình, trong lúc cố gắng tỏ ra đàng hoàng một cách đáng thương. Khuôn mặt nhăn nhúm của anh bị dị dạng bẩm sinh với cái miệng lúc nào cũng phô ra những chiếc răng vàng ệch - rất khó xác định được cuộc sống của anh buồn hay vui. Sherlock đã nhiều lần trông thấy Dupin trở về nhà sau khi đóng sạp báo, thân người anh và các thứ đồ đạc được chằng buộc vào một miếng gỗ hẹp có gắn những chiếc bánh xe sắt nhỏ bên dưới. Dupin tự đẩy mình tới trước nhờ đôi bàn tay xỏ cặp găng lòi ngón bẩn thỉu. Trông anh ta như một nửa con người, với bộ áo tả tơi, chiếc cà vạt, một khuôn mặt, và cái mũ quả dưa bẹp dí. Sherlock và Dupin đã từng nhiều lần trò chuyện với nhau.

- Cậu Sherlock? - Anh ta ngạc nhiên nói với chất giọng khàn khàn của mình, bất giác tự động hạ thấp giọng nói khi nhận thấy cậu bé chui ra từ trong bóng tối để tiến lại gần mình. Anh chàng tập trung nhìn để chắc chắn là mình không nhầm. Anh vật lộn giương cái ô che rách nát bên chiếc bàn nhỏ tồi tàn mãi mà chưa xong. - Cậu nàm gì như bị ma đuổi thế?

- Cũng gần như vậy. - Sherlock đáp.

Cậu nắm lấy gọng dù và giương dù ra.

- Nghe lói cậu bị vào tù.

- Anh nghe chính xác đấy. - Sherlock đảo mắt nhìn quanh, mặt cúi gằm.

Anh cụt nhìn cậu bé rách rưới. Như mọi khi, trong mắt anh toát ra sự thông cảm. Anh làm Sherlock ngạc nhiên: làm thế nào anh có thể quan tâm đến người khác trong khi bản thân mình tật nguyền như thế.

- Dám cá cậu đến đây không phải để chơi.

- Em cần một sự giúp đỡ.

- Đổi một triệu cua-ron thì được thôi, thưa cậu.

Dupin có một thói quen khác thường. Đa phần những người bán báo thường vứt bỏ những tờ báo ế ngay sau khi hết ngày, nhưng anh thì luôn giữ lại mỗi số một tờ Tin điện hàng ngày và tờ báo chủ nhật, tờ Tin tức thế giới đầy hấp dẫn. Anh có thể đọc vanh vách từng chữ trong mọi tờ báo đã bán từ nhiều tuần lễ trước. Diễn văn Disraeli ở Ấn Độ? Ngày thứ ba, trang 7, từ cột một đến cột năm, thêm ba cột bên trang 8. Anh đúng là một bảng mục lục sống. Người ta đều đồn là anh có một cuốn sách ghi chép tiểu sử ngắn gọn của mọi nhân vật mà anh đã từng đọc qua trong báo.

Một bộ sưu tập các số báo trong tháng luôn được anh giữ bên mình dưới chiếc xe kéo, và khi anh không phải rao "Tiiiin điiêện đêêêê!" với người qua đường, thì anh lại giở tin tức ra đọc lại, lưu chúng vào trong bộ nhớ.

Sherlock nói nhanh:

- Em cần những gì anh có về vụ sát nhân tại Whitechapel.

- Cần vụ đấy á? - Anh chàng nhíu mày - Em dính trong đó hả?

Cậu lắc đầu.

- Không. Người ta lôi em vào.

- Một triệu cua-ron. - Anh chàng điềm tĩnh nói, đoạn di chuyển lại gần chồng báo như một nhân viên kế toán tìm hồ sơ, rồi thành thục lôi ra một câu trả lời chính xác, tờ báo của ngày Chủ nhật tuần trước, và kín đáo đưa nó cho Sherlock.

- Cám ơn...

- Cứ cầm nấy đi, cậu Holmes ạ.

***

Sherlock nhanh chóng quay về phố Montague, nhẩm tính thời gian còn lại của mình. Trong chưa đầy hai tuần nữa, Mohammad sẽ bị xử tử. Tờ báo này phải cung cấp cho cậu một thông tin nào đó.

John Stuart Mill mập ú đang nằm ngủ thẳng cẳng trong cũi chó lúc Sherlock chui vào. Tiếng ngáy của nó to muốn điếc tai. Chuyện này bắt đầu mệt mỏi rồi đây, Sherlock nghĩ bụng trong khi vần con chó vài vòng, tựa như thợ làm bánh nhồi khúc bột của mình. Cậu đẩy con chó xích lại gần cửa. Con vật chẳng buồn cựa quậy. Cậu gác người lên cái bụng tròn lẳn của nó, giữ tờ báo ở vị trí sao cho có đủ ánh sáng mà vẫn không bị lộ mặt. Bất cứ ai nhòm xuống từ các ô cửa sổ nhà Doyle cũng sẽ chỉ nhìn thấy J.S.Mill đang nằm ngả ngớn.

Tờ Cảnh sát nhật báo đã không đề cập gì đến tên của nạn nhân trong vòng ba ngày đầu tiên: có điều gì đó về thân nhân của cô gái chưa được xác nhận, nên các nhà chức trách đang cố gắng xác định và tìm kiếm người họ hàng gần nhất nếu có. Nhưng bây giờ Sherlock đang có trong tay tờ Tin tức thế giới, số ra vào Chủ nhật sau ngày án mạng, tức là sáu ngày sau đó, lúc cậu đang ngồi trong buồng giam.

Và nó đúng là một mỏ vàng! Tờ báo đã đào sâu vào vụ án này. Cậu hau háu quét mắt dọc theo cột báo đầu tiên cho đến khi tìm thấy thông tin về nạn nhân.

"Trong những ngày tiếp sau vụ án mạng, rộ lên tin đồng nạn nhân là một nữ diễn viên..."

Lạ nhỉ, Sherlock thầm nghĩ. Cậu ngừng lại để xem xét một chút. Nếu là một nữ diễn viên thì danh tính cô ta phải được xác định ngay chứ, đặc biệt khi cô ta là người có thu nhập đủ để đeo những món trang sức đắt tiền, trong trường hợp giả thiết của Sherlock Holmes là chính xác?

Chỉ có một câu trả lời. Đây không phải là một ngôi sao đang lên như Ellen Terry hay Nelli Farren. Cô ta chắc chỉ là một diễn viên ít tên tuổi mà không ai nhận ra ngay, hoặc một người không được công chúng quan tâm nhiều. Nhưng đó là một câu trả lời khiếm khuyết. Cô ta lấy đâu ra nhiều tiền thế? Và cô ta là ai? Cậu đọc tiếp.

"Tóc màu nâu đỏ... chiều cao trung bình... tuổi hai mươi hai."

Sherlock cần nhiều thông tin hơn. Cậu lật sang trang, mặc kệ tiếng sôi bụng của J.S.Mill. Trước mắt cậu là một bức tranh khắc vẽ hình... Lillie Irving.

- Lillie! - Cậu buột miệng. Đây rồi. Cô ấy quả là đẹp, và gần như là bản sao của mẹ cậu thời trẻ. Cậu nuốt nước bọt và đọc tiếp.

"Cô Irving đã xuất hiện trong nhiều vở kịch nói cũng như kịch câm trong khoảng bốn đến năm năm sau khi vào nghề. Mặc dù là một cô gái quyến rũ, cô chưa bao giờ giành được những vai nặng kí. Các đồng nghiệp rất thương xót cho sự ra đi của cô, họ cho biết cô có xuất thân khá khiêm tốn và sống ở Luân Đôn một mình không có anh chị em. Cha mẹ cô vừa qua đời gần đây."

Sherlock chưa bao giờ nghe nhắc đến tên cô ta. Bất cứ vở diễn nào ở rạp Lyceum, nhà hát Royal Drury Lane, cậu cũng đều ghi nhớ. Thế giới huyền hoặc ấy làm cậu say mê. Nhưng Lillie Irving ư? Cậu chẳng nghe thấy chút tăm hơi nào.

Làm thế nào một diễn viên vô danh chuyên đóng những vai nhỏ dành cho cô chỉ vì cô xinh đẹp, lại đeo nữ trang đầy người lang thang ngoài đường đêm hôm đó, hay bất kì một đêm nào khác? Cô xuất thân từ một "gia đình khiêm tốn". Có gì đó không hợp lẽ ở đây.

Cậu đọc tiếp bài báo.

"Cô đang tham gia vở Âm mưu của người đẹp, tại nhà hát Royal Haymarket thì không may qua đời."

Rạp Haymarket. Cậu biết đích xác vị trí của nó: nằm cách quảng trường Trafalhar không xa hơn một tầm rao của bà bán rau quả, đó là khu vực thường xuyên lui tới của những dân chơi có hành tung đáng ngờ. Ở Luân Đôn các vở kịch thường mở màn lúc tầm giờ và hạ màn lúc mười giờ tối. Cậu cần tìm hiểu thêm về Lillie Irving.

Cậu dành thời gian còn lại trong ngày để lên một kịch bản trong đầu - những gì cần làm và cần nói tại Haymarket. Sau đó là lúc bắt đầu một buổi tối ở nhà hát.

Cậu không dẫn Irene theo. Cậu không muốn cô đến một nơi mà những gã đáng ngờ có thể chạm vào cô bé và lôi cô vào những trò nguy hiểm.

Cậu sẽ đi một mình.