← Quay lại trang sách

Phần 2. Chương 1 Cách mạng thế-giới - Nội chiến và khủng bố-Komintern được phát động và các hành động của cơ-quan này---

Sau khi đả nắm được chính-quyền, Lénine mơ mộng sẽ mang '' ngọn lửa '' cách mạng lan rộng khắp Âu-Châu, rồi luôn cả thế-giới. Giấc mộng này đáp ứng với biểu ngữ ( slogan ) của Karl Marx trong bản tuyên ngôn của cộng-sản đưa ra vào năm 1848: '' Hởi tất cả các người vô-sản của tất cả mọi nước, hảy cùng nhau họp lại ''. Về tổng-quát, đó là một điều tối cần: cuộc cách mạng Bôn-sê-vít chỉ có thể đứng vững nắm chính-quyền và có thể phát-triễn được với điều kiện là sẽ được che đở, ủng hộ, giử vững vị-trí nắm chính-quyền và được nâng đở cùng tiếp liên ( relayée ) bằng các cuộc cách mạng khác ở các nước mở mang hơn. Trước tiên Lénine nghỉ rằng, nước Đức với giai cấp vô-sản được tổ chức cùng với khả năng kỹ-thuật phong phú. Các nhu cầu phối hợp của hoàn cảnh không bao lâu nửa sẽ biến thành một kế-hoạch chính-trị thực thụ: Cuộc cách-mạng thế-giới. Trong hoàn cảnh của thời điễm này, các việc đả xảy ra hình như chứng minh cho các suy tư của nhà lãnh đạo Bôn-sê-vít là đúng. Với việc tan rả của hai đế-quốc Đức và Áo-Hung, gây ra do cuộc bại trận vào năm 1918 đả gây ra một cơn chấn động ghê-gớm, gần như một cơn động đất lớn về chính trị, và được tiếp nối bởi cơn lốc lớn ( tourbillon ) về cách mạng. Trước khi các người Bôn-sê-vít có được một sáng kiến nào khác ngoài ra các khẩu ngữ tuyên-truyền, cuộc cách mạng hình như bất giác xảy ra trong cơn lốc do cuộc bại trận của Đức và Áo-Hung.

Cuộc cách mạng ở Âu-Châu

Nước Đức là nước đầu tiên bị cơn chấn động gây ra, trước khi xảy ra cuộc đầu hàng, đả có xảy ra cuộc nổi loạn ( multinerie ) của toàn thể lực-lượng Hải-quân. Cuộc bại trận của nước Đức được tiếp nối với việc thiết-lập một nền cộng-hòa do các người thuộc đảng xã-hội-dân-chủ lãnh đạo. Các vị lãnh đạo này không thể ngăn cản được sức phản kháng dử dội từ mọi phía ; khi thì phát suất từ phía quân đội, khi thì do các cơ-quan công-an, khi thì do các nhóm nghỉa dũng binh ( France-tireur ) thuộc các phái siêu quốc-gia, cùng với các người thán phục chế độ độc tài Bôn-sê-vít.

Tháng 12 năm 1918, tại Berlin, hai vị Rosa Luxemburg et Karl Liebknecht đả cho phát hành chương-trình của nhóm Spartakus và vài ngày sau đó hai vị này đả rời hàng ngũ Đảng Xã-hội Dân-chủ để thành lập Đảng Cộng-sản Đức. KDP cùng với sự liên hợp với các tổ chức khác. Hai khuynh hướng khác nhau đả xảy ra trong hàng ngủ của KDP, ngay từ đầu tháng Giêng năm 1919, khuynh hướng cực đoan do Karl Liebknecht cầm đầu và khuynh hướng ôn hòa do của Rosa Luxemburg. Huynh hướng cực đoan muốn theo gương Lénine, từ chối việc thành lập một Quốc-hội Lập-hiến, cả hai điều toan tính tạo một cuộc dấy loạn ở Berlin nhưng theo lịnh của các nhà lãnh đạo Xã-hội Dân-chủ, quân đội đả dẹp tan cuộc dấy loạn này. Hai vị lãnh đạo này liền bị bắt và đến ngày 15 tháng Giêng năm 1919 thì bị giết chết. Và ngày 13 tháng 4 năm 1919, vị lãnh đạo KDP ở vùng Bavière, đó là ông Eugen Leviné đả cầm đầu một cộng hòa của các ũy-viên vì ông này đả ra lịnh quốc hữu-hóa các ngân hàng, và bắt đầu thành lập một đạo Hồng-quân. Công-xã Munich ( commune de Munich ) đả bị quân đội đánh tan vào ngày 30 tháng 4 năm 1919, ông Leviné bị bắt ngày 13 tháng 5, đả bị đưa ra xử trước tòa án quân-đội, bị kết án tử hình và bị xử bắn vào ngày 5 tháng 6 năm 1919.

Cơn thức đẩy cách mạng ( poussée révolutionnaire ) lừng danh hơn hết và là một gương mẫu chính là cuộc cách mạng đả diễn ra ở Hung-Gia-Lợi. Nước này là thành phần của đế-quốc Áo-Hung Gia Lợi ( Austro-Hongroise ) sau cuộc bại trận và bị tan rả vào tháng 11 năm 1918 đả không chấp nhận việc chia cắt phần đất của mình do các nước đồng minh quyết định, đó là việc cắt phần đất vùng Transylvanie, đả thành lập và đó là nước duy nhất mà các nhà lãnh tụ Bôn-sê-vít đả xuất cảng được đường lối của họ. Khởi đầu từ năm 1918, đảng Bôn-sê-vít đả quy tụ được tất cả các tổ chức có cảm tình với họ, các người này không phải là người Nga, họ được tổ chức thành một Liên Đoàn các người cộng-sản người ngoại-quốc. Ở Moscou có một nhóm người Hung-Gia-Lợi, nhóm này gồm các cựu tù binh chiến-tranh và đến tháng 10 năm 1918, nhóm người này gồm có 20 người được gởi trở về Budapest. Ngày 4 tháng 11 năm 1918, đảng Cộng-sản Hung-Gia-Lợi ( PCH ) được thành lập dưới sự lãnh đạo của Béla Kun. Là một tù binh chiến tranh, Béla Kun đả nhiệt thành tán thành và gia nhập cuộc cách mạng bôn-sê-vít và đả trở thành vị chủ-tịch liên đoàn các người cộng-sản ngoại quốc vào tháng 4 năm 1918. Ông trở về đất Hung vào tháng 11 năm 1918 cùng với 80 vị lãnh tụ khác và được bầu lên làm chủ tịch đảng. Cuối năm 1918 và đầu năm 1919, người ta ước lượng được một số khoảng từ 250 đến 300 người '' quấy rối '' và '' đặc phái '' đả được đưa vào đất Hung. Nhờ sự viện trợ tài chánh của các người Sô-viết, các người cộng-sản Hung đả có thể phát-triễn được các việc tuyên truyền và tăng cường ảnh hưởng của họ.

Tờ công báo của đảng xã-hội dân-chủ: Tiếng nói của nhơn dân / NEPSZAVA, đả kịch liệt chống lại các người bôn-sê-vít, đả bị tấn công vào ngày 18 tháng 2 năm 1919, do một số đông các người thất nghiệp và các quân nhơn do các người cộng-sản động viên với mưu đồ hoặc là chiếm lấy nhà in hoặc là phá bỏ nhà in này. Cơ quan công an phải can thiệp và đả có 8 người chết cùng lối 100 người bị thương tích. Cùng vào đêm đó Béla Kun và bộ tham mưu của ông đều bị bắt. Ở tại khám đường trung ương, các nhơn viên công an đả đánh đập các người bị bắt để trả thù cho bạn đồng sự của họ đả bị giết chết trong lúc tấn công vào nhà in báo Nepszava. Chủ tịch nước Hung, Michel Karolyi đả gởi vị bí thư của ông đến vấn an tình trạng sứ khỏe của vị lãnh đạo cộng-sản và nhờ vậy vị này được hưởng một chế độ gần như tự do, nhân dịp này vị lãnh đạo này mới có dịp tiếp tục các hành động của mình và chẳng bao lâu, lật ngược lại được tình thế. Trong lúc còn đang ở khám đường, vị lãnh tụ này đả đạt được một sự thành công đáng kể: đó là việc sát nhập đảng PCH vào đảng Xã-hội Dân-chủ. Được tiếp diển theo đó là sự từ chức của vị chủ-tịch Karolyi mở đường cho việc tuyên cáo thành lập cộng hòa các vị cố vấn, trả lại tự do cho các người cộng-sản bị bắt và chấp nhận tổ chức theo khuôn mẫu các người bôn-sê-vít, thành lập một hội đồng nhà nước cách mạng quy tụ các vị uỷ-viên nhơn dân. Cộng hòa này tồn tại được 133 ngày, từ ngày 21 tháng 3 đến 1 tháng 8 năm 1919.

Vừa vào cuộc họp đầu tiên, các ủy viên nhơn dân quyết định ngay việc thành lập các tòa án nhơn dân với các vị thẩm phán do nhơn dân lựa chọn. Được liên lạc thường xuyên bằng điện tín với Budapest và khởi đầu vào ngày 22 tháng 3, Lénine đả có 218 bức điện văn được trao đổi, Béla Kun đả chấp nhận và coi Lénine là vị lãnh tụ của vô-sản thế-giới. Lénine đả khuyên Béla Kun hảy xữ bắn các người xã-hội dân-chủ và các người tiểu tư-sản. Trong lời kêu gọi của ông vào ngày 27 tháng 5 năm 1919: '' Hởi các công nhân người Hung, ông đả chứng minh việc dùng sách lược khủng bố, cuộc chuyên chế này phải cần đến sự bạo động không nguôi, phải được quyết đînh ngay để đập tan các sự đối kháng của các người trục lợi, các người tư bản, các đại điền chủ và các tên tai sai của họ. Kẻ nào không hiểu các việc này không phải là người cách mạng. Chẳng bao lâu, Mathias Rakosi ủy viên phụ-trách thương mãi và Eugen Varga ủy-viên phụ trách các vấn đề kinh tế, cùng các người có trách-nhiệm ở các tòa án nhân dân đả '' bán đứng '' các người buôn bán, các người làm công và các vị luật sư. Một tờ tuyên cáo, dán trên các vách tường đả tóm tắc tinh thần vào thời đó: '' Trong một nhà nước của các người vô-sản chỉ có các người nào có lao động mới có quyền sống còn ''. Việc lao động trở nên bắt buộc, các xí nghiệp trên 20 công nhân, rồi đến lượt các xí nghiệp có trên 10 công nhân, rồi đến các xí nghiệp có 10 công nhân đều lần lượt bị quốc hữu hóa và truất quyền sở-hữu.

Lực lượng quân đội và công an đều bị giải tán và được thay thế bởi một lự lượng quân đội mới gồm các người cách mạng tình nguyện là thành phần nồng cốt và tin cẩn. Chẳng bao lâu một đội '' khủng bố '' của Hội đòng Cách mạng của chính phủ được tổ chức dưới tên: '' các người của Lénine ''. Họ đả ám sát lối một chục người, trong số này có một vị thiếu úy hải quân trẻ tuổi Ladisla Dobsa, một vị phó đệ nhất Quốc-vụ-khanh, và người con của vị này là giám đốc cục hỏa xa, ba vị sĩ-quan hiến binh. Các người của Lénine vâng lịnh của một cựu thủy thủ József Czerny, người này đả động viên các người cộng-sản tiến bộ nhứt, nhứt là các cựu tù nhơn chiến tranh đả tham gia vào cuộc cách mạng bôn-sê-vít. Czerny đả liên minh với Szamuely, một vị lãnh tụ cộng-sản cấp tiến và là đối lập với Béla Kun vì ông này đả đòi giải tán các '' toán người của Lénine ''. Để phản ứng lại, Czerny đả quy tụ các tay chân của y và bắt đầu tấn công vào tòa nhà của các sô-viết vì Béla Kun đang làm việc tại đây với sự hổ trợ của József Haubrich, một đảng viên xã-hội Dân-chủ đang kiêm nhiệm ủy viên phó nhơn dân phụ-trách quốc-phòng. Sau hết là một cuộc thương lượng và các người của Czerny chấp nhận hội nhập vào cơ-quan Ủy viên nhơn dân phụ trách bộ nội vụ hay là gia nhập vào quân đội, đó là trường hợp của đa số.

Tybor Szamuely cầm đầu một toán '' những người của Lénine '' gồm có 20 người đả đi đến Szolnok, thành phố đầu tiên do Hồng-quân Hung-gia-lợi chiếm đóng và đả ra tay hành quyết nhiều người thân hào bị buộc tội đả hợp tác với các người Lỗ-ma-ni ( Roumains ) và đả coi các người này là kẽ thù của nước Hung vì vấn đề các lãnh thổ thuộc vùng Transylvanie và về chính trị vì chế độ ở Roumanie đả chống lại chế độ Bôn-sê-vít đang được thiết lập tại Hung. Một học sinh trung học gốc người Do-Thái đả đến xin ân xá cho cha mình, đả bị giết chết vì cậu học sinh này đả dại dột gọi Szamuely là con '' dã thú ''. Vị chỉ huy Hồng-quân Hung đả cố gắng chận lại sự hăng xay cách mạng của Szamuely vì người này đi trên đoàn xe hỏa xa mà y đả trưng dụng ( réquisitionné ) để đi qua một vùng đất của nước Hung và ra lịnh '' treo cổ các người nông dân nào đả chống lại việc '' tập thể hóa '' ( collectivisation des terres ) các đất đai. Người phụ tá của Szamuely là Jósef Kerekes đả bị cáo là đả tàn sát một trăm năm chục người, y thị đả thú tội là đả xử bắn năm người và chính tay y thị đả treo cổ 13 người khác. Con số chính xác các người bị tàn sát không bao giờ được biết rỏ. Arthur Koestler nhà văn nổi danh với tác phẫm nổi danh giờ thứ 25 đả nhất định cho biết là có lối 500 người đả bị giết. Tuy vậy ông đả ghi: '' Tôi không thể nghi ngờ là chủ-nghĩa cộng-sản ở Hung-Gia-Lợi, với thời gian sẽ biến thành một nhà nước công-an và chuyên chế và sẽ bắt buộc đi theo khuôn mẫu của nước Nga. Nhưng sự nhận định này, với các điều hiểu biết vừa được trưng ra, đả không làm giãm sự hăng xay chứa nhiều nguồn hy vọng nơi những ngày đầu của cuộc cách mạng. Các vị sử gia đả xác nhận là các toán người của Lénine đả là thủ phạm của việc giết 80 người trong số 129 người đả bị hành quyết, con số này đả được chính thức kiễm kê, nhưng nếu đúng ra thì phải có xảy ra lối vài trăm người nạn nhơn đả được biết đến.

Với cao trào chống đối gia tăng và việc suy sụp của tình hình quân sự trước quân lực Roumanie, chính phủ cách mạng phải dùng đến chính sách '' bài Do-thái ''. Một bản yết thị đả tuyên cáo: '' Các người gốc Do-thái đả từ chối đi ra tiền tuyến, hảy tiêu diệt các người này vì họ đả từ chối hiến thân cho chính sách thiêng liêng của chuyên chế vô-sản ''. Béla Kun ra lịnh bố ráp năm ngàn người dân Balan gốc Do-thái khi các người này đến Hung để tìm lương thực và các tiếp tế khác. Các tiền bạc của họ đều bị tịch thu và họ bị trục xuất ra khỏi đất Hung. Các người cấp tiến của đảng cộng-sản Hung PCH đả đòi đưa Szamuely lên lãnh đạo các thường vụ và đòi phải có một cuộc tàn sát đỏ như kiểu Saint-Barthélemy của cuộc cách mạng 1789 của Pháp, coi là như cách duy nhất để làm ngưng lại việc tình hình suy sụp nền Cộng-hòa của các Ủy-ban. Czerny cố gắng tái tổ chức lại các toán người của Lénine. Vào trung tuần tháng 7, một lời kêu gọi được đăng trên báo Nepszava:'' Chúng tôi kêu gọi các thành viên, của toán khủng bố này, đả giải ngũ, hãy đến trình diện để được tái tuyển mộ lại tại chổ làm việc của József Czerny ''. Ngày hôm sau, một bản đính chính đả được đăng: '' Chúng tôi sẽ thông báo riêng cho mỗi cá nhân, việc tái hoạt động của các người Lénine củ ''. Việc này không thể dự trù được: các người này đả vi phạm và làm các việc xấu xa quá nặng và đả làm thương tổn đến danh dự của các người vô-sản và việc tái tuyển dụng họ để phục vụ cho nền cộng-hòa của Ủy ban, đả bị hũy bỏ ''.

Những tuần lể cuối cùng của Công-xã Budapest rất là hổn độn, Béla Kun phải lo đương đầu chống lại một cuộc '' putsch '' để loại ông và hình như âm mưu này do Szamuely cầm đầu. Ngày 1 tháng 8 năm 1919, Béla Kun rời Budapest dưới sự che chở của phái đoàn quân sự của Italie ; vào mùa hè năm 1920 ông tị nạn ở Liên Bang Sô-viết ; vừa đến nơi ông đả được tuyển là ủy-viện chính trị của Hồng-quân Sô-viết và trên mặt trận ở về phía Nam, ông đả nổi danh vì đả ra lịnh hành quyết các người sĩ-quan Bạch-quân thuộc quân đoàn Wrangel, đả được kêu gọi là nếu họ đầu hàng và mạng sống của họ sẽ được bảo đảm. Ngày 2 tháng 8 năm 1919, Szamuely toan vượt biên để trốn qua nước Áo, y bị bắt và đả tự tử sau đó.

Komintern và trận nội chiến

Trong lúc Béla Kun và các đồng chí của ông toan tính việc thành lập một đệ nhị cộng hòa của các sô-viết thì Lénine đả có sáng kiến để thành lập một tổ chức quốc-tế để đưa cuộc cách mạng ra toàn thế giới. Đó là tổ chức được mang danh là Quốc-tế Cộng-sản và với tên viết tắt là Komintern hay là Đệ Tam Quốc Tế đả được thành lập vào tháng 3 năm 1919 và trên mọi bình diện đả trở thành đîch thủ của Quốc-tế Thợ-thuyền đả được coi là Đệ-nhị Quốc-tế được thành lập vào năm 1889. Tuy vậy, đại hội thành lập tổ chức Komintern đả giải đáp các nhu cầu về tuyên truyền khẩn cấp và toan tính để '' dụ được các phong trào đột khởi đang làm rung chuyển Âu-châu, hơn là một khả năng thực tế về tổ chức. Sự thật về sự thành lập tổ chức Komintern bắt nguồn từ đại hội 2, được tổ chức vào mùa hè năm 1920 với việc chấp thuận 21 điều kiện gia nhập mà các người xã-hội phải chấp nhận phục tùng nếu họ mong ước được thu phục và được hội nhập vào một tổ chức '' siêu trung-ương tập trung '' đó sẽ là '' bộ tham mưu của cuộc cách mạng thế giới và đảng Bôn-sê-vít, với các uy tín, các kinh nghiệm và nắm quyền nhà nước ( riêng về tài chính, quân sự và ngoại giao ) đả là thành phần '' nặng ký ''.

Tổ chức Komintern, liền khi đó đả được Lénine nghỉ ra và cơ quan niệm là một công cụ khuynh tả ( subversion ) quốc tế giống như các ngành khác: Hồng-quân, Ngành Ngoại-giao, các cơ-quan Gián-điệp v.v.. và học thuyết chính trị của tổ chức Komintern được bắt chước y nguyên theo các tổ chức Bôn-sê-vít: Đây củng là thời điễm để thay thế các vũ khí bị chỉ trích bằng các cuộc chỉ trích về vũ khí. Bản tuyên ngôn của đại hội 2 đả được chấp nhận, hiên ngang thông báo: '' Quốc-tế Cộng-sản đó là đảng Quốc-tế để dấy loạn và của chuyên chính vô-sản ''. Để kết thúc, điều kiện thứ 3 ở trong 21 điều kiện đả quyết định:'' Gàn như toàn các nước ở Âu-châu và ở Mỹ-châu, việc đãu tranh giai cấp đả bước vào giai đoạn nội chiến. Các người cộng-sản không thể tin cậy vào sự hợp pháp của bọn trung lưu trưởng giả. Bổn phận của họ là phải tổ chức ở khắp mọi nơi, song song với các cơ quan hợp pháp, một cơ quan bí mật có thể, và quyết đînh khi thời gian thuận tiện sẽ thi hành và làm đủ bổn phận đối với cuộc cách mạng thế giới. ( Cộng-sản Việt-Nam đả thực hành điều này ). Định thức uyển khúc ( formules euphémisées ): Giai đoạn quyết định là cuộc dấy loạn cách mạng, và bổn phận đối với cuộc cách mạng đó là bắt buộc lao mình vào một cuộc nội chiến hay là bắt buộc tạo ra một cuộc nội chiến. Một chính sách không dành riêng cho các nước sống dưới chế độ độc tài mà chỉ áp dụng cho các nước dân chủ, các nước cộng hòa hay vương quốc lập hiến.

Điều kiện thứ 12 ghi rỏ ràng là nhiều sự cần thiết về các tổ chức dính liền với nhau để chuẩn bị cho một cuộc nội chiến: Về thời điểm hiện nay của cuộc nội chiến ác liệt đang xảy ra, đảng cộng-sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ, nếu được tổ chức tập trung về trung ương,với một '' kỷ luật thép '' tiếp cận với kỹ luật quân đội được chấp thuận, và cơ quan trung ương được tập trung nhiều quyền lực rộng rải và thi hành một quyền uy không tranh luận và được hưởng một sự tín nhiệm nhất trí của toàn thể các lãnh tụ. Điều kiện thứ mười ba củng đả dự định về các vị lãnh đạo không nhất trí: Các đảng cộng-sản phải thi hành các cuộc khai trừ định kỳ ở trong các tổ chức của họ để loại bỏ các phần tử bị dính líu và các '' tiểu-tư-sản ''.

Tháng 6 năm 1921, lúc đại hội 3 họp tại Moscou, với việc tham dự của nhiều đảng cộng-sản của các nước, đả được thành lập, các khuynh hướng đả trở nên rỏ rệt: Luận đề về các chiến thuật đả chỉ rỏ: Đảng cộng-sản có bổn phận giáo dục cho nhiều từng lớp của quảng đại quần chúng, bằng lời nói và các việc làm, quan niệm là các cuộc xung đột hay tranh chấp về kinh tế hay về chính trị, được sự trợ lực của nhiều trường hợp thuận tiện, có thể trở thành một cuộc nội chiến và khi ấy bổn phận của giai cấp vô-sản là nắm lấy quyền chính trị. Các luận đề về các cách cấu tạo, các đường lối cùng các hành động của các đảng cộng-sản phải được tổ chức bí mật, dù là ở trong lòng của đảng, các luận đề này đả nhấn mạnh về các việc chuẩn bị rất cần thiết và các biện pháp rất cần là: '' không phải bất cứ lúc nào vấn đề tổ chức một đạo Hồng quân củng có thể thực hiện được ''.

Từ lý thuyết đến thực hành, chỉ có một bước đả đạt được ở nước Đức vào tháng 3 năm 1921, cơ quan Komintern dự định thực hành một hành động cách mạng rộng rải, dưới sự lãnh đạo của Béla Kun, trong thời gian này đả được bầu vào chức Chủ-tịch đoàn của tổ chức Komintern. Được phát động vào thời điễm các người Bôn-sê-vít đang đàn áp công sã Kronstadt, cuộc '' khởi động tháng 3 '' một mưu toan nổi loạn thiệt thọ được diển ra ở vùng Xaxe, đả thất bại dù nhiều phương tiện đả được cung cấp và các cuộc bạo động dử dội như việc đặt '' cốt mìn '' phá hoại đoàn xe hỏa tốc hành đi từ Halle đến Leipzig. Cuộc thất bại này đả đưa đến việc diển ra cuộc thanh trừng đầu tiên ở trong hàng ngũ của tổ chức Komintern. Paul Levi, chủ-tịch đảng cộng-sản Đức ( KPD ) và là một trong những người thành lập tổ chức Komintern đả bị loại ra khỏi hàng ngũ vì các lời chỉ trích của ông đả nói về cuộc '' phiêu lưu này ''. Dù đả nằm dưới ảnh hưởng nặng nề của khuôn mẫu sô-viết, các đảng cộng-sản trên nhản quan của '' định chế '' chỉ là các phân chi quốc gia của Quốc-tế Cộng-sản, các phân chi này đả dần dần đi đến việc không lệ thuộc ; việc này đả diển ra trước việc không phục tòng và được quyết đînhvào tời điểm thẫm cấp sau cùng ( dernière instance ) cho đường lối chính trị và tổ chức của Komintern. Khuynh hướng '' nổi loạn '' ở các nơi của Grigori Zinoniev đả bị chính Lénine chỉ trích. Nhưng Zinoniev, trên căn bản đả cho Paul Lévi đả có lý khi trao quyền lãnh đạo KPD lại cho các người đối nghịch của Lévi. Sức mạnh của tổ chức Komintern đả được củng cố dịa vị của nó.

Quân đội Pháp và Bỉ vào chiếm đóng vùng kỹ-nghệ nặng Ruhr vào tháng Giêng năm 1923, để bắt buộc nước Đức phải trả tiền bồi thường thiệt hại do chiến tranh gây ra ; theo với tinh thần hòa-ước Versailles ngày 23 tháng 6 năm 1919. Một kết quả cụ thể do việc chiếm đóng của quân đội hai nước, đưa đến việc thỏa hiệp của các người quốc gia và người cộng-sản Đức để chống lại '' chủ nghĩa đế quốc của Pháp '', cùng đüa đến việc đối kháng thụ động của dân Đức ở vùng bị chiếm đóng, việc đối kháng thụ động này được chính phủ Đức ũng hộ. Tình hình kinh tế đang bất ổn, bổng mỗi ngày mỗi suy sụp thêm. Đồng tiền của nước Đức đả trở nên vô dụng, một đồng Mỹ kim đổi được 13 triệu đồng tiền Mark của Đức. Các cuộc đình công, biểu tình và dấy loạn tiếp tục diễn ra. Ngày 13 tháng 8 trong một bầu không khí cách mạng, chíng phủ của Thủ-tướng Wilhelm Cuno bị bắt buộc phải từ chức.

Tại Moscou, các nhà lãnh đạo Komintern suy tính là sẽ xảy ra một cuộc cách mạng giống như cuộc cách mạng tháng 10 tại Nga. Khi cuộc bất đồng ý kiến giửa các người lãnh đạo này đả được giải quyết, vậy ai sẽ là một trong những người sau đây: Trotski, Zinoviev, hay là Staline, ai sẽ là người lãnh đạo cuộc cách mạng thứ hai này?. Tổ chức Komintern khởi đầu một cuộc tổ chức võ trang nghiêm chỉnh để khởi loạn to, có tổ chức chu đáo. Nhiều phái viên như August Gouralski, Mathias Rakosi được phái sang nước Đức và cùng đi theo với họ là viên tướng Alexandre Skoblewski với bí danh Gorev, là một chuyên viên tổ chức nội chiến. Họ dự định là dựa vào các chính phủ của thợ thuyền ( vì nước Đức được tản quyền cho các vùng ) nơi các vùng gồm các người xã-hội dân-chũ thiên tả và các người cộng-sản, các chính phủ này đang trên đường thành lập để lấy cho được một số nhiều vũ khí. Được phái đi về vùng Saxe, Rakosi dự định cho nổ chiếc cầu hỏa xa nối liền vùng này cùng với nước Tiệp-Khắc, để mong nước Tiệp-Khắc sẽ can thiệp vào và từ đó gây thêm được sự hổn loạn.

Tất cả các cuộc bạo động được dự trù là sẽ phát khởi vào ngày kỷ niệm cách mạng tháng 10 của cuộc '' putsch'' Bôn-sê-vít. Sự kích thích lan tràn ở Moscou, họ tin tưởng là cuộc khởi loạn sẽ thành công và động viên Hồng-quân tập trung ở biên-giới Nga-Đức sẳn-sàng tiến quân vào nước Đức để hổ trợ các người dấy loạn. Đến trung tuần tháng 10, các người cộng-sản chịu gia nhập vào các chính phủ thuộc vùng Saxe và Thuringe và nhận được lịnh phải tăng cường cho các lực lượng quân dân vô-sản ( lối vài trăm người ) gồm có 25% là các đảng viên cộng-sản. Nhưng qua ngày 13 tháng 10, chính phủ do Gustav Stresemann đả ban hành lịnh '' khẩn trương '' cho vùng Saxe và đặt vùng này dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của chính phủ trung ương, tước quyền của chính phủ vùng, và kêu gọi sự hổ trợ của quân lực Đức- Reichswehr. Mặc dù sự kiện này đả xảy ra, Moscou vẫn kêu gọi việc võ trang cho các công nhơn và khi Heinrich Brandler trở về Moscou đả ra lịnh tổng đình công nhơn dịp có một đại hội công nhơn được tổ chức ở Chemnitz vào ngày 21 tháng 10. Mưu đồ này bị thất bại vì các người thuộc đảng xã-hội cách mạng phe khuynh hữu đả từ chối không nghe theo các người cộng-sản. Các người cộng-sản đành lùi bước, nhưng vì sự thông tin bị chậm trể, cuộc bạo động đả xảy ra ở Hambourg: các toán chiến đấu người cộng-sản ( khoảng từ 200 đến 300 người ) đả tấn công vào các trụ sở của cảnh sát. Cơn bất ngờ trải qua, các người nổi loạn đả không đạt được mục tiêu của họ ; lực lượng cảnh-sát cùng với sự hổ trợ của quân đội Đức-Reichswehr, đả phản công lại và sau 33 giờ đồng hồ chiến đấu, cuộc nổi dậy đả bị cô lập hoàn toàn, các người cộng-sản ở Hambourg đả bị '' bóp tắt '' ( juguler ). Một cuộc cách mạng thứ hai mà Moscou đả đặt nhiều hy-vọng đả không xảy ra. Và tổ chức M. Apparat được tồn tại cho đến các năm 1930 và là một cơ cấu quan trọng của KPD và đượợc mô tả rỏ ràng do người lãnh đạo là Jan Valtin với tên thật là Richard Krebs.

Sau nước Đức, nước cộng hòa Estonie là nơi đả diển ra cuộc toan tính nổi loạn thứ hai. Và củng là lần thứ hai cộng-sản Nga đả gây sự chống lại dân tộc nhỏ bé này. Ngày 27 tháng 10 năm 1917, một hội đồng các sô-viết đả nắm lấy quyền ở Tallinn-Reval, họ đả giải tán quốc hội, hủy bỏ các cuộc bầu cử thất lợi cho các người cộng-sản Estonie. Trước áp lực của đoàn quân viễn chinh Đức, các người cộng-sản tháo lui. Trước khi quân viễn chinh Đức chiếm đóng, người dân Estonie đả tuyên cáo '' độc lập '' vào ngày 24 tháng 2 năm 1918. Vì bị bại trận vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, quân đội viễn chinh Đức bị bắt buộc phải triệt thoái ; các người cộng-sản trở lại nắm lấy sáng kiến: ngày 18 tháng 11, một chính phủ được thành lập ở Petrograd và hai sư đoàn Hồng-quân xâm lăng nước Estonie. Mục tiêu của cuộc tấn công này đả được giải-thích rỏ ràng trong nhựt báo: Severnaĩa Kommuna ( công xã miền Bắc ): Chúng tôi phải xây dựng một chiếc cầu để nối kiêbn nước Nga sô-viết với nước Đức và Áo vô-sản... Cuộc thắng trận của chúng tôi sẽ nối liền các lực lượng cách mạng, không ai ngăn cản nổi, từ Tây-Âu với cách mạng Nga và nơi đó sẽ tạo lên một cuộc cách mạng xã-hội toàn cầu. Tháng Giêng năm 1919, khi tiến quân còn cách thủ đô Estonie ba chục cây số thì Hồng-quân đả bị quân lực Estonie phản công và bị chận đừng lại. Hồng-quân tái tấn công lại lần thứ hai nhưng rồi củng bị thất bại. Ngày 2 tháng 2 năm 1920, do hòa ước ký ở Tartu, các người cộng-sản Nga nhìn nhận nền độc-lập của Estonie. Trong những vùng tiến quân xâm lăng, các người Bôn-sê-vít đả thực hành các cuộc tàn sát: Trước khi rút lui ngày 14 tháng Giêng năm 1920 tại Tartu họ đả tàn sát 250 người và ở địa hạt Rakvere củng đả có trên 1000 người đả bị giết chết. Khi quân lực Estonie giải phóng được thị trấn Wesenberg vào ngày 17 tháng Giêng, họ đả phát giác ra ba hố chôn tập thể với 86 tử thi. Ở thị trấn Dorpad, các người con tin bị xữ bắn ngày 26 tháng 12 năm 1919, những người nạn nhơn đả bị tra tấn, tay chân đều bị đánh gảy, có nhiều người đả bị móc mắt. Ngày 14 tháng Giêng, trước khi rút lui, các người Bôn-sê-vít chỉ còn đủ thời gian để hành quyết 20 người trong số này có vị tổng giám mục Platon, những người này ở trong số 200 người mà họ còn bị bắt giam. Họ đả bị dùng bá súng và búa rìu đánh chết, có một số sĩ-quan đả bị lấy đinh sắt đóng hai chiếc cầu vai ( épaulette ) vào thân thể, các người bị giết này đả khó có thể nhận ra được dạng người ( difficilement identifiable ).

Tuy là đả ký hòa ước các người Bôn-sê-vít Nga vẫn tiếp tục tìm cách lôi kéo nước cộng hòa bé nhỏ này vào vùng quỷ đạo ảnh hưởng của họ. Tháng 4 năm 1924, đả diển ra một cuộc '' họp mật '' ở Moscou, giửa Zinoviev và các người cộng-sản Estonie để bàn thảo cách thức tạo nên một cuộc nổi loạn bằng vũ lực. Các người cộng-sản đả thâu nhận được lối 1000 người tổ chức thành nhiều đại đội với các cấu tạo căn bản và bắt đầu việc lũng đoạn cùng làm khủng hoảng tinh thần của quân lực Estonie. Họ dự định tạo một cuộc khởi loạn và một cuộc đình công để ủng hộ cuộc khởi loạn. Khi ấy đảng cộng-sản Estonie có khoảng 3000 đảng viên và họ bị đàn áp dử dội. Qua ngày 1 tháng 12 năm 1924, họ toan tính cướp chính quyền ở Tallin để tuyên cáo thành lập một Cộng-hòa Xô-viết với nhiệm vụ chính là xin gia nhập vào nước Nga Sô-viết, như vậy chứng minh được việc đưa Hồng-quân vào lãnh-thổ Estonie. Mưu toan này đả thất bại cùng trong ngảy đó. Trong khi mưu toan này đang diển tiến, các vị sĩ-quan đả đầu hàng các người nổi loạn hay là đả tỏ ra thái độ không theo bên nào liền bị xử bắn vì thái độ của họ: các người đảo chính không chấp nhận thái độ này, chỉ có người chịu theo họ thì được an toàn mạng sống. Người chỉ huy cuộc đảo chánh này là Jan Anvelt, đả tẩu thoát được sang Nga. Y là một cán bộ của tổ chức Komintern trong nhiều năm và đả '' biến mất '' sau các cuộc '' thanh trừng ''.

Sau nước Estonie, đến lượt nước Bulgarie. Năm 1923 tại nước này đả xảy ra nhiều cuộc rối loạn trầm trọng. Lãnh tụ đảng Điền-địa là Alexandre Stamboliski đả liên minh với các người cộng-sản, ông này đả bị ám sát vào tháng 3 năm 1923 và người thay thế ông ở ghế Thủ-tướng là Alexandre Tsankov, ông đả được sự ủng hộ và hổ trợ của quân đội và công an. Qua đến tháng 9, các người cộng-sản phát động một cuộc nổi loạn kéo dài trong vòng một tuần lễ và cuộc nổi loạn này đả bị đàn áp dử dội. Bắt đầu từ tháng 4 năm 1924, họ đổi chiến thuật và thi hành các hành động trực tiếp và tạo ra các cuộc ám sát. Ngày 8 tháng 2 năm 1925, họ tấn công vào quận Godetch và gây ra 4 người chết. Ngày 11 tháng 2, tại thủ đô Sofia, dân biểu Nikolas Mileff, giám đốc nhựt báo Slovet và là chủ tịch của nghiệp đoàn các ký giả, đả bị ám sát chết. Ngày 24 tháng 3 một bản tuyên cáo của đảng cộng-sản Bulgarie-BKP, đả báo trước là chính phủ của Tsankov sẽ không tránh khỏi được việc bị lật đổ, như vậy đả tiết lộ ra sự liên quan các hành động khủng bố với các mục tiêu chính trị của những người cộng-sản. Đầu tháng 4, một cuộc âm mưu ám sát vua Alexandre đệ nhất đả gần như thành công, và đến ngày 15 tháng 4, tướng Kosta Georghieff một người thân cận của vua đả bị ám sát chết.

Rồi một loạt biến cố khác đả xảy ra trong các năm bạo động về chính trị: Ngày 17 tháng 4, trong lúc cử hành tang lễ cho tướng Georghieff, ở tại nhà thờ Septs-Saints tại thủ đô Sofia, một tiếng nổ lớn đả xảy ra khiến cho các nóc chính của nhà thờ bị sụp đổ: người ta ghi nhận được biết: có 14 vị tướng, 16 vị sĩ-quan cao cấp, 3 nghị viên trong số 140 người chết. Theo lời tường thuật của Victor Serge thì chính phân chi quân sự của đảng cộng-sản Bulgarie đả tổ chức cuộc phá hoại giết người này. Các người thủ phạm chính là Kosta Iankov và Ivan Minkov. Họ đả bị giết chết vì đả chống cự lại lúc bị bắt, khi trên tay còn cầm vũ khí.

Sau khi lãnh chịu các cuộc thất bại tơi bời ở Âu-châu, tổ chức Komintern dưới sự thúc đẩy của Staline đả tìm ra một chiến trường mới, họ hướng các cố gắng của họ về nước Trung-quốc. Nước này đang ở vào một tình trạng hổn loạn, vì xảy ra các cuộc nội chiến và các cuộc tranh chấp xã-hội ; với đà tiến (élan ) của tinh thần quốc-gia, nước rộng bao la này hình như đả '' chín mùi '' cho cuộc cách mạng '' chống lại đế quốc ''. Dấu hiệu của thời đại: mùa Thu năm 1925 các người sinh-viên Trung-quốc đang theo học tại Đại-học cộng-sản của các công nhơn Phương-Đông KUTV, được thành lập vào tháng 4 năm 1921 được tập họp lại ở một viện Đại-học Sun Yat Sen ( Tôn-Dật-Tiên ). Hồ-Chí-Minh từ Pháp sang là học viên đầu tiên của KUTV.

Dưới sự huấn luyện của các vị lãnh tụ tổ chức Komintern và các cơ-quan sô-viết, các người cộng-sản Trung-quốc, vào lúc này Mao-Trạch-Đông chưa lãnh đạo đảng cộng-sản Trung-quốc, các người sinh-viên cộng-sản đả được khuyến khích liên minh chặc chẻ với đảng quốc-qia, đảng Quốc-dân và vị lãnh đạo của đảng này, là viên tướng trẻ tuổi Tưởng-Giới-Thạch. Chiến thuật mà các người cộng-sản đả chọn lựa là bao vây Quốc Dân Đảng để biến đảng này thành một con ngựa của thành Troie khi cuộc cách mạng được phát động. Người đặc phái của tổ chức Komintern tên Mikhaĩl Borodine đả đạt được chức cố vấn bên cạnh Tưởng-Giới-Thạch. Năm 1925, phe tả khuynh của Quốc-Dân-Đảng, phe này chủ trương hợp tác chặc chẻ với Liên-bang Sô-viết, phe này đả nắm được quyền lãnh đạo Quốc-Dân-Đảng. Các người cộng-sản gia tăng các cuộc tuyên truyền của họ, khuyến khích các cuộc sôi nổi về xã-hội để củng cố ảnh hưởng của họ, và gần như đả chế ngự được Đại-hội 2 của Quốc-Dân-Đảng. Nhưng chẳng bao lâu, một chướng ngại vật đả hiện ra trước mặt họ: Tưởng-Giới-Thạch đả lo âu trước sự bành trướng của ảnh hưởng cộng-sản. Ông đả kết luận và kết luận đúng là các người cộng-sản muốn loại ông ra khỏi cơ quan lãnh đạo. Ra tay trước, ngày 12 tháng 3 năm 1926 ông tuyên bố thiết quân luật, cho bắt giam các phần tử cộng-sản nằm trong lòng Quốc-Dân-Đảng luôn cả các vị cố vấn sô-viết, các người này được trả tự do vài ngày sau đó và bất tín nhiệm người cầm đầu các người thiên tả nằm trong đảng của ông, sau đó ông đưa ra một hiệp ước ( pacte ) gồm có 8 điểm để hạn chế các đặc quyền và các hành động cộng-sản trong lòng đảng. Tưởng-Giới-Thạch đả trở thành vị lãnh đạo, không thể chối cải được của quân lực quốc-gia. Đứng trước sự tương quan các lực lượng, Borodine đành phải chấp nhận.

Ngày 7 tháng 7 năm 1926, được viện trợ của Liên-Bang Sô-viết một số vũ khí quan trọng, Tưởng-Giới-Thạch liền phát động một cuộc Bắc phạt, ra lịnh cho các đạo quân quốc-gia tiến công vào các vùng Bắc nước Trung-quốc còn nằm dưới quyền các vị sứ quân. Ngày 29 tháng 5, ông tuyên bố thiết quân luật ở Quảng-châu. Các vùng nông thôn thuộc các tỉnh Hồ-Bắc và Hồ Nam, đả là các con mồi cho cuộc cách mạng điền địa và do tình cách hiếu động ( dinamique ) đả đặt lại vấn đề liên minh giữa các người cộng-sản và các ngươbi quốc-gia. Trong các thành phố lớn vào thời đó có nhiều cơ xưởng quan trọng, các nghiệp đoàn đả kêu gọi đình công như thành phố Thượng-Hải, khi các lực lượng quân đội tiến quân đến gần các thành phố này. Các người cộng-sản trong số này có ông Chu Ân-Lai đả kêu gọi nổi loạn, hy vọng là quân lực quốc gia sẽ tiến mau vào các thành phố. Nhưng không có việc gì xảy ra. Cuộc nổi loạn ngày 22, 24 tháng 2 năm 1927 đả thất bại và các người đình công đả bị viên tướng Li Baozhang đàn áp dử dội.

Ngày 21 tháng 3, một cuộc tổng đình công lớn đả diển ra và một cuộc nổi loạn lớn đả lật đổ chính quyền tại chổ. Một sư đoàn của Quốc quân với vị tướng chỉ huy đả nhận định là cần phải can thiệp, đả ra lịnh tiến quân vào Thượng-Hải và vị tướng này đả được Tưởng-Giới-Thạch tiếp tay và quyết định nắm lại tình thế. Họ đả thành công và Staline đả bị bao vây bởi những ám ảnh các chiều hướng '' chống đế quốc '' của Tưởng-Giới-Thạch và nơi quân đội quốc-gia của ông ; vào cuối tháng 3, ông đả ra lịnh chôn dấu vũ khí và tiếp tục đường lối chung với Quốc-Dân-Đảng. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng-Giới-Thạch cho tái diển lại Quảng-Châu cục hành quân mà ông đả thi hành ở Thượng-Hải: các người cộng-sản bị truy bắt và bị bắn hạ.

Nhưng Staline cần phải thay đổi chính sách vào lúc thời điễm đang vào lúc đen tối ; để khỏi phải mất mặt trước các lời chỉ trích của những người đối lập, ông đả phái đi hai người thân cận, Vissarion Lominadze và Heinz Neumann để tái phát động lại phong trào nổi loạn, sau khi đả dứt bỏ '' liên minh với Quốc Dân Đảng ''. Mặc dầu bị thất bại do cuộc '' nổi loạn vào mùa gặt mùa Thu '' do 2 phái viên nói trên chủ đạo, họ vẩn kiên trì để tạo được cuộc nổi loạn ở Quảng-Châu để có thể, theo như nhận thức của Souvarine là tạo cho vị thủ lãnh một bản tin thắng trận, vào cùng lúc đại hội thứ 15 của đảng Bôn-sê-vít được họp và Staline đả nhơn dịp này khai trừ các người đối lập với ông. Thủ đoạn này ( manoeuvre ) đả cho thấy rỏ cường độ của việc coi rẻ mạng sống của con người, mà nhiều người Bôn-sê-vít đả thực hành dù là đối với các người cùng phe hay thân họ và đây củng là một việc mới mẻ. Việc tạo dựng một cách vô ý thức Công-Xã Quản-Châu đả chứng minh cùng một ý nghĩa và củng không khác gì các hành động khủng bố đả xảy ra ở Bulgarie vài năm trước đó.

Vài ngàn người nổi loạn đả phải chiến đấu ròng rả trong 48 giờ đồng hồ để đương đầu lại một lực lượng đông hơn họ gấp 5 hay 6 lần, tính về nhơn số. Công-xã ở Trung-quốc đả không được chuẩn bị trước: từ số vũ khí không đủ và nằm vào một hoàn cảnh chính trị bất lợi, các công nhơn người Quảng-Đông chỉ còn sống trong tình cảnh chờ đợi. Trong buổi tối đêm 10 tháng Chạp năm 1927, các lực lượng trung tín đả tiến chiếm vị trí tại các nơi tập họp đả được dự định trước cho các vệ binh đỏ. Củng giống như những gì đả xảy ra tại Hambourg, các người nổi loạn đả hưởng được các lợi điễm của các sáng kiến nhưng các lợi điễm này mất dần dần. Trong buổi sáng ngày 12 tháng Chạp, việc tuyên cáo thành lập một '' cộng-hòa sô-viết '' không gây được một tiếng vang nào ở trong dân chúng. Trong buổi trưa, các lực lượng thuộc quân lực Quốc-Dân-Đảng bắt đầu phản công. Sau hai ngày, lá cờ đỏ được treo trên mái nhà của cơ quan công an được kéo xuống. Cuộc đàn áp đả diễn ra một cách man rợ và đả có nhiều ngàn người bị giết.

Tổ chức Komintern cần phải đúc kết những bài học của những cuộc thử nghiệm này, nhưng khó có thể cho họ bàn đến các vấn đề chính trị căn bản. Một lần nửa, sự bạo động đả được chứng minh đối với và chống tất cả bằng các danh từ đả được thuấn nhuần trong một nền văn hóa nội chiến, cho các người cán bộ cộng-sản. Được đọc trong: Võ trang bạo động nơi câu dẩn nhập của một lời kiểm thảo khủng khiếp với một lời kết thúc rỏ ràng: '' Người ta đả không chú ý đến việc loại bỏ các người phản cách mạng xuốt trong thời gian của Công xã Quản-châu, người ta chỉ giết có lối 100 người, nằm ở trong tay các người nổi loạn. Tất cả các người bị bắt giam chỉ bị hành quyết sau khi được một ủy ban chống lại bọn phản động. Trong lúc đang giao tranh và giửa cuộc nổi loạn, hình thức tố tụng đả quá chậm chạp và bài học này đả được ghi nhớ ''.

Sau cuộc thãm bại này, các người cộng-sản rút lui ra khỏi các thành phố và tái tổ chức lại ở các vùng xa xôi của nông thôn và khởi đầu vào năm 1931, tổ chức ở các vùng Hồ-Nam Giang-Tây các '' vùng giải phóng '' được sự che chở của một đạo quân đỏ. Một tư tưởng chế ngự các người cộng-sản Trung-quốc là: hảy còn quá sớm cho cuộc cách mạng diễn ra, trước tiên là vấn đề quân sự, đề cử ra việc tạo các cơ cấu chính trị bộ máy quân sự cho đến khi Mao-Trạch-Đông đủ tóm tắc công thức lừng danh của ông: Quyền lực và mủi súng tạo ra, các diển tiến về sau này đả chứng tỏ rằng đó là các tinh túy mà nhản quan của cộng-sản dùng để nắm lấy quyền lực hay duy trì quyền lực này.

Nhưng với các thất bại liên tiếp ở Âu-Châu trong các năm đầu của thập niên 1920, và cuộc thãm bại ở Trung-quốc đả không làm sờn lòng các người lãnh đạo tổ chức Komintern để đeo đuổi đường hướng. Tất cả cáác đảng cộng-sản, gồm cả các đảng hợp pháp ở các nước dân chủ đýu có trong lòng họ ( en son sein ) một bộ máy quân sự bí mật, và có thể sẽ công khai ra mặt nếu trường hợp cho phép. Khuôn mẫu của KDP ở Đức-quốc và được đặt dưới sự kiễm soát chặt chẻ của các cố vấn quân sự sô-viết, đả tổ chức một '' M. (militar ) Apparat '' có nhiệm vụ thủ tiêu các ngườbi lảnh tụ đối lập ( dành riêng cho các người đối lập cực hữu ) và các tên '' mật thám chỉ điểm '' ( mouchard ) len lỏi vào hàng ngủ của đảng cộng-sản. Họ củng có nhiệm vụ huấn luyện và chỉ huy các toán bán quân sự, các đội Rote Front ( mặt trận đỏ ) và họ có hàng ngàn đảng viên. Sự thật là trong thời điễm của nền cộng-hòa Weimar các cuộc bạo động về chính trị được coi là đả diển ra toàn diện ; và nếu các người cộng-sản đả chiến đấu chống lại các phần tử cực hữu và phong trào Quốc xã đang chớm vươn lên, họ không ngần ngại gì mà không tấn công các cuộc tập họp xuống đường của các người thuộc đảng xã-hội mà họ đả gán cho danh từ: các người xã-hội phản bội và các người xã-hội phát xít. Họ củng tấn công các nhơn viên cảnh sát, các cộng hòa mà họ coi là phản động và củng là phát-xít. Các diễn biến xảy ra sau năm 1933, đả cho biết ai là kẻ '' phát-xít thứ thiệt '' đó là phong trào Quốc-xã và nếu họ khôn ngoan hơn, họ cần phải liên-minh với các người thuộc đảng xã-hội để chống giữ một nền dân chủ mà họ gọi là của các người tư-sản trưởng giả. Nhưng các người cộng-sản đả từ khước nền dân chủ này.

Ở nước Pháp không khí chính trị trầm lặng hơn, đảng cộng-sản Pháp PCF củng có tạo lập các toán võ trang. Một ủy viên thuộc bộ chính trị trung ưöng tên Albert Treint được giao phó nhiệm vụ này. Trong thời chiến tranh ông đả mang chức Đại-úy của quân lực Pháp và ông có nhiều khả năng về quân sự. Ngày 11 tháng Giêng năm 1924 nhơn dịp một nhóm ngưới vô chính phủ ( anarchiste ) phản đối chống lại một cuộc mít-ting của đảng cộng-sản Pháp tổ chức, Albert Treint đưa toán tổ chức võ trang xông vào diễn đàn để can thiệp, họ đả chỉa súng lục và bắn vào các người chống đối: kết quả có 2 người chết và có nhiều người bị thương! Vì không có bằng chứng, không có một kẽ sát nhơn nào bị truy tố. Hơn một năm về sau, một vụ tương tợ lại xảy ra: Ngày thứ năm 23 tháng 4 năm 1925, vài ngày trước ngày bầu cử các thị xã, các lực lượng giử trật tự của đảng cộng-sản Pháp đả đến phá rối lúc tan cuộc họp bầu cử, của các toán thanh niên ái quốc, một tổ chức của phe cực hữu, ở trong quận 18 Paris, đường Damrémont. Vài người lãnh đạo có võ trang và không ngần ngại gì mà không dùng đến súng. Ba người lãnh đạo của các thanh niên ái-quốc bị bắt giữ và cảnh sát đả đến khám xét các nơi cư ngụ của các nhà lãnh đạo cộng-sản.

Mặc dầu gặp các khó khăn, đảng cộng-sản Pháp vẫn duy trì đường lối. Năm 1926, đảng ũy nhiệm cho Jacques Duclos, một dân biểu cộng-sản vừa được trúng cử và được hưởng quyền miễn truy tố nghị trường, đứng ra thành lập các toán '' tự vệ chống phát-xít '' gồm các cựu chiến binh của trận chiến 1914-1918 và các vệ-binh chống phát-xít gồm các thanh niên cộng-sản ; các tổ chức bán quân sự này được tổ chức theo khuôn mẫu của Rote Front của Đức và ngày 11 tháng 11 năm 1926 đả diển hành và vận đồng phục. Song song Jacques Duclos tổ chức các cuộc tuyên truyền chống lại chủ nghĩa quân sự và cho phát hành một nguyệt san tên '' người chiến sĩ đỏ '', nguyệt san này huấn luyện về nghệ thuật nội chiến, mô tả và nghiên cứu cách chiến đãu trong thành phố, trên các đường phố v.v.. Năm 1913 tồ chức Komintern cho phát hành với nhiều thứ tiếng khác nhau, quyển sách: '' nổi loạn võ trang '', dưới bút ký Neuberg nhưng thực sự là một việc làm của tập thể các người lãnh đạo sô-viết: Cuộc nổi loạn ở Tallin do tướng Iossif Ounschlicht, phân tích và nghiên cứu, cuộc nổi loạn ở Hambourg do Hans Kippenberger phụ trách, cuộc nổi loạn ở Quảng-châu do tướng Vassili Blücher và Hồ Chí Minh và củng đả đề cập đến việc các người nông dân nổi loạn khởi đầu từ năm 1920 ; quyển sách này được tái xuất bản ở Pháp vào năm 1934. Và khi ở Pháp đả diển ra '' khúc quẹo '' về chính trị vào năm 1934 với việc thành lập Mặt trận bình dân ( Front populaire ) và vì vậy vai trò căn bản của '' việc bạo động '' trong thực hành chủ nghĩa căn bản, đả tạm thời được xếp vào loại hai, nhưng không vì vậy mà làm giảm bớt việc thi hành bạo động. Tất cả các sự chứng minh của các hành động bạo động, việc thi hành hàng ngày các sự thù ghét về giai cấp, việc lý thuyết hóa nội chiến và các cuộc khủng bố đả gặp được môi trường thuận lợi để '' nảy sinh '' với cuộc chiến tranh ở Espagne xảy ra vào năm 1936. Tổ chức Komintern đả gởi qua đây rất nhiều cán bộ và các người cán bộ này đả nổi tiếng trong các việc đàn áp của người cộng-sản.

Tất cả các việc tuyển lựa, huấn luyện và sửa soạn cho các người cán bộ bản xứ để tổ chức các cuộc nổi loạn vỏ trang trong tương lai đều được thực hiện với việc liên lạc chặc chẻ của cơ quan mật vụ sô-viết hay nói đúng hơn với cơ quan mật tên GROu, tên viết tắt của Glavsnoe Razvedatelnoe Oupravlenie, hay là Tổng Nha Trung Ương Tình-Báo, đả được thành lập dưới sự che chở của Strotski với sự giám sát của phòng Đệ Tứ của Hồng-Quân và trong các sách vở bằng tiếng Anh được biên là GRU. Cơ quan này không bao giờ ngừng việc '' giáo dục '' là dù ở trong nhiều trường hợp đả bắt buộc họ phải rút lui đại qui mô. Việc đáng ngạc nhiên là các cán bộ trẻ tuổi được sự tin cậy của đảng cộng-sản Pháp, vào đầu các năm của thập niên 1970 còn được gởi sang Liên-bang Sô-viết, để thụ huấn các lớp dạy cách xữ dụng các vũ khí thông thường ( tập bắn, tháo ráp và xữ dụng các loại vũ khí ) chế tạo các vũ khí thô sơ, các kỹ thuật phá hoại, các kỹ thuật truyền tin ; do các toán thuộc lực lượng đặc biệt sô-viết tên Spetsnaz phụ trách, các toán này được đặt dưới quyền xữ dụng của các cơ quan mật vụ sô-viết. Ngược lại, cơ quan GROu có sẳn các người chuyên môn về quân sự và sẳn sàng phái các người này sang phục vụ các đảng cộng-sản anh em khi nào cần. Một thí dụ: Alfred Stern người gốc Áo-Hung đả được biệt phái qua phục vụ '' M. Apparat '' thuộc đảng KPD để tổ chức cuộc nổi loạn ở Hambourg vào năm 1923. Sau y được phái sang hoạt động ở Trung-quốc và ở Mản-châu trước hki mang tên là '' tướng Kléber '' chỉ huy Trung đoàn Quốc-tế đả nổi danh trong trận nội chiến xảy ra ở Espagne.

Các bộ máy quân sự bí mật này với các thành viên không phải là những '' thiếu niên ngây thơ ở các giáo đường ''. Họ là những con người gần như là các giới kẻ cướp ( bandit ) và các toán người này họp lại thường trở thành các đảng ăn cướp. Một trong các việc điển hình đả xảy ra vào cuối các năm thuộc thập niên 1920: Các toán vệ binh đỏ, hay các trung đội đỏ của đảng cộng-sản Trung-quốc. Họ đả hoạt động ở thượng hải lúc ấy được coi là trung tâm khủng bố của đảng. Dưới sự chỉ huy của Gu Shunzhang, một tên cựu đạo tặc thuộc hội kín Thanh-đảng ( bande verte ), một băng đảng mafia mạnh nhứt trong hai băng đảng đang lộng hành vào thời đó ở Thượng-hải-Shanghai, các thuộc hạ của Gu đả đương đầu với các toán áo sơ mi màu lam, một tổ chức thanh niên của Quốc dân đảng theo khuôn mẫu của phát-xít, trong các trận đánh đáng nghi ngờ, khủng bố chống lại khủnh bố, phục kích chống lại phục kích, các vụ ám sát cá nhơn chống lại ám sát cá nhơn. Tất cả đều được hưởng sự giúp đở sự giúp đở của tòa Lãnh sự Liên-bang Sô-viết ở Shanghai và tòa Lãnh-sự này củng có các người chuyên môn về các vấn đề quân sự như tên Gorbatiouk cùng các tên khác để thi hành các lệnh dơ dáy.

Năm 1928, các thuộc hạ của Gu đả thủ tiêu một đôi vợ chồng lãnh tụ theo y đả trở cờ về phe công-an: trong khi họ đang ngủ, đó là He Jia Xing và He Je Hua bằng cách bắn đầy người họ trên chiếc giường ngủ. Để làm lấn áp tiếng nổ súng, họ đả cho đót một tràng pháo ở ngoài đường. Và trong lòng đảng, để loại những người chống đối họ cũng đả dùng những phương pháp tương tợ. Chỉ cần các lời tố cáo là cũng đủ để bị giết chết ngay. Ngày 17 tháng Giêng năm 1931, quá giận vì đả bị mưu mô của Pavel Mif, đại diện tổ chức Komintern, cùng với các người lãnh tụ còn trung thành với Moscou, lãnh tụ He Meng Xiong cùng với lối 20 đồng chí thuộc '' phân bộ công nhơn '' đả hội họp ở nhà hàng Đông Phương ở Shanghai. Họ vừa khởi đầu cuộc thảo luận thì các công an viên cùng với các nhơn viên của văn phòng Trung-ương Điều tra của Quốc-dân đảng tên Diaocha tonzhi ập vào, tay cầm vũ khí và bắt tất cả bọn. Các người quốc gia đả được một tên vô danh báo cho biết nơi họp.

Tháng 4 năm 1931, Gu đào ngủ và trở về hàng ngũ của Thanh-đảng ( bande verte ) cùng với việc y đầu hàng Quốc Dân đảng ( y đả gia nhập tổ chức so-mi-xanh ), một ủy-ban đặc biệt do 5 người lãnh tụ cộng-sản đả được thành lập để nối tiếp các hoạt động ở Shanghai. Ủy ban này gồm có Kang Sheng, Guang Huian, Pan Hannian, Chen Yun et Ke Qingshi.

Đến năm 1934, tất cả các cơ quan, của cộng-sản Trung-quốc trong thành phố Shanghai, đả bị phá vở hoàn toàn. Hai lãnh tụ các toán võ trang là Ding Mocun và Li Shiqun đều bị lần lượt lọt vào tay Quốc-Dân đảng. Họ chịu đầu hàng, và sau đó đến năm 1937, khi quân đội Nhật chiếm đóng thành phố này họ quay sang phục vụ cho người Nhật. Cả hai đều chết thê thãm Ding Mocun bị xữ bắn vào năm 1947 với tội '' phản quốc '' còn Li Shiqun bị viên sĩ quan Nhật mà y phục vụ, đả thuốc độc giết y. Còn về phần Kang Sheng từ năm 1949 đến năm y chết vào năm 1975 là viên chỉ huy cơ quan công an mật vụ của chế độ Mao-Trạch-Đông và là một trong những tay đao phủ chính chống lại nhơn dân Trung-quốc dưới chính quyền cộng-sản.

Việc thường xảy ra là các đảng viên của các đảng phái khác và các đảng viên của đảng cộng-sản thường được các cơ quan sô-viết đặc biệt chiếu cố để dùng vào các dịch vụ đặc biệt mà họ cần thi hành. Đó là vụ Koutiepov đả diễn ra: Năm 1924, Đại Quân Công Nicolas, người được coi là có thể kế vị Nga Hoàng đả gọi tướng Alexandre Koutiepov đến Paris để chỉ huy ũy ban liên họp tổng quát quân sự ( ROVS ). Đến năm 1928 cơ quan Guépou quyết đînh làm tan vỡ ũy ban ROVS. Ngày 26 tháng Giêng tướng Koutiepov mất tích. Có nhiều tin đồn được đưa ra và củng có nhiều tin do các người sô-viết tung ra. Hai cuộc điều tra độc lập đả cho biết ai là kẻ chủ mưu của vụ bắt cóc: Cuộc điều tra của người đảng viên cao niên thuộc đảng xã-hội Nga là Vladimir Bourtzev, ông này đả trở nên lừng danh khi ông lột mặt nạ tên Evno Azev, một nhơn viên của cơ quan Okhrana đả len lỏi vào cấp lãnh đạo của tổ chức tranh đãu của các người xã-hội cách mạng và cuộc điều tra của ký giả Jean Delage thuộc tờ báo Tiếng Vang của Paris ( l'Écho de Paris ). Delage đả cho biết là tướng Koutiepov đả bị bắt cóc và đưa ra Houlgate, một thành phố ở bờ biển Manche và chuyển xuống một chiếc tàu sô-viết tên là Spartak và chiếc tàu này đả rời bến vào ngày 19 tháng 2. Từ đó không còn ai biết viên tướng này ra sao? Ngày 22 tháng 9 năm 1965 viên tướbng sô-viết Chimanov đả thuật lại tất cả diển biến của việc này mà ông biết người phụ trách, tờ báo Ngôi Sao Đỏ của Hồng-quân đả cho biết tên của người chịu trách nhiệm: Serguei Pouzitski, ngoài việc tham dự việc bắt giam tên ăn cướp Savinkov đả oai nghiêm chỉ huy việc bắt cóc tướng Koutiepov và nhiều vị chỉ huy khác của Bạch quân. Tổ chức các người di cư tị nạn cộng-sản đả bị các nhơn viên của cơ quan Guépou xâm nhập: Từ năm 1929, cựu Bộ-trưởng chính phủ của Đề-đốc Koltchak thuộc Bạch-quân, tên là Serguei Nicolavevitch Trétiakov đả bí mật gia nhập hàng ngũ sô-viết và dưới bí số UJ/1 và tên mật mã là Ivanov. Nhờ những tin tức và các chi tiết của Trétiakov đả thông báo cho viên chức liên lạc với y, người này tên là Vetchinkine, Moscou đả nắm vững những cuộc di chuyển của tướng Koutiepov. Một toán còm măng đô đả chận xe của viên tướng này ngay giữa các đường phố dưới dạng là một cuộc kiễm soát của cảnh sát. Một người Pháp tên là Honel, làm nghề sửa xe hơi ở Levallois-Perret đả hóa trang bận sắc phục của cảnh sát lưu thông đả yêu cầu tướng Koutiepov đi theo y. Một người Pháp khác đả dính líu vào vụ này tên là Maurice Honel, em của tên nói trên, đả có liên lạc với mật vụ sô-viết. Tên Maurice Honel đả trúng cử dân biểu cộng-sản vào năm 1936. Koutiepov đả từ chối quy thuận, ông đả bị đâm chết bằng một lưởi dao găm và sác của ông được chôn ngay ở dưới hầm xưởng sửa xe của tên Honel.

Người thừa kế củba Koutiepov làb tướng Miller, ông có người phụ tá là tướng Nikolai Skobline, lại là một nhơn