PHẦN 1 Những người cuối cùng thấy họ còn sống
PHẦN 1
những người cuối cùng thấy họ còn sống
àng Holcomb nằm trên những bình nguyên cao trồng lúa mì Tây Kansas, một vùng hẻo lánh mà người Kansas ở nơi khác gọi là “ở ngoài đó.” Cách ranh giới Colorado chừng bảy chục dặm về phía Đông, với bầu trời xanh gắt gay và khí trời trong veo của sa mạc, đồng quê ở đây nom có vẻ Viễn Tây hơn là Trung Tây. Tiếng địa phương khê nặc một giọng mũi người đồng cỏ, một giọng mũi của người chăn gia súc, và đàn ông thì nhiều người mặc quần biên giới chật, đội mũ cao bồi và đi ủng cao góc nhọn mũi. Đất bằng và thẳng tít cánh cò bay trước mắt; ngựa, những bầy gia súc, một cụm trắng những máy chuyển hạt ngũ cốc nổi lên duyên dáng như những ngôi đền Hy Lạp mà lữ khách nhìn thấy mãi từ lâu rồi mới tiến lại được gần.
Cũng có thể nhìn thấy Holcomb từ rất xa như vậy. Chẳng phải có nhiều thứ để mà nhìn - đơn giản là một tập hợp lộn xộn những ngôi nhà bị tuyến chính của đường xe lửa Santa Fe cắt ra ở giữa, một chòm xóm rủi thế nào bị bít lại ở phía Nam bởi dải nước màu nâu của sông Arkansas, ở phía Bắc bởi một xa lộ, đường số 50, còn ở phía Đông và phía Tây thì bởi đồng cỏ cùng đồng lúa mì. Sau cơn mưa hay khi tan băng, những đường phố không tên gọi, không bóng cây, không đá lát liền biến từ lầm bụi nhất sang bùn lầy kinh hoàng nhất. Ở một đầu thị trấn lù lù một tòa nhà trát vữa, cũ kỹ, trần trụi mái đỡ một bảng hiệu bằng điện - KHIÊU VŨ - nhưng khiêu vũ đã ngừng và bảng quảng cáo đã nhiều năm tối om. Gần đó là một tòa nhà khác, với bảng hiệu chẳng ăn nhập, bằng chữ vàng đã bong trên kính cửa sổ bẩn thỉu - NGÂN HÀNG HOLCOMB. Ngân hàng đóng cửa năm 1933, và các quầy thu tiền trả tiền trước đây được chuyển thành các căn hộ. Đó là một trong hai “nhà căn hộ” của thị trấn, cái thứ hai là một tòa nhà xiêu vẹo được gọi là Sở Thầy Cô, vì phần lớn giáo viên của trường học địa phương ngụ tại đó. Nhưng đa số nhà ở Holcomb là nhà doanh nghiệp kiểu một tầng gác với cổng phía trước.
Xuống dưới, gần ga xe lửa, bà chánh bưu điện, một người đàn bà gầy oặt mặc áo da thô và quần vải bò, ủng cao bồi, chủ trì một nhà bưu điện nằm tách biệt ra. Với nước sơn màu acid sulfuric đã bong thóc, bản thân nhà ga cũng tẻ buồn như vậy; ông Xếp, Ông Xếp Chánh, ông El Capitan[1] hằng ngày tới đó, nhưng các chuyện tàu tốc hành được trọng vọng thì chẳng bao giờ dừng lại ở đây. Các tàu khách cũng vậy, chỉ thỉnh thoảng có một chuyến tàu hàng. Lên trên đằng xa lộ, có hai trạm xăng, một kiêm luôn cửa hàng tạp hóa cung cấp vài thứ ít ỏi, còn một thì kèm thêm quán cà phê - Quán cà phê Hartman, ở đó, bà Hartman chủ quán có bán bánh kẹp thịt, cà phê, các thức uống nhẹ và bia 3,2[2]. (Giống như các nơi khác ở Kansas, Holcomb “khem rượu”).
Và thật sự, đó là tất cả. Trừ phi bạn tính cả, như người ta cần phải tính. Trường Holcomb, một cơ sở đẹp đẽ, nó để lộ ra một hoàn cảnh mà bề ngoài của cộng đồng che giấu đi: rằng các ông bố bà mẹ cho con đến ngôi thường “được củng cố” hiện đại và khéo bố trí nhân sự này - các lớp có từ vườn trẻ đến trung học phổ thông, và một hạm đội xe buýt chuyên chở học sinh, thường là vào khoảng ba trăm sáu chục em, ở cách đó chừng mười sáu dặm - nói chung, đều là người giàu có. Là chủ trại chăn nuôi, phần lớn họ là dân thích ở ngoài trời thuộc các gốc rễ rất đa dạng - Đức, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Mexico, Nhật. Họ chăn nuôi gia súc, cừu, trồng lúa mì, kê milo, cỏ cảnh và củ cải đường. Làm nông luôn là một công việc may rủi, nhưng ở mạn Tây Kansas người làm ruộng lại tự coi mình là “đám cờ bạc bẩm sinh” vì họ phải bằng lòng với một lượng mưa cực thấp (mỗi năm bình quân tám centimet) và tưới nước luôn luôn là một việc trần ai khoai củ. Tuy nhiên bảy năm vừa qua là những năm được hưởng lợi nhờ không hạn hán. Các chủ trại chăn nuôi ở hạt Finney, mà Holcomb trực thuộc, đã làm ăn tốt; tiền kiếm ra không chỉ từ làm trang trại mà còn do khai thác các nguồn khí đốt thiên nhiên dồi dào, và thu hoạch của nơi này được phản ánh ở ngôi trường mới, nội thất thoải mái của các nhà ở trong trang trại, các dây chuyền hạt ngũ cốc căng phồng, dựng đứng.
Mãi cho tới một buổi sáng giữa tháng Mười một năm 1959, ít người Mỹ - thật ra ít cả người Kansas - nghe nói đến Holcomb. Như nước sông, như những người lái xe trên xa lộ, và như những đoàn tàu màu vàng di chuyển xuôi đường sắt Santa Fe, thảm kịch, dưới dạng những biến cố khác thường, chưa từng dừng đỗ ở đây bao giờ. Dân làng, đếm đầu được hai trăm bảy chục, mãn nguvện với cái đang diễn ra như thế, khá bằng lòng sống cuộc sống bình thường - làm lụng, săn bắn, xem ti vi, dự liên hoan nhà trường, hát lễ ở nhà thờ, họp Câu lạc bộ 4-H. Vậy mà rồi, vào giờ phút tinh mơ của cái buổi sáng tháng Mười một đó, một buổi sáng Chủ nhật, vài tiếng động khác lạ đã vấy phạm vào những thanh âm đêm thường lệ của Holcomb - vào cơn phát rồ ai oán khóc của những con chó sói đồng cỏ, vào tiếng sột soạt khô cong của cây cỏ lăn vội vã cuốn theo gió, vào tiếng than vãn ầm ầm lao tới rồi lùi xa của còi đầu máy xe lửa. Lúc bấy giờ chẳng một ai say ngủ ở làng Holcomb nghe thấy những tiếng động đó - bốn phát súng nổ, tóm lại đã kết liễu sáu mạng người. Nhưng sau đó dân thị trấn, vốn xưa nay chả mấy khi sợ sệt lẫn nhau đến phải khóa chặt cổng ngõ, nay thời cứ mường tượng lại hoài hoài âm thanh ấy, những phát súng nổ âm thầm vốn đã kích phát ngọn lửa nghi kỵ, ngọn lửa mà trong ánh lấp lóa của nó nhiều bà con chòm xóm lâu đời giờ đây nhìn nhau kỳ quặc, tựa hồ những kẻ xa lạ.
Chủ nhân của Trại Lũng Sông, Herbert William Clutter, đã bốn mươi tám tuổi. Do kết quả khám sức khỏe mới đây để mua bảo hiểm, ông được biết mình thuộc vào loại nhất. Tuy đeo kính không gọng và chỉ cao trung bình, đứng vừa dưới mốt mét bảy lăm, ông Clutter nom vẫn đường đường một đấng trượng phu. Vai rộng, tóc giữ nguyên màu sẫm, khuôn mặt tự tin, quai hàm vuông nở để hiện ra sức trẻ hừng hực, răng trắng bóng và chắc, còn đủ hết, có thể cắn vỡ được quả óc chó. Ông nặng bảy lăm ký hai - đúng cái trọng lượng ngày ông tốt nghiệp ở Đại học Bang Kansas, nơi ông học khoa Nông nghiệp. Ông không giàu bằng người giàu nhất Holcomb - ông Taylor Jones, ông hàng xóm chủ trại chăn nuôi. Nhưng ông lại là công dân được biết đến nhiều nhất của cộng đồng, nổi bật cả ở đây lẫn ở Garden City, thủ phủ gần bên của hạt, tại đó ông đã lãnh đạo ủy ban xây dựng cho Nhà thờ Giám lý Thứ nhất mới được hoàn thành, một công trình trị giá tám trăm nghìn đô la. Ông đang là chủ tịch của Hội nghị về Các Tổ chức Nông trại Kansas, tên tuổi ông được thừa nhận và kính trọng trong giới các nhà nông học miền Trung Tây, cũng như ở một vài cơ quan tại Washington, nơi ông từng là thành viên của Sở Tín dụng Nông trại Liên bang, thời Eisenhower làm tổng thống.
Luôn biết chắc mình muốn cái gì của thế gian, ông Clutter có nhiều cách thức để đạt được cái đó. Trên bàn tay trái, cái bàn tay còn lại một ngón bị một chiếc máy nông trại làm cho sứt sẹo, ông đeo cái lắc bằng vàng ròng, biểu tượng có tuổi đời một phần tư thế kỷ của cuộc hôn nhân của ông với người ông muốn cưới - em gái một bạn học thời cao đẳng, một cô gái nhút nhát, sùng đạo, thanh tú tên gọi Bonnie Fox, trẻ hơn ông ba tuổi. Bà đã cho ông bốn người con - một bộ ba cô con gái rồi một cậu con nai. Cô gái lớn Eveanna, đã có chồng và là mẹ của một nhóc trai mười tháng, sống ở Bắc Illinois nhưng đến thăm Holcomb luôn. Quả thật, bố mẹ cô đang mong chờ cả gia đình nhỏ của cô bởi hai ông bà đã định tổ chức một cuộc đoàn tụ ra trò của cả họ nhà Clutter nhân dịp lễ Tạ ơn (từ nước Đức ra đi, người di dân đầu tiên của họ Clutter - hay Klotter, hồi đó cái tên này viết thế - đã đến đây vào năm 1880); năm chục người họ hàng đã được mời, nhiều người từ những vùng xa như Palatka, Florida. Beverly, đứa con sát kề với Eveanna thì không còn sống ở Trại Lũng Sông nữa; cô đang ở Kansas City, Kansas, học lớp nữ y tá. Beverly đã đính ước với một sinh viên trẻ tuổi khoa Sinh, bố cô rất ưng anh này; thiếp mời dự hôn lễ định vào tuần Nôen đã được in xong xuôi. Người còn lại vẫn sống ở nhà là cậu con trai Kenyon, mới mười lăm tuổi mà đã cao hơn ông Clutter, và cô chị lớn hơn cậu một tuổi - Nancy, cô bé cưng của cả thị trấn.
Về gia đình, ông Clutter chỉ có một lý do quan trọng phải bận tâm - sức khỏe của bà vợ. Bà “thần kinh yếu”, bà “hơi man mát” - những người gần gũi bà dùng những lời che đậy như vậy. Chẳng phải vì “những nỗi khổ của Bonnie tội nghiệp” là điều bí mật gì; ai cũng biết trong nửa chục năm qua bà là một bệnh nhân tâm thần lúc ốm lúc không. Nhưng mới gần đây ánh mặt trời cũng đã lóe lên ngay cả trên miếng đất tăm tối ấy. Thứ Tư vừa rồi, từ Trung tâm Y tế Wesley ở Wichita, nơi ẩn dật quen thuộc, trở về sau hai tuần điều trị, bà Clutter đã mang về những tin tức khó tin để nói với chồng; bà vui mừng báo rằng nguồn gốc nỗi khổ của bà, như ý kiến của y sĩ cuối cùng đã cho hay, nằm ở cột sống của bà chứ không phải trong đầu - nó thuộc về cơ thể, là do một đốt sống bị chệch. Dĩ nhiên, bà sẽ phải qua giải phẫu, nhưng rồi sau đó bà sẽ lại là “cái Tôi xưa” của mình. Các thứ căng thẳng, lánh ẩn, tiếng nức nở câm lặng vùi vào gối sau cánh cửa khóa chặt - tất cả có thể lại vì mỗi cái xương lưng nó mất trật tự thôi à? Nếu thế thật thì khi nói chuyện với khách khứa trong lễ Tạ ơn, ông Clutter có thể đọc nguyên vẹn một bài kinh về lòng biết ơn.
Theo lệ, buổi sáng của ông Clutter bắt đầu từ sáu rưỡi; đánh thức ông dậy thường thường là tiếng lanh canh của các xô sữa, tiếng thì thào chuyện trò của đám trẻ đem sữa đến, hai đứa con trai của một người làm mướn tên là Vic Irsik. Nhưng hôm nay ông còn nằm nấn ná, để cho bọn trẻ nhà Irsik đến rồi đi, vì tối qua, thứ Sáu ngày 13, là một tối mệt tuy cũng có phần vui vẻ. Bonnie đã sống lại “cái Tôi xưa” của bà; tựa như để báo trước cho sự bình thường trở lại, cái sinh lực tràn trề mà chẳng mấy nữa bà sẽ có lại, bà đã bôi son môi, đánh vật với bộ tóc, rồi mặc bộ váy mới đi cùng với ông tới Trường Holcomb, ở đó ông bà đã vỗ tay hoan nghênh buổi diễn vở Tom Sawyer của học trò, trong đó Nancy sắm vai Becky Thatcher. Ông vui thích thấy Bonnie ra trước mọi người, căng thẳng nhưng tươi cười, trò chuyện với thiên hạ và cả hai ông bà đều tự hào về Nancy, cô đã diễn hay thế, nhớ hết không sót câu nào và, như ông đã khen cô ở sau cánh gà, trông “Đẹp thật - đúng là một Nam phương Mỹ nữ, con gái yêu ạ.” Nhân đó, Nancy đã xử sự đúng như ai; khẽ nhún đầu gối trong bộ váy lồng, cô hỏi là cô có thể đi xe vào Garden City được không. Nhà hát Bang đang có một tối đặc biệt, “Đêm diễn ma” thứ Sáu ngày 13, vào hồi mười một rưỡi, bạn bè của cô đều đi cả. Các lần khác ông Clutter đều không đồng ý. Luật của ông là luật, và một khoản trong đó là: Nancy - và cả Kenyon nữa - ngày thường mười rưỡi tối phải có mặt ở nhà, tối thứ Bảy thì mười hai giờ. Nhưng bị lay động vì những sự kiện thiên tài của buổi tối nay, ông đã bằng lòng. Và Nancy mãi hai giờ sáng mới về nhà. Ông nghe thấy cô vào nhà bèn gọi cô, vì tuy không phải là người từng cao giọng bao giờ, ông vẫn có đôi điều thẳng thắn cần nói với cô, những ý kiến liên quan đến cậu thanh niên lái xe chở cô về - Bobby Rupp, một người hùng bóng rổ của nhà trường - nhiều hơn là đến chuyện cô về vào giờ đó.
Ông Clutter thích Bobby và coi cậu, một cậu trai mười bảy tuổi là người lịch sự và đáng dựa vào nhất, thế nhưng trong ba năm được phép “hẹn hò”, cô Nancy ấy, nức tiếng xa gần và xinh đẹp, vẫn chưa đi ra ngoài hẹn hò với một ai khác, và tuy ông Clutter vẫn biết rằng thói quen hiện nay của lứa thiếu niên trong nước là tìm đôi, “hẹn hò lãng mạn” và đeo “nhẫn đính ước”, ông vẫn không tán thành cậu, đặc biệt vì tình cờ không lâu trước đó ông bắt gặp cậu chàng Rupp và con gái ông đang hôn nhau. Lúc đó ông đã gợi ý Nancy đừng nên “gặp Bobby nhiều như thế” nữa, khuyên cô rằng từ từ rút lui bây giờ sẽ ít thương tổn hơn đoạn tuyệt đột ngột sau này - vì, như ông nhắc nhở cô, cuối cùng thế nào cũng xảy ra một cuộc chia tay. Gia đình Rupp theo đạo Cơ đốc La Mã, nhà Clutter lại dòng đạo Giám lý - sự việc này tự nó cũng đủ chấm dứt bất cứ tơ tưởng hão huyền nào về việc cô và cậu chàng kia có thể cưới xin trong tương lai. Nancy biết điều - thế nào cũng không cãi - còn lúc này thì, trước lúc chúc ngủ ngon, ông Clutter đã được cô làm cho yên tâm với lời hứa sẽ bắt đầu gỡ dần ra khỏi Bobby.
Tuy nhiên việc này đã làm chệch đi tệ hại giờ giấc nghỉ ngơi của ông, vốn thường vào mười một giờ. Hậu quả là sáng thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười một năm 1959, mãi hơn bảy giờ ông mới dậy. Vợ ông thì luôn là dậy càng muộn càng tốt. Tuy thế ông cũng không lo bà bị đánh thức khi ông cạo râu, tắm vòi hoa sen, mặc vào người chiếc quần kẻ gân nổi, áo da của người chăn bò và đôi ủng mềm có cựa thúc ngựa; ông bà không ngủ chung buồng. Nhiều năm rồi ông ngủ một mình trong phòng ngủ chính dưới tầng trệt ngôi nhà - một tòa nhà hai lầu, mười bốn phòng bằng gỗ và gạch. Tuy bà Clutter cất quần áo của mình trong các buồng xép của căn phòng này, và giữ một ít mỹ phẩm cùng thuốc men linh tinh trong buồng tắm xây gạch men, kính và gạch thường ở kề đó, bà vẫn chiếm phòng ngủ trước kia của Eveanna ở lầu hai, giống như các phòng ngủ của Nancy và Kenyon.
Ngôi nhà - phần lớn do ông Clutter thiết kế, qua đó ông cho thấy mình là một kiến trúc sư hiểu biết và điềm đạm, nếu không phải là nổi tiếng có óc trang trí - được xây năm 1948 với chi phí bốn chục nghìn đô la. (Giá trị bán lại bây giờ là sáu chục nghìn). Nằm ở cuối một đường nhỏ, giống đường cho xe chạy vào nhà, có hàng cây du Tàu phủ bóng, ngôi nhà trắng đẹp tọa lạc trên một bãi thênh thang trồng cỏ Bermuda, đã làm cho Holcomb thích thú; nó là một nơi người ta trỏ cho nhau xem. Về nội thất, có những tấm thảm xốp bông màu gan gà triệt hẳn đi từng khoảnh một cái ánh loa lóa của sàn nhà đánh xi luôn dội tiếng vang; một đi văng kiểu hiện đại ở phòng khách mênh mông, bọc trong lần vải lổn nhổn hột có các sợi kim loại màu bạc dệt lẫn vào; một buồng xây thụt vào làm nơi ăn điểm tâm kê một ghế dài nho nhỏ phủ lớp nhựa màu lơ và trắng. Ông bà Clutter thích những đồ nội thất này, giống như đa phần các quen biết của ông bà, nói chung nhà của họ đều trang bị đồ đạc tương tự thế.
Ngoài một người trông nom quét dọn chỉ đến vào những ngày làm việc, nhà Clutter không thuê người giúp việc nội trợ, cho nên từ ngày bà Clutter ốm và hai cô gái lớn ra đi, ông Clutter cần phải học nấu nướng; hoặc ông hoặc Nancy nhưng chủ yếu là Nancy nấu ăn cho gia đình. Ông Clutter thích làm việc này, và làm rất giỏi - chẳng có bà nào ở Kansas nướng được bánh mì lên men bằng muối ngon hơn ông, và món kẹo dừa được trọng vọng của ông là khoản đầu sổ ở các cuộc bán bánh ngọt từ thiện - nhưng ông không phải là người ăn khỏe, khác với đám bạn bè chủ trại chăn nuôi, ông còn thích các bữa điểm tâm thanh đạm là khác. Sáng ấy, một quả táo và mộc cốc sữa là đủ cho ông; vì không đụng đến cà phê hay trà, ông quen bắt đầu ngày với cái bụng lép kẹp. Sự thật là ông phản đối mọi thứ kích thích, kể cả là nhẹ. Ông không hút thuốc, và dĩ nhiên không uống rượu; thật vậy, ông chưa bao giờ nếm rượu mạnh và có xu hướng tránh người uống rượu - tuy nhiên điều này không làm thu hẹp vòng quan hệ xã hội của ông nhiều như ông tưởng, vì trung tâm của cái vòng quan hệ này gồm những; thành viên của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất của Garden City, một hội đoàn tổng cộng một nghìn bảy trăm người, phần lớn cũng kiêng cữ như ông Clutter hằng mong ước. Tuy thận trọng tránh làm điều gì có hại đến quan điểm của mình, chấp nhận cách xử thế không quá khắt khe mỗi khi bước ra khỏi vương quốc của mình đặng tiếp xúc với bên ngoài, song ông lại ép buộc gia đình cùng với người làm thuê ở Trại Lũng Sông phải chấp nhận quan điểm của mình. “Anh có uống rượu không?” là câu đầu tiên ông hỏi người xin việc, và mặc dù gã kia có cho ra một lời đáp phủ định, ông vẫn cứ nhất quyết ký một hợp đồng lao động bao hàm một khoản rằng hợp đồng sẽ lập tức bị hủy bỏ nếu nhân viên nọ bị phát hiện “chứa chấp rượu”. Một người bạn - Lynn Russell, một chủ trại chăn nuôi tiên phong lâu đời - có lần bảo ông: “Ông không nhân từ chút nào cả. Tôi thề là nếu ông bắt được một người làm thuê uống rượu là hắn ta đi tong. Ông sẽ còn chả bận tâm xem gia đình hắn ta có chết đói hay không, Herb à.” Có lẽ đây là lời phê phán duy nhất đối với ông Clutter với tư cách ông chủ. Nếu không người ta đã chỉ biết đến ông như một người luôn khoan hòa điềm đạm, có lòng từ ái, và sự thực ông trả lương thưởng hậu; người làm cho ông - có khi tới mười tám người - ít có lý do gì để phàn nàn.
Sau khi uống cốc sữa và đội chiếc mũ lót lông, ông Clutter mang theo quả táo ra ngoài xem xét buổi sáng. Đây là thời tiết lý tưởng để làm ăn; vòm trời trong trẻo rọi xuống những tia nắng rực trắng nhất, ngọn gió Đông xào xạc thổi mà không dứt đứt đi những chiếc lá cuối cùng của những cây du Tàu. Mùa thu ban thưởng cho miền Tây Kansas bù vào những tội nợ mà các mùa kia áp đặt cho nó: gió Colorado dữ dằn của mùa đông, tuyết sâu đến ngang hông, giết chết cừu; những trận tuyết tan hóa thành vữa bùn và những đợt sương mù bò sát mặt đất kỳ lạ của mùa xuân; rồi mùa hè, khi mà cả quạ cũng phải tìm một mẩu bóng râm cỏn con, thì bạt ngàn những cuống rạ lúa mì màu hung hung đỏ bèn dựng lên chong chỏng và bốc cháy. Cuối cùng, sau tháng Chín, một thời tiết khác đã đến, một mùa hè muộn đôi khi kéo dài mãi tận tới lễ Giáng sinh. Trong khi ông Clutter đang ngắm cái tiêu bản cao cấp của mùa thu này thì con chó lai giống cô-li của Xcốtlen đến bên và cả hai cùng lững thững đến bãi thả gia súc nằm liền với một trong ba kho thóc ở trên khu đồn điền.
Một trong những kho này là một túp lều Quonset đồ sộ; hạt mì kê Westland đầy ứ chờm cả ra ngoài lều, còn một lều khác thì chứa cả núi hạt mì milo hăng nồng coi sầm sẫm đáng vô kể là tiền - một trăm nghìn đô la. Riêng con số này cũng đã tiêu biểu cho gần bốn nghìn phần trăm tăng tiến toàn bộ thu nhập của ông Clutter năm 1934 - năm ông cưới Bonnie Fox rồi cùng bà chuyển từ Rozel, thị trấn quê hương ở Kansas, đến Garden City, nơi ông tìm được chân trợ lý phụ trách nông nghiệp hạt Finney. Việc này, một cách khá điển hình, đã giúp ông được đề bạt chỉ sau bảy tháng; tức là đặt ông vào vị trí người đứng đầu. Những năm ông đương nhiệm - từ 1935 đến 1939 - là những tháng ngày lầm than nhất, thất bát nhất mà vùng đất này từng nếm trải từ thời người da trắng định cư ở đây, và chàng trai Herb Clutter, vốn dĩ đã có một bộ óc ganh đua thành thạo với những giải pháp nông nghiệp mũi nhọn tân tiến nhất, nên khá là đủ tư cách làm người trung gian giữa chính phủ và những chủ chăn nuôi nay đã nản chí; những người này có thể sử dụng tốt tính lạc quan và những chỉ dẫn đầy học thức của một gã trai đáng yêu xem chừng biết công việc của mình. Tuy thế, ông không phải đang làm cái mà ông vốn dĩ muốn làm; là con trai một chủ trại, ngay từ đầu ông đã nhắm đến việc tạo dựng cơ ngơi của chính mình. Bởi vậy, sau bốn năm, ông thôi làm nhân viên phụ trách nông nghiệp của hạt, và, thên mảnh đất thuê bằng tiền vay nợ, tạo nên phôi thai cho Trại Lũng Sông (cái tên này được sự hiện diện của con sông Arkansas uốn khúc biện hộ cho, chứ thật ra chẳng hề có thung lũng nào cả). Đây là một nỗ lực mà nhiều tay bảo thủ ở hạt Finney nhìn ngó với vẻ thú vị kiểu để-rồi-xem - đám dân kỳ cựu này từng mong nhử tay nhân viên nông nghiệp trẻ tuổi của hạt vì các khái niệm ở trình độ đại học của anh chàng: “Việc ấy hay đấy, Herb. Ông luôn biết ở trên đất đai thiên hạ làm cái gì thì tốt hơn cả. Trồng cái này đi. Tôn cao chỗ kia lên. Nhưng nếu chỗ ấy là của ông thì có thể ông sẽ nói khác đi một tí đấy.” Họ lầm; các thử nghiệm khởi đầu đã thành công - một phần vì những năm mở đầu, ông đã làm lụng mười tám giờ một ngày. Đã từng thất bại - hai lần thu hoạch lúa mì hỏng ăn, và một mùa đông ông bị mất mấy trăm đầu cừu trong một cơn bão tuyết; nhưng sau mười năm cơ nghiệp của ông Clutter là hơn tám trăm mẫu Anh thuộc sở hữu toàn bộ của ông và trên ba nghìn mẫu nữa trồng trọt trên cơ sở thuê mượn - và việc này, như các đồng nghiệp của ông thừa nhận, là “một cuộc mở mang rất hay”. Lúa mì, hạt milo, hạt cỏ có bằng chứng nhận - đó là những vụ thu hoạch mà trang trại ông dựa vào để mà thịnh vượng. Súc vật cũng quan trọng - cừu, và đặc biệt là bò. Một đàn vài trăm con bò Hereford mang nhãn Clutter, tuy người ta khó mà ngờ được điều này nếu chỉ nhìn vào chuồng trại có phần vắng vẻ, chủ yếu dành cho những con mới thiến ốm đau, một ít bò sữa, những con mèo của Nancy, và Babe, con ngựa cưng nhất của gia đình - con ngựa già béo tốt không bao giờ phản đối việc thồ trên tấm lưng to rộng của nó những ba bốn đứa trẻ.
Lúc này ông Clutter đang cho Babe ăn lõi quả táo mình ăn, cao giọng chào một người cào rác ở trong bãi thả - Alfred Stoecklein, người làm công duy nhất trú tại nhà ông. Vợ chồng ông Stoecklein và ba đứa con sống trong một căn nhà cách tòa nhà chính không đến trăm mét, trừ họ ra, trong vòng nửa dặm không có một nhà hàng xóm nào. Stoecklein, một người mặt dài, răng dài màu nâu, hỏi, “Ông đã nghĩ ra việc gì đặc biệt để làm hôm nay chưa? Vì nhà tôi có người ốm. Con bé út. Suốt cả đêm tôi với bà xã cứ xoay mòng mòng vì nó. Tôi đang tính đưa nó đi bác sĩ.” Tỏ ra thông cảm, ông Clutter nói đằng nào thì cũng đã hết buổi sáng, nếu như thấy vợ chồng ông có thể đỡ đần được gì thì xin cứ bảo. Rồi ông đi ra đồng về phía Nam, con chó chạy trước, lúc này đồng đang nổi màu da sư tử, vàng lóa lên với những cọng rạ sau vụ gặt.
Con sông nằm ở hướng này; gần bờ sông có một khu rừng nho nhỏ toàn cây ăn quả - đào, lê, anh đào, táo. Theo trí nhớ của người sở tại, cách đây năm chục năm, một người thợ xẻ chỉ cần mười phút là chặt sạch được cây cối vùng Tây Kansas này. Ngay cả bây giờ, cũng chỉ có bạch dương và du Tàu - những cây lưu niên hờ hững với nước giống như xương rồng - là được trồng rộng rãi. Nhưng như ông Clutter thường nhận xét, “mưa thêm chừng hai phân rưỡi nữa thôi là vùng đất này sẽ thành thiên đàng - Vườn Địa đàng.” Sưu tập nho nhỏ các thứ cây ăn quả mọc bên sông này là ý đồ của ông, mưa hay không mưa cũng mặc, cứ xoay lấy một lối đi vào Thiên đàng, cái Vườn Địa đàng xanh thơm mùi táo, ông hình dung như vậy. Một lần vợ ông đã nói: “Ông chồng tôi trông nom các cây ấy còn hơn cả các con,” và ai ở Holcomb thảy đều nhớ hôm một chiếc máy bay nhỏ bị hỏng hóc đâm xuống các cây đào: “Herb đáng bị trói lại! Chứ sao nữa, động cơ chưa kịp tắt, ông ấy đã đâm đơn kiện viên phi công.”
Xuyên qua vườn cây, ông Clutter đi dọc con sông, khúc này nông và rải rác những hòn đảo - những doi cát mềm mịn ở giữa dòng mà vào những Chủ nhật dần qua, những lễ Sabbath nóng nực, khi Bonnie đến, giỏ đồ ăn picnic bày ra, cả buổi chiều cả nhà miên man chờ đầu dây câu khẽ giật. Ông Clutter ít gặp kẻ xâm nhập ở trên vùng đất của ông; cách xa lộ một dặm rưỡi và đến đây chỉ có thể bằng những con đường u tối, đó không phải là một nơi mà người ta tới tình cờ. Nay, thình lình cả một đám họ hiện ra, và con chó Teddy liền lao lên khiêu chiến. Nhưng con Teddy này kỳ cục. Tuy nó là một quân canh tốt, lanh lẹ, luôn sẵn sàng la lối ầm ĩ nhưng lòng dũng cảm của nó có một khiếm khuyết: để nó nhác thấy một khẩu súng, như lúc này - vì những kẻ xâm nhập đều có súng - thì đầu nó liền gục xuống, đuôi quặp lại. Không ai hiểu tại sao, vì không ai biết tiểu sử của nó, ngoài chuyện nó là một con chó lang thang được Kenyon đem về nuôi cách đây mấy năm. Hóa ra các vị khách là năm tay săn trĩ từ bang Oklahoma. Mùa săn trĩ ở Kansas, sự kiện nổi tiếng của tháng Mười một đã dụ dỗ hàng đàn nhà thể thao từ các bang lân cận và trong suốt tuần qua, hàng đoàn người đầu quấn khăn vải Xcốtlen đã diễu qua các khoảng đất trống trải đang độ thu hoạch rồi thì, bằng những loạt đạn ghém, làm rụng và bôi đỏ lòm lòm những đàn chim bát ngát màu đồng điếu béo múp nhờ hạt lúa mì. Theo lệ, nếu không phải khách mời thì những người đi săn phải trả cho chủ đất một khoản phí để được phép theo đuôi con mồi ở trên đất của ông, nhưng khi đám người Oklahoma ngỏ ý thuê lấy quyền săn bắn, ông Clutter bật cười. “Tôi không nghèo như cái mã ngoài của tôi đâu. Cứ bắn đi, lấy được bao nhiêu cứ lấy tất,” ông nói. Rồi chạm tay vào vành mũ, ông quay về nhà với việc làm hôm đó, không biết đó là việc cuối cùng của mình.
Cũng như ông Clutter, người trẻ tuổi đang ăn điểm tâm trong quán cà phê Tiểu Kim hoàn không bao giờ uống cà phê. Hắn thích bia không cồn hơn. Ba viên aspirin, bia không cồn ướp lạnh và một loạt điếu Pall Mall liền tù tì - đó là quan niệm của hắn về một “bữa trôi được” thực thụ. Vừa nhấp bia hút thuốc, hắn vừa nghiên cứu một tấm bản đồ trải trên mặt quầy trước mặt - một tấm bản đồ Phillips 66 của Mexico - nhưng hắn khó lòng tập trung xem vì còn đang chờ một người bạn, và người này đến muộn. Hắn nhìn ra cửa sổ, ra cái phố thị nhỏ bé im lặng, một con phố hắn chưa hề thấy cho tới tối hôm qua. Vẫn chẳng thấy tăm hơi Dick đâu. Nhưng chắc chắn Dick phải thò mặt ra, muốn gì thì mục đích của cuộc gặp này là ý của Dick, “vụ trúng quả” của hắn cơ mà. Và khi đã ngã ngũ - thì là Mexico. Tấm bản đồ chắp vá, bị sờ mó vào nhiều quá đến nỗi hóa ra mềm như một miếng da nai. Quanh cái xó này, trong gian phòng của cái khách sạn hắn đang trọ, có hàng trăm tấm như thế nữa - những tấm bản đồ rách bươm về mỗi bang của Liên bang Mỹ, về mỗi tỉnh ở Canada, về mỗi nước Nam Mỹ - bởi vì người trẻ tuổi này là một kẻ không ngừng ngẫm nghĩ tới các chuyến đi, không ít chuyến trong số đó hắn đã thực sự tiến hành: đến Alaska, đến Hawaii, đến Nhật Bản, đến Hồng Kông. Nay, nhờ một bức thư, lời mời đến với một vụ “trúng quả”, hắn đang ở đây cùng với những vật sở hữu đời thường của hắn: một va li bằng các tông, một cây ghi ta và hai thùng bự đựng sách, bản đồ và bài hát, thơ ca và thư từ cũ, nặng một phần tư tấn (mặt Dick sẽ thế nào khi nhìn thấy những cái thùng này nhỉ! “Lạy Chúa, Perry. Cậu mang cái của đồng nát này theo đi khắp nơi đấy à?” Và Perry nói: “Đồng nát nào? Một trong những quyển sách này làm tớ chi những ba chục đô đấy ạ.”) Đây, hắn đang ở ngay tại thị trấn Olathe tí tẹo bang Kansas này. Ngộ thật, nghĩ mà xem; thử tưởng tượng hắn trở về Kansas khi chỉ mới bốn tháng trước hắn đã thề, trước hết với Tòa án Tạm tha của bang, rồi sau đó với bản thân, rằng hắn sẽ không bao giờ đặt chân lại vào trong ranh giới bang Kansas nữa. À, mà có phải đã lâu la gì đâu.
Chi chít trên bản đồ là những cái tên được khoanh tròn bằng bút mực. COZUMEL, một hòn đảo ngoài bờ biển Yucatán, ở đó, như hắn đọc thấy trên một tờ tạp chí cho đàn ông, bạn có thể “lột hết quần áo ra, phô một nụ cười thoải mái ngoác đến mang tai, sống như một tiểu vương Ấn Độ, và có tất cả những người đàn bà bạn muốn với 50 đô la một tháng!” Cũng từ bài báo đó hắn ghi nhớ những lời tuyên bố hấp dẫn khác: “Cozumel là một dinh lũy chống lại sức ép xã hội, kinh tế và chính trị. Không có viên chức nào cưỡng bách bất cứ ai trên hòn đảo này,” và “Hằng năm, từng đàn vẹt bay từ đất liền ra đây đẻ trứng.” ACAPULO gợi ý về câu cá biển sâu, sòng bạc, đám đàn bà giàu có nhấp nhổm; và SIERRA MADRE nghĩa là vàng, nghĩa là Kho vàng Sierra Madre, một bộ phim hắn xem tám lần. (Đó là phim hay nhất của Humphrey Bogart, nhưng Walter Huston, cái lão đóng người tìm kho vàng, cái lão làm cho Perry nhớ lại bố hắn, thì cũng oách. Đúng, và điều hắn nói với Dick là thật: hắn đã biết rành đầu đuôi xuôi ngược việc săn vàng, ấy là do bố hắn, một người lùng kho vàng chuyên nghiệp, dạy cho hắn. Thế cho nên tại sao hai đứa lại không mua lấy một cặp ngựa thô mà thử vận may ở trong dãy Sierra Madre? Nhưng Dick, thằng cha Dick đầu óc thực tế, đã nói, “Ôi chao, bồ ơi. Tớ thấy cái tuồng đó rồi, cuối cùng thằng nào cũng rồ dại hết. Vì sốt rét, vì vắt đỉa, các điều kiện khốn nạn tứ bề. Rồi khi có được vàng thì - một cơn gió lớn sẽ tới thổi tung hết - còn nhớ không?”) Perry gập tấm bản đồ lại. Hắn trả tiền bia rồi đứng dậy. Khi ngồi, hắn nom có vẻ một người tầm vóc trên trung bình, khỏe mạnh, với đôi vai, đôi tay và thân mình đầy chắc hơi gò vào trong của một lực sĩ cử tạ - mà đúng là hắn mê môn cử tạ thật. Nhưng một vài chỗ trên người hắn lại không cân đối với những chỗ khác. Lồng trong đôi ủng ngắn cổ màu đen có những mắt khóa bằng thép, hai bàn chân nhỏ bé của hắn có thể xoẳn vừa được đôi giày khiêu vũ của các bà các cô; khi đứng lên, hắn không cao hơn đứa nhóc mười hai tuổi, và bất thình lình, nom lệnh khệnh với hai cẳng chân còi xem ra bất xứng đến buồn cười với cái khối to đùng mà chúng đỡ ở trên, hắn trông lại không giống một tay lái xe tải lực lưỡng mà giống một dô kề đua ngựa về hưu đã tàn tạ mà vai u thịt bắp.
Bên ngoài cửa hàng, Perry đứng giữa trời nắng. Đã chín giờ kém mười lăm, Dick muộn nửa giờ rồi; nhưng giá như Dick không nhắc đi nhắc lại cho hắn hiểu tầm quan trọng của từng giây phút một trong hai mươi tư giờ sắp tới thì hắn đã chẳng màng chuyện thời gian của hắn đang trôi. Thời giờ ít có giá trị với hắn vì hắn có nhiều cách để giết thì giờ - trong số đó có cách soi gương. Dick đã có lần nhận xét: “Mỗi bận soi gương cậu cứ như nhập đồng, y như vậy thật. Y như cậu đang nhìn vào một cái đít núng nính đấy. Lạy Chúa, tớ muốn nói là cậu không thấy chán bao giờ à?” Còn lâu; hắn mê mệt bộ mặt của chính hắn. Mỗi góc độ của nó lại đưa ra một ấn tượng khác. Đó là một bộ mặt biến hóa, và những thực nghiệm nhờ gương soi chỉ dẫn đã dạy hắn rung chuông biến hóa, sao cho hắn trông lúc thì đáng gờm, lúc thì tinh quái, lúc thì có hồn; một khẽ nghiêng đầu, một mấp máy môi, thế là tên di gan hư đốn liền trở thành kẻ lãng mạn đáng yêu. Mẹ hắn là người da đỏ Cherokee chính cống; chính từ bà mà hắn thừa hưởng cái màu sắc này - nước da nâu đỏ xỉn, cặp mắt tối, ướt, râu tóc đen mà hắn không ngừng bôi sáp và đủ sum suê để cho hắn có hai hàng râu quai nón và một hàng tóc xòe ngang trán trơn nhờn. Ân huệ của mẹ hắn là rõ rệt; ân huệ của bố hắn, một người Ái Nhĩ Lan mặt tàn hương tóc hoe đó thì không rõ rệt bằng. Tựa như dòng máu da đỏ đã triệt hết mọi dấu vết của tông giống Celtic. Dẫu vậy, đôi môi hồng và cái mũi lõ vẫn còn xác nhận sự có mặt của nó, cũng như một chất hiếu động lưu manh, và óc tự tôn Ái Nhĩ Lan cao cao tại thượng vẫn thường kích hoạt bộ mặt nạ Cherokee lên và hoàn toàn kiểm soát khi hắn hát và chơi ghi ta. Hát, và nghĩ đến chuyện hát trước công chúng, là một cách tự mê hoặc khác nữa để mà tiêu hao thời giờ. Hắn luôn dùng cùng một phông cảnh trong đầu - một hộp đêm ở Las Vegas mà chả hiểu thế nào lại hóa ra là thị trấn quê hương hắn. Đó là một gian phòng sang trọng đầy ắp những nhân vật lẫy lừng háo hức chú tâm vào ngôi sao mới đang ăn khách trình diễn bài hát nổi tiếng “Anh đang nhìn em” có viôlông đệm theo của hắn, và lại còn được đòi nghe thêm bài thơ hắn tự biên tự diễn gần đây nhất nữa:
Cứ tháng Tư từng đàn chim vẹt
Đỏ và xanh bay ở trên đầu
Xanh màu vỏ quýt
Tôi nhìn chúng bay, tôi nghe chúng hát
Đàn vẹt hót mang tới tháng Tư, tháng của mùa xuân…
(Lần đầu tiên nghe bài hát này, Dick đã bình, “Vẹt làm gì hót. Nói thì có thể. Choen choét. Nhưng chắc chắn là không hót, mẹ kiếp.” Dĩ nhiên Dick là gã phàm phu, cực phàm phu ấy - hắn không hiểu âm nhạc, thơ ca gì đâu - nhưng khi cần phải làm tới số thì cái phàm phu, cái lối tiếp cận thực dụng của Dick đối với mọi vấn đề, lại là lý do đầu tiên lôi kéo Perry, vì nó làm cho Dick so với hắn xem chừng cứng rắn hơn, bất khả bại hơn thật, “trượng phu toàn diện”).
Nhưng dù thú vị đến thế nào thì giấc mơ Las Vegas đó cũng bị mờ nhạt đi ở bên một viễn cảnh khác của hắn. Từ thời trẻ con, suốt nửa cuộc đời ba mươi mốt năm, hắn đã học văn chương hàm thụ (“Kho báu trong việc lặn! Tập luyện tại nhà vào thời gian nhàn rỗi. Kiếm tiền vừa nhiều vừa mau lẹ bằng cách lặn trần truồng không bình khí. Sách hướng dẫn không mất tiền…”), trả lời quảng cáo (“Kho vàng đắm! Năm mươi tấm bản đồ gốc! Quà tặng kinh ngạc...”), cái đã nung nấu niềm khao khát thực hiện chuyến mạo hiểm phiêu lưu mà óc tưởng tượng mau mắn của hắn đã cho hắn không ngừng có thể trải qua: giấc mơ ngao du xuống các vùng nước lạ, lặn đến một vùng biển đen xanh thẳm, trườn lướt qua những kẻ bảo vệ có vẩy và con mắt man dại của một boong tàu hiện ra lù lù trước mặt, một con tàu cổ Tây Ban Nha - một tàu chở kim cương và ngọc bị đắm, chất đống những hòm vàng.
Tiếng còi xe. Cuối cùng thì Dick kia rồi.
“Trời đất Kenyon! Bác đang nghe cháu đây.”
Như thường lệ, ma quỷ ở trong Kenyon. Tiếng cậu hét cứ leo tiếp lên cầu thang: “Nancy! Có điện thoại!”
Chân đất, quần áo ngủ, Nancy chạy vụt xuống cầu thang. Trong nhà có hai máy nói - một máy ở gian phòng bố cô dùng làm bàn giấy, một ở bếp. Cô nhấc chiếc máy nói kéo dài vào bếp: “A lô? Ô, dạ, cháu chào bà Katz ạ.”
Và bà Clarence Katz, vợ một ông chủ trại sống ở trên xa lộ, nói: “Bác đã bảo bố cháu đừng đánh thức cháu dậy mà. Bác nói là Nancy chắc phải mệt nhoài sau buổi diễn tuyệt vời của nó tối hôm qua. Cháu đáng yêu lắm, cưng ạ. Mấy ruy băng trắng ở trên đầu cháu kia! Rồi thì cái đoạn cháu ngỡ Tom Sawyer bị chết - cháu chảy nước mắt ra thật đấy. Hay như trên ti vi ấy. Nhưng bố cháu nói đã đến lúc cháu dậy rồi; ừ, sắp chín giờ còn gì. Bây giờ đến cái chuyện bác muốn đây, cưng ơi, con bé nhà bác, con Jolene ấy, nó đang phát cuồng lên muốn làm bánh anh đào, thấy cháu làm bánh anh đào vô địch như thế nào, luôn luôn được giải, bác mới nghĩ hay là sáng nay đem nó tới đằng nhà cháu để cháu bày cho nó được không?”
Bình thường thì Nancy sẽ vui lòng dạy Jolene làm hẳn một bữa ăn tối với món gà tây; cô cảm thấy phận sự mình là sẵn sàng có mặt khi đám con gái trẻ hơn muốn nhờ cô giúp đỡ việc nấu nướng, vá may hay âm nhạc - hoặc hay xảy ra hơn, là cần cô để trút bầu tâm sự. Cô lấy thì giờ ở đâu ra mà vẫn xoay xở để vừa “trông nom ngôi nhà lớn này”, vừa là học sinh hạng A cứng, lại là trưởng lớp, người lãnh đạo trong chương trình 4-H và Liên đoàn Thanh niên Giám lý, một tay ngựa giỏi, một nhạc công xuất sắc (piano, kèn clarinet), người đoạt giải hằng năm ở chợ phiên tỉnh (bánh ngọt, mứt, may thêu, cắm hoa) - một thiếu nữ chưa tới mười bảy làm thế nào gánh vác được một núi việc như thế và lại không có vẻ “ta đây”, mà chỉ thấy ánh rờ rỡ trên mặt, điều này là một bí ẩn mà cộng đồng thắc mắc và giải thích bằng cách nói, “Cô gái này có cá tính. Có được cái đó từ ông già.” Chắc chắn rằng nét mạnh nhất của cô, cái tài vốn đỡ nâng cho các tài khác là đến từ ông bố cô thật: một khiếu tổ chức được trui rèn kỹ. Giờ nào việc ấy, cô biết chính xác lúc nào cô làm cái gì, mất bao lâu. Và đó mới là chỗ lôi thôi cho ngày hôm nay: lịch cô kín đặc rồi. Cô đã nhận giúp con một người hàng xóm khác, Roxie Lee Smith, tập một bài độc tấu kèn trompet mà Roxie dự định chơi ở buổi hòa nhạc của nhà trường; đã hứa chạy cho mẹ mấy việc vặt phức tạp và đã bố trí dự một cuộc họp 4-H với bố ở Garden City. Rồi thì phải nấu bữa trưa, sau bữa trưa, phải xong bộ váy phù dâu cho đám cưới của Beverly mà cô tự tay vẽ kiểu và khâu lấy. Việc đã xếp đặt rồi, chẳng còn chỗ nào cho bài học làm bánh anh đào của Jolene. Trừ phi bỏ đi một việc gì.
“Bác Katz ơi, bác giữ máy một lát được không, phiền bác nhé?”
Cô đi hết chiều dài ngôi nhà tới bàn giấy của bố. Có một lối vào ở bên ngoài dành cho khách bình thường, bàn giấy này được ngăn cách với phòng khách bằng một tấm cửa trượt; tuy ông Clutter thỉnh thoảng có chia sẻ bàn giấy với Gerald Van Vleet, người thanh niên giúp ông quản lý trang trại, căn phòng cơ bản vẫn là nơi ông rút lánh vào - một thánh địa ngăn nắp, lát gỗ hồ đào, có các phong vũ biểu, biểu lượng mưa, một đôi ống nhòm vây quanh, ông ngồi như vị thuyền trưởng trong cabin, một nhà hàng hải lái tàu qua những đoạn đôi khi hiểm nghèo của Trại Lũng Sông suốt các mùa.
“Không phải lo,” ông nói, trả lời cho thắc mắc của Nancy. “Dẹp vụ 4-H đi. Bố sẽ đưa Kenyon đi.”
Vậy là, nhấc máy nói bàn giấy lên, Nancy bảo bà Katz: “Dạ, tốt lắm, bác đưa Jolene đến đây ngay nhé bác.” Nhưng cô nhăn mặt treo máy lên. “Lạ thật,” cô nói, nhìn quanh căn phòng và thấy bố ở trong đó đang giúp Kenyon ghi thêm một cột con số, và ở bàn làm việc cạnh cửa sổ, ông Van Vleet, người có vẻ ngoài suy nghĩ và lôi cuốn trông hay hay khiến cô gọi ông là Heathcliff ở sau lưng. “Nhưng tôi vẫn ngửi thấy khói thuốc lá.”
“Ở hơi thở của ông ư?” Kenyon hỏi.
“Không, của cậu, thế mới hay.” Điều đó làm cậu yên tâm, với Kenyon, vì cậu biết là cô biết cậu đã một lần hút trộm một hơi - nhưng lúc ấy, Nancy cũng thế.
Ông Clutter vỗ tay. “Thế thôi. Đây là văn phòng.”
Bây giờ, ở trên gác, cô thay áo quần, mặc vào một chiếc quần bò Levis đã bạc và chiếc áo ba lỗ màu xanh lá cây, đeo vào cổ tay vật sở hữu có giá trị hàng thứ ba của cô, một chiếc đồng hồ vàng; con mèo bạn thân của cô, Evinrude, được xếp ở trên nó, và trên cả Evinrude là chiếc nhẫn con triện, bằng chứng về tình trạng “hoa đã có chủ”, mà cô đeo (một cách ít-lộ-liễu-nhất) ở ngón cái, vì ngay cả khi dùng băng dính thì vòng nhẫn cỡ đàn ông cũng không làm sao vừa được với ngón nào khác ngoài ngón ấy. Nancy là một cô gái xinh đẹp, thanh mảnh, nhanh nhẹn kiểu một cậu thiếu niên, và những thứ đẹp nhất ở cô là mớ tóc màu hạt dẻ ánh mượt hơi gợn chải sóng (chải một trăm nhát mỗi buổi sáng và cũng ngần ấy nhát buổi tối) và nước da sạch nhẵn vì xà phòng, vẫn còn nhàn nhạt chút tàn nhang và ánh rám hồng của mặt trời mùa hè. Nhưng chính là đôi mắt cô, cách xa nhau, long lanh tối, giống như rượu mạch giơ lên trong ánh sáng, nó làm cô lập tức đáng yêu, nó lập tức cho ta biết là cô tin người, cô có một lòng tốt cũng biết cân nhắc nhưng dễ dàng được khơi gợi lắm.
“Nancy!” Kenyon gọi, “Susan gọi điện đấy.”
Susan Kidwell, bạn tâm sự của cô. Cô lại trả lời trong bếp.
“Nói đi,” Susan nói, bao giờ cũng mở đầu một hiệp trò chuyện ở điện thoại bằng mệnh lệnh này. “Mở đầu, hãy kể tại sao cậu lại tán tỉnh Jerry Roth xem nào.” Giống Bobby, Jerry Roth là một ngôi sao bóng rổ của trường.
“Tối qua ấy hả? Ôi trời, tớ có tán tỉnh đâu. Cậu nói thế vì chúng tớ cầm tay nhau chứ gì? Trong khi đang diễn, cậu ta đi vào hậu trường và tớ thì đang hồi hộp quá. Thế là cậu ta nắm tay tớ. Để cho tớ dũng cảm lên.”
“Ngọt ngào lắm. Rồi sao?”
“Bobby đưa tớ đi xem phim ma. Và bọn tớ nắm tay nhau.”
“Có sợ không? Không phải Bobby. Phim ấy.”
“Bobby không nghĩ thế; tên ấy cười toáng lên thì có. Nhưng cậu biết tớ đấy. Ui! Tớ ngã lăn ra khỏi ghế.”
“Cậu đang ăn gì đấy?”
“Chả gì cả.”
“Tớ biết, cậu đang gặm móng tay,” Susan nói, đoán đúng. Dù cố mãi, Nancy vẫn không bỏ được cái thói quen cắn móng tay, cứ hễ lúng túng là cô lại nhấm cho tới tận phần thịt mềm. “Kể đi. Xảy ra chuyện gì không?”
“Không.”
“Nancy. C’est moi, là tớ đây nhá…” Susan đang học tiếng Pháp.
“Được thôi - là bố ấy mà. Ba tuần qua ông già nổi cơn đáng sợ. Đáng sợ. Ít nhất là quanh quẩn chuyện của tớ. Đêm qua khi tớ về nhà, ông già lại bắt đầu chuyện đó.”
“Chuyện đó” không cần phải luận ra nhiều; đó là một vấn đề hai cô bạn đã thảo luận toàn diện với nhau và tán thành. Tóm tắt vấn đề từ quan điểm của Nancy, Susan đã có lần nói, “Cậu yêu Bobby lúc này, và cậu cần hắn ta. Nhưng trong thâm tâm Bobby cũng biết việc này rồi chẳng có tương lai gì. Sau này, khi chúng mình rời đây đi Manhattan, mọi cái lại sẽ có vẻ như một thế giới mới.” Đại học Bang Kansas nằm ở Manhattan, và hai cô dự định vào học nghệ thuật tại đó, ở chung phòng. “Cậu muốn hay không thì mọi sự cũng đều sẽ thay đổi. Nhưng bây giờ thì cậu không thay đổi được tình hình đâu, nếu cứ sống ở Holcomb này, ngày ngày gặp Bobby, ngồi cùng một lớp - mà chẳng có lý do nào để phải thay đổi. Vì cậu với Bobby là một chuyện rất vui. Và nó sẽ là một cái gì vui vui để mà nghĩ lại - nếu cậu bị bỏ lại một mình. Cậu không làm cho ông già hiểu được cái đó à?” Không, cô không làm được. “Vì,” như cô giải thích với Susan, “cứ lúc nào tớ sắp sửa nói gì thì ông già lại nhìn tớ như kiểu tớ chắc là không yêu ông già. Hoặc như kiểu tớ đã bớt yêu đi. Thế là thình lình lưỡi tớ cứng cả lại; tớ chỉ còn muốn là con gái ông già và làm như ông già mong muốn thôi.” Susan không đối đáp lại được điều này; nó bao gồm những xúc cảm, một mối quan hệ vượt ra ngoài trải nghiệm của cô. Cô sống một mình với bà mẹ dạy nhạc ở Trường Holcomb, và cô không nhớ rõ ông bố lắm vì nhiều năm trước đây, ở quê nhà California, một hôm ông Kidwell đã bỏ nhà đi và không trở lại nữa.
“Mà dầu sao thì mình cũng không chắc là tại mình,” Nancy nói tiếp. “Cái đó đang làm cho ông già thành ra bẳn tính. Một cái gì đó khác cơ - bố đang lo một cái gì đó thật.”
“Mẹ cậu chăng?”
Không người bạn nào khác của Nancy dám cho rằng, mình được phép gợi ý một điều tương tự. Nhưng Susan là người được biệt đãi. Khi cô mới xuất hiện lần đầu tiên ở Holcomb, một đứa bé buồn rầu, có óc tưởng tượng, mảnh dẻ, xanh xao và đa cảm, lúc đó lên tám, kém Nancy một tuổi, nhà Clutter đã nồng nhiệt đón nhận cô đến mức cô bé California không cha mau chóng đi tới chỗ xem mình là một thành viên của gia đình. Trong bảy năm ròng, hai cô bạn không thể rời nhau, không ai thay được cho ai, do chỗ thật hiếm khi tìm được người có những xúc cảm tương tự và đồng điệu như vậy. Nhưng rồi tháng Chín vừa qua, Susan đã được chuyển từ trường địa phương lên một trường rộng hơn và nghe bảo là cao cấp hơn ở Garden City. Đây là thủ tục quen thuộc đối với những học sinh ở Holcomb có ý học tiếp cao đẳng, nhưng ông Clutter, vốn là người ủng hộ cộng đồng đến chết, lại coi việc bỏ đi như vậy là xúc phạm tới tinh thần cộng đồng; Trường Holcomb đủ tốt cho con cái ông và chúng sẽ ở lại đây. Vậy nên hai cô gái không thể lúc nào cũng bên nhau nữa, và Nancy thấu cảm sâu xa sự vắng mặt của cô bạn lúc ban ngày, người bạn mà khi ở cạnh bên, cô không cần phải tỏ ra gan dạ hay giữ kẽ.
“Được. Nhưng cả nhà mình rất mừng về việc mẹ cậu đã nghe thấy những tin tuyệt vời đấy.” Rồi Nancy nói, “Này,” ngập ngừng tựa như lấy tinh thần để đưa ra một nhận xét ghê gớm. “Tại sao mình lại ngửi thấy mùi khói thuốc lá chứ nhỉ? Thật tình là mình nghĩ mình lẩm cẩm mất rồi. Mình lên xe hơi, mình đi vào một gian phòng, thì y như rằng có ai đó vừa mới ở đấy hút thuốc lá. Đó không phải mẹ, không thể là Kenyon. Kenyon không dám đâu...”
Càng không phải ông khách nào đến nhà Clutter, ở đây thẳng thừng không bày gạt tàn thuốc lá. Từ từ, Susan nắm được cái ẩn ý, nhưng nó hơi lố bịch. Bất kể những mối lo riêng tư của ông Clutter là thế nào, cô cũng không thể tin rằng ông đang tìm khuây trong thuốc lá. Cô chưa kịp hỏi liệu có phải đó là điều Nancy muốn nói thật không thì Nancy dập máy. “Xin lỗi Susie, tớ phải đi, bà Katz đang ở đây.”
Dick lái chiếc xe Chevrolet 1949 mui kín màu đen. Khi lên xe, Perry đã soát cái ghế đằng sau để xem cây ghi ta của hắn ở đấy nguyên lành không, đêm qua, sau khi chơi cho một bữa liên hoan của các bạn Dick, hắn đã quên mất cây đàn và để nó lại trong xe. Đó là một chiếc ghi ta Gibson cũ, đánh giấy ráp và quang dầu để cho có màu vàng mật. Một loại công cụ khác nữa nằm bên cạnh nó - một khẩu súng săn hai nòng 12 ly, mới toanh, thép xanh biếc, dọc theo báng súng khắc bằng acid là cảnh một nhà thể thao và một đàn trĩ đang bay. Một cây đèn pin, một con dao câu cá, một đôi găng da, và một chiếc áo vest đi săn nhét đầy vỏ ốc đã góp thêm không khí vào bức tranh tĩnh vật lạ lùng này.
“Cậu mặc nó à?” Perry hỏi, chỉ vào cái áo vest.
Dick cong ngón tay gõ vào kính chắn gió. “Cạch, cạch. Thưa, xin lỗi ngài ạ. Chúng tôi đang đi săn thì bị lạc đường. Chẳng hay chúng tôi có thể dùng điện thoại...”
“Si, señor. Yo comprendo[3]. ”
“Chắc cú luôn,” Dick nói. “Tớ hứa với cậu, bồ à, chúng mình sẽ hất tung tóe tóc lên hết mấy bức tường của chúng nó đấy.”
“Mấy bức tường đó,” Perry nói. Vốn là dân ghiền từ điển, một tay mê những chữ tối nghĩa, hắn đã định nâng cấp ngữ pháp của đứa bạn đồng hành và mở rộng vốn từ của nó ngay từ dạo hai đứa nằm cùng xà lim tại Nhà tù Bang Kansas. Chẳng những không chút ác cảm với các bài học này, đứa học trò, để cho ông thầy vui lòng, cũng đã có lần sáng tác ra một tập thơ, và tuy những câu thơ đó hết sức tục tĩu, song Perry thấy rất buồn cười và vẫn đưa cho một xưởng thủ công trong tù đóng bìa da cho bản thảo tập thơ, còn tên của nó, Những trò đùa bẩn thỉu, thì được mạ vàng.
Dick mặc bộ đồ trẻ con màu lam, dòng chữ máy trên lưng áo quảng cáo cho XƯỞNG SỬA THÂN XE BOB SANDS. Hắn và Perry lái dọc theo tuyến đường chính của Olathe cho tới xưởng Bob Sands, một gara sửa chữa xe hơi, Dick đã làm việc ở đấy từ ngày được ra tù vào hồi giữa tháng Tám. Là thợ cơ khí có năng lực, hắn kiếm được sáu chục đô la một tuần. Hắn không đáng ăn lương cho cái việc hắn định làm sáng nay, nhưng ông Sands, vốn đã để hắn trông coi gara các ngày thứ Bảy, thì không bao giờ ngờ được là ông đã trả lương cho gã thợ này để hắn tháo rời xe ông ra xem xét. Hắn làm việc này, có Perry giúp đỡ. Chúng thay dầu, chỉnh lại khớp côn, nạp lại bình ắc quy, đổi một chút ổ lăn nhả ly hợp và lắp lốp mới vào hai bánh sau - mọi thứ cần thiết, vì trong hôm nay và ngày mai chiếc Chevrolet già nua này đang được trông đợi thực hiện những kỳ công có mùi trừng phạt.
“Vì lão khọm cứ ở bên,” Dick nói, trả lời Perry đang muốn biết tại sao hắn lại đến quán Tiểu Kim hoàn trễ giờ. “Tớ không muốn lão khọm thấy tớ mang khẩu súng ra khỏi nhà. Trời, giá mà lão ta biết tớ đã không nói thật nhỉ.”
“Đã biết mới đúng. Nhưng cậu bảo thế nào? Cuối cùng ấy?”
“Như chúng mình đã nói ấy. Tớ bảo chúng mình đi cả đêm - nói chúng mình đi thăm chị cậu ở Fort Scott. Vì tính đến chuyện chị cậu đang giữ tiền của cậu. Một nghìn rưỡi đô la.” Perry có một người chị, và đã có lúc có hai, nhưng người chị còn sống thì không ở Fort Scott, một thị trấn ở Kansas cách Olathe tám lăm dặm; thực tình hắn cũng chẳng chắc về địa chỉ hiện nay của chị hắn.
“Ông ấy có ức không?”
“Sao lại ức?”
“Vì ông ấy căm tớ,” Perry nói, giọng vừa nhẹ nhàng vừa nghiêm túc - một cái giọng tuy mềm dịu nhưng chế tác chính xác từng từ một, làm nó bật ra như vòng tròn khói từ miệng một vị thầy tu. “Mẹ cậu cũng ghét tớ. Tớ thấy được cái lối các cụ nhìn tớ, không tả được.”
Dick nhún vai. “Chẳng liên can gì tới cậu cả. Vậy thôi. Y như họ không thích tớ gặp bất cứ ai ở các Bức Tường.” Hai lần lấy vợ, hai lần bỏ vợ, bây giờ hai mươi tám và bố của ba đứa con trai, Dick đã được phóng thích theo lời hứa không tái phạm và với điều kiện hắn về ở với bố mẹ; gia đình có một đứa em trai nữa, sống ở một cái trại nhỏ gần Olathe. “Ai cũng mang một cây kim huynh đệ,” hắn nói thêm, tay sờ vào một nốt màu lam xăm ở dưới mắt trái - một huy hiệu, một mật hiệu dễ nhìn thấy nhờ đó một số bạn tù trước đây có thể nhận ra hắn.
“Tớ hiểu,” Perry nói. “Tớ có thiện cảm với cái đó. Các cụ là người tử tế. Thật tình bà cụ là một người dễ mến, mẹ cậu ấy.”
Dick gật đầu; hắn cũng nghĩ vậy.
Buổi trưa, chúng buông đồ nghề, và Dick cho nổ máy, nghe tiếng máy ro ro đều chắc, hắn hài lòng vì đã làm được ra đầu ra đuôi một công việc.
Nancy và cô trò nhỏ, Jolene Katz, cũng hài lòng về công việc sáng hôm đó của mình; thật ra thì cô trò nhỏ, một cô bé mười ba tuổi gầy, tự hào ra mặt. Một hồi lâu, cô nhìn vào người đoạt giải ruy băng lam, vào những quả anh đào trên lò nóng đang lim dim sủi bên dưới lớp cùi bánh khía mắt cáo giòn tan, rồi không nhịn được nữa, cô ôm chầm lấy Nancy hỏi: “Nói thật đấy nhé, em có tự làm được bánh không?” Nancy cười, ôm lại và bảo cho Jolene yên tâm là làm được - với một ít chút đỡ đần.
Jolene đòi nếm ngay bánh - không lẽ để cho nó nguội, thế thì vô lý quá. “Xin mời, hai chị em mình mỗi người một miếng đi nào. Và cả bác nữa nhé,” cô nói với bà Clutter vừa đi vào bếp. Bà Clutter cười - định thế; đầu bà nhức - và nói cảm ơn cháu, nhưng bà chẳng thiết ăn. Còn Nancy thì không có thì giờ; Roxie Lee Smith và bài độc tấu trompet của Roxie Lee Smith đang chờ cô, rồi thì sau đó mấy việc vặt cho mẹ, trong đó có cái liên quan tới buổi liên hoan mừng đám cưới mà vài cô gái ở Garden City tổ chức cho Beverly, và một việc nữa là tới gala lễ Tạ ơn.
“Con đi đi, mẹ sẽ chơi với Jolene cho tới khi mẹ con bé đến đón,” bà Clutter nói, rồi quay sang đứa trẻ với một vẻ nhút nhát không che giấu nổi, bà nói thêm, “Nếu như Jolene thấy ở bên bác không sao cả.” Thời con gái, bà đã được một giải về đọc thơ; hình như đến tuổi trưởng thành tiếng nói của bà rút lại thành ra một cái giọng đơn điệu, cái giọng của vai vế, thân phận, và cả con người bà cũng bị rút lại chỉ còn là một loạt những cử chỉ bị che mờ do nỗi sợ xúc phạm người khác, làm cho người khác phật lòng. “Bác mong cháu hiểu,” bà nói tiếp sau khi con gái đã đi. “Bác mong cháu đừng nghĩ là Nancy khô khan