Thầy Ages.
Thầy Ages là một ông chuột bạch sống bên kia trang trại, xa hơn thế nữa, nhà ông nằm trong một bức tường gạch. Tường đó ngày xưa thuộc hầm một ngôi nhà trại cũ. Nhưng nhà trại đã cháy từ nhiều năm trước, chẳng còn ai nhớ trông nó thế nào hay ngày xưa có ai sống ở đó. Hầm thì vẫn còn, nhưng chỉ là một lỗ hình vuông lớn trên mặt đất, những bức tường đổ nát che chắn gió và tuyết cho hằng hà sa số sinh vật nhỏ chọn đây làm chốn an cư. Mùa hè ở đây có rắn, rất nguy hiểm, nhưng mùa đông thì chẳng có gì phải lo.
Dù sao thì đấy vẫn là một chuyến đi dài gian khó, có thể còn liều lĩnh nữa nếu chị buông lơi cảnh giác. Thực tế là nơi đó xa đến nỗi thông thường chị Frisby chẳng đời nào đi muộn thế này, vì sợ chưa về đến nhà thì đã tối rồi. Nhưng Timothy rõ ràng không thể đợi thêm ngày nào nữa. Thế nên chỉ vừa mới nói phải đi thì năm phút sau chị đã ở trên đường rồi.
Nếu có thể thẳng đường mà tiến, theo đường ngắn nhất đến chỗ thầy Ages, chị sẽ đi được khá dễ dàng. Nhưng vì đi như thế sẽ phải qua gần nhà ông chủ trại cùng nhà kho, là nơi con mèo không ngớt sục sạo săn lùng, chị đành chọn lối rất vòng vèo ôm lấy cả sân trại rộng, men sát bìa rừng mà đi.
Chị chạy thoăn thoắt, kiểu chạy nước kiệu dễ dàng theo lối họ nhà chuột vẫn làm khi muốn chóng tới nơi. Chị đi hầu như không tiếng động, lựa nơi nào mặt đất trống hay cỏ mọc, tránh những lá khô hay sột soạt lạo xạo dù chân chị khẽ đến đâu. Chạy tới đâu chị để ý nhìn quanh tìm nơi ẩn nấp tới đó: gỗ đổ, rễ cây, hòn đá, những nơi có thể lánh tạm bên dưới nếu chẳng may gặp con gì to dữ tợn hơn. Vì dù con mèo là kẻ thù số một, vẫn còn vô số con vật ưa truy đuổi chuột trong rừng.
Khắp chặng đường, chị vẫn lo âu nghĩ về Timothy và hy vọng thầy Ages biết phép gì đó có thể chữa lành cho đứa con bé bỏng.
Phải mất hơn hai giờ đồng hồ chị mới nhận ra đã đến gần bức tường gạch nơi thầy sống. Mặc dù anh Frisby ngày xưa đánh bạn thân thiết với thầy Ages và thường xuyên tới thăm thầy, chị Frisby mới đến đây mỗi một lần, vào đợt mùa hè. Nhưng chị vẫn nhớ rất kỹ nơi đó. Đấy là một khoảng trống hơi bất thường giữa khu rừng. Ngày xưa, khi cái nhà trại còn có người ở, khi nó còn chưa bị cháy, hẳn là có một thảm cỏ rộng rãi xung quanh nhà. Dần dà trên khu đất trống đủ loại cây cối lộn xộn mọc lên, các lá cỏ cao rậm rạp, các loại cỏ dại bò lan, nhiều thứ quả mọng và hoa dại. Mùa hè nơi đây đẹp một vẻ hoang dã, hoa đua nở sáng bừng, mâm xôi và cỏ ba lá tím thơm ngát. Cũng có những loài cây đáng sợ hơn: cà độc dược chĩa gai tua tủa hay quả thương lục tím sẫm có độc, và ong bay vo ve khắp nơi.
Nhưng đến mùa đông thì nơi này trông hoang vu và gần như ma quái nữa, vì hoa và lá xanh đã tàn cả, chỉ còn trơ lại những nhánh xương khô của các loại cỏ dại, trên đó cuống hoa hay bầu hạt rủ xuống kêu loạt xoạt trong gió. Chính những loại hạt này cùng hoa và rễ cây dưới đất là nguyên liệu để thầy Ages bào chế các loại thuốc nước hay thuốc bột, đôi khi giúp người bệnh cải tử hoàn sinh.
Lần trước chị đến đây cũng là vì Timothy, hồi ấy mới là đứa bé tí xíu, chỉ to hơn hòn bi một tí. Trong lúc chơi đùa với các anh chị, chú đi lang thang rồi bị con gì đó có nọc cắn hay đốt phải. Chẳng ai biết là con gì. Khi lũ trẻ tìm thấy em thì chú đã nằm cuộn tròn người, tê liệt, gần như không thở được.
Hồi đó anh Frisby còn sống, và hai anh chị luân phiên nhau mới mang được Timothy đến nhà thầy Ages. Chuyến đi ấy buồn thảm và sợ hãi làm sao, khi đến nơi hai anh chị còn lo có thể chú nhóc đã chết rồi. Thầy Ages kiểm tra chú bé, khám lưỡi, bắt mạch rồi tìm thấy một cục sưng nhỏ màu đỏ gần cổ chú. “Bị nhện cắn rồi,” thầy nói. “Không phải con góa phụ đen, nhưng cũng nguy hiểm lắm.” Thầy vắt vài giọt chất lỏng đùng đục như sữa vào miệng Timothy rồi dựng chú ngồi thẳng cho nước chảy xuống họng, vì Timothy còn không nuốt được. Chỉ sau vài phút các bắp cơ tí xíu của chú đã lỏng ra, chú đã có thể cử động chân tay được. “Bé này sẽ lành lại thôi,” thầy Ages nói, “nhưng cũng phải xuôi xị thêm vài tiếng nữa.”
Lần đó cả ba hoan hỉ trở về nhà, lũ trẻ ở nhà mừng mừng rỡ rỡ thấy em mình còn sống. Nhưng chị Frisby nghĩ chuyện ấy đã mở đầu cho thể trạng yếu ớt của cậu con. Từ hồi đó chú rất hay va vấp khi đi lại, nhất là khi nào ốm mệt, và chú chẳng bao giờ lớn mạnh cường tráng được như cậu anh Martin. Nhưng chú suy tư rất nhiều, và về mặt này thì chú thật giống bố.
Bây giờ chị đã đến nhà thầy Ages, một lỗ khoét vào tường gạch từng để đỡ một đầu rầm sàn nặng. Nhà thầy thấp hơn nóc tường khoảng hai bộ, muốn xuống phải trèo qua một cầu thang lởm chởm là những đầu gạch vỡ. Chị gõ lên hòn cuội làm cánh cửa. “ Lạy trời cho ông có nhà,” chị nghĩ, nhưng thầy đi vắng. Không thấy ai trả lời, chị ngồi bệt xuống đợi trên rìa gạch hẹp trước cửa nhà.
Mất nửa tiếng rồi, mặt trời thì cứ xuống thấp dần ở phía Tây, chị mới nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ trên đầu và thầy hiện ra, trên lưng còn cõng túi vải căng lên vì thứ gì lồng phồng bên dưới. Bộ lông xám bạc bóng đến nỗi trông thầy như sáng ngời lên. Chị Frisby từng nghe đồn thầy Ages không hẳn thuộc loài chuột bạch, nghĩa là không phải lông trắng từ lúc chào đời mà là ngả bạc vì tuổi tác. Có đúng không thì chị cũng không rõ. Hẳn là thầy có vẻ rất già, và rất thông thái, nhưng chân tay thầy vẫn nhanh nhẹn như thường.
“Ôi thầy Ages, thầy đã về tôi mừng quá,” chị nói. “Tôi là vợ anh Frisby, chắc thầy không nhớ.”
“Tất nhiên tôi vẫn nhớ chứ. Cho tôi gửi lời chia buồn chuyện anh Frisby. Cháu bé nhà chị thế nào rồi - nó tên Timothy phải không nhỉ?”
“Tôi đến gặp thầy chính là vì cháu nó đấy. Nó lên cơn ốm nặng rồi.”
“Thật à? Tôi đã lo có thể rồi đây nó sẽ không được khỏe mạnh như những đứa khác.”
“Tôi rất mong thầy chữa được cho cháu nó.”
“Cũng có thể đấy. Chị vào nhà đi, để tôi bỏ túi này xuống đã.”
Nhà thầy Ages hơi lớn hơn hộp giày một tí nhưng hình dáng cũng tương tự, trông đúng là nhà một vị ẩn cư. Đồ đạc gần như không có gì ngoài ít đệm nằm trong góc, một miếng gạch làm ghế và một miếng khác dùng làm chày giã thuốc đã mòn nhẵn. Chạy dọc một bên tường là từng đống nhỏ sắp xếp gọn gàng, những nguyên liệu thô nhặt về từ khắp nơi: rễ, hạt cây, lá khô, bầu quả, vỏ cây lột thành từng dải và các loại nấm đã khô quắt.
Cái túi được trút ra bên cạnh dãy dược liệu. Ở trong là mấy cái cây nhỏ cùng một giống, rễ chùm, lá xanh thẫm đầy gân trông như lá bạc hà.
“Hỉ đông thảo,” thầy Ages nói. “Ngôn ngữ thực vật học thì là Chimaphila umbellata. Cây này xanh suốt mùa đông, sang xuân làm thuốc bổ thì tuyệt hảo. Phần lớn người ta chỉ dùng lá, nhưng tôi phát hiện ra rễ còn công hiệu hơn nhiều.” Thầy thu vén mớ cây thành một đống thật gọn. “Nhưng chị đến đây có phải vì nó đâu. Bé Timothy bị sao vậy?”
“Nó lên cơn sốt cao lắm. Mê sảng nữa. Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ.”
“Cao đến cỡ nào?”
“Cao đến nỗi sờ vào bỏng tay, mồ hôi chảy đầm đìa, thế mà nó vẫn run cả người vì lạnh.”
“Quấn chặt vào trong chăn ấy.”
“Tôi có làm thế rồi.”
“Thế còn mạch thì sao?”
“Mạch nhanh đến nỗi chẳng phân biệt được nhịp nào ra nhịp nào nữa.”
“Lưỡi thì sao?”
“Lưỡi đóng cặn đến nỗi trông như màu tím ấy.”
“Nó thở thế nào?”
“Nó thở gấp lắm, ngực thì khò khè. Ban đầu nó còn nói không thở được.”
“Nhưng nó lại không ho à?”
“Không.”
“Nó bị viêm phế quản rồi,” thầy Ages nói. “Tôi có mấy thứ thuốc này có thể chữa nó khỏi. Nhưng quan trọng nhất là phải giữ ấm. Và phải cho nó nằm yên trong giường.” Thầy đi vào góc nhà, lấy trên hòn gạch nhô ra làm kệ xuống ba gói thuốc bột gói cẩn thận trong giấy trắng.
“Tối nay cho bé nhà chị uống một gói. Pha vào nước rồi cho nó uống. Nếu vẫn còn mê sảng thì bóp mũi rồi đổ thẳng vào họng. Sáng mai cho uống gói thứ hai, rồi sáng ngày kia uống nốt gói còn lại.”
Chị Frisby nhận ba gói thuốc. “Liệu cháu có đỡ không?” chị hỏi, run sợ phải nghe câu trả lời.
“Lần này thì nó sẽ đỡ hơn. Đến mai sẽ hạ sốt, ngày kia sẽ dứt hẳn, nếu nó chịu uống hết thuốc. Nhưng như thế vẫn chưa phải là khỏi hẳn, phổi vẫn còn rất yếu và nhạy cảm. Nhiễm lạnh một chút hoặc hít phải khí lạnh, chỉ cần một hơi thôi, chắc chắn nó sẽ lại mắc viêm phổi nặng hơn trước. Và lần sau có thể sẽ không hồi phục. Sẽ phải đề phòng trong vòng ba tuần tới, có thể là cả tháng.”
“Sau đó thì sao ạ?”
“Sau đó nữa vẫn phải cẩn thận, nhưng hy vọng đến lúc đó trời đã ấm lên rồi.”
Đến lúc này mặt trời đằng tây đã xuống rất thấp và đang lặn vào sau dãy núi cao bên kia cánh rừng. Chị Frisby cảm ơn thầy Ages và hết sức vội vã lên đường trở lại.