Đường Dẫn Khí.
Và chuyện là thế đấy.
Dạy chúng tôi biết đọc, họ đã dạy chúng tôi cách thoát đi.
Justin trèo khá dễ dàng theo cửa lồng đã mở và biến mất trên đầu sau một cú quất đuôi. Cậu quay lại sau một giờ, cực kỳ phấn khởi, với rất nhiều thông tin mới. Nhưng đúng với tính khí mình, ngay cả khi phấn khích cậu cũng vẫn tỏ ra bình tĩnh, suy nghĩ sáng suốt. Cậu không trèo xuống cửa lồng mình mà lại xuống lồng tôi gọi khẽ - chúng tôi đều đoán là đến giờ đấy mọi chuột khác đều đã ngủ cả.
“Nicodemus à? Ra đây đi. Tôi sẽ chỉ cách cho anh.” Cậu hướng dẫn tôi thò tay ra ngoài các thanh song cửa rồi sờ quanh bên dưới. Tôi tìm thấy cái núm kim loại nhỏ, đẩy nó ra trước rồi sang ngang, cảm thấy cánh cửa tung ra bên vai. Tôi bắt chước cậu trèo theo cạnh lồng lên kệ bên trên. Đến đó chúng tôi dừng lại. Đây là lần đầu tiên tôi gặp Justin tận mặt.
Cậu nói: “Nói chuyện ở đây tốt hơn là qua vách ngăn.”
“Phải. Cậu có xuống được không?”
“Có.”
“Cậu trở lên bằng cách nào thế?”
“Cuối kệ này có một tủ lớn, các lồng chuột nhắt để trong đó. Tủ này có cửa lưới thép. Có thể trèo lên trèo xuống y như thang.”
“À phải,” tôi nói. “Tôi nhớ ra rồi.” Tôi đã nhìn thấy tủ ấy nhiều lần khi lồng tôi bị mang qua đó. Không hiểu vì sao - có lẽ vì chúng nhỏ hơn - tụi chuột nhắt bị nhốt trong một cái lồng-ở-trong-lồng.
Justin nói: “Nicodemus, tôi nghĩ mình tìm được cách trốn ra rồi.”
“Thế ư! Cách thế nào?”
“Ở hai đầu phòng đều có chỗ mở trên ván lát chân tường. Không khí thổi vào một bên và hút ra đầu bên kia. Cả hai đều đậy vỉ sắt, trên vỉ có biển đề: Nhấc lên để điều chỉnh khí lưu. Tôi nhấc thử một cái rồi, nó gắn bản lề như là cửa sập ấy. Đằng sau thì có một thứ như kiểu cửa sổ sắt, đẩy trượt ra thì khí thổi vào mạnh hơn.
“Nhưng cái chính là cửa đó đủ lớn cho chúng ta bước ra ngoài.”
“Nhưng đầu bên kia có gì? Cửa đó dẫn đi đâu?”
“Bên kia là đường dẫn khí, một thứ ống kim loại hình vuông gắn thẳng vào tường ấy. Tôi có đi theo không xa lắm, nhưng tôi cũng đoán được nó đi tới đâu. Mỗi phòng trong tòa nhà đều phải có một đường ống tương tự dẫn vào, và tất cả đều phải tỏa ra từ một ống trung tâm nào đấy - và tới điểm nào đó ống này phải dẫn ra ngoài. Vì không khí trong phòng là từ đó mà tới. Chính vì thế mà cửa sổ không bao giờ mở. Tôi còn nghĩ là các cửa này không mở được.”
Tất nhiên, cậu nói đúng. Tòa nhà này dùng hệ thống điều khí trung tâm; nhiệm vụ chúng tôi bây giờ là tìm ra ống trung tâm và thăm dò nó. Sẽ phải có một đầu mở đón khí vào và một đầu khác xả khí ra. Nhưng nói thì dễ, làm thì khó, mà trước khi làm còn có nhiều câu hỏi nữa. Còn các chuột kia thì sao? Có tất cả hai mươi đứa trong đây, và chúng tôi phải báo cho các bạn khác chứ.
Thế là chúng tôi đánh thức họ dậy, từng chuột một, chỉ cho họ cách mở lồng. Thật kỳ quặc cái nhóm hội lại đêm ấy dưới ánh đèn lờ mờ trong phòng thí nghiệm vang âm, trên kệ nơi tôi và Justin vừa nói chuyện. Chúng tôi tất cả đều hơi hơi biết nhau qua những tin nhắn trao đổi trong vài tháng qua, nhưng ngoại trừ Jenner và tôi, còn lại chưa ai thực sự quen mặt. Tất cả đều là người lạ - mặc dù như bà chắc hiểu, chẳng mấy chốc giữa chúng tôi nảy nở một tình cảm đồng đội, vì chỉ có hai mươi đứa tôi đơn độc giữa thế giới lạ lùng này. Đơn độc đến đâu, lạ lùng thế nào, chưa ai hiểu ngay từ đầu, nhưng chúng tôi cũng cảm nhận được phần nào từ rất sớm. Cả nhóm coi tôi là lãnh đạo, chắc hẳn vì Justin và tôi là người đầu tiên giải phóng cho họ và vì Justin trông rành rành là nhỏ tuổi hơn.
Chúng tôi không tìm cách bỏ trốn ngay đêm đó mà cùng nhau đi xem xét cái vỉ sắt Justin đã tìm ra, cũng như lập kế hoạch thám thính hệ thống dẫn khí. Jenner rất sành sỏi những chuyện loại đó, anh luôn tiên liệu được các vấn đề có thể xảy ra.
“Nếu phòng nào cũng có ống khí như thế này dẫn đến,” anh nói, “ta sẽ rất dễ lạc. Trên đường thám thính ta cần có cách tìm lại lối về đây.”
“Tại sao phải về đây làm gì?” ai đó hỏi.
“Vì có thể phải mất nhiều đêm mới tìm được đường ra. Nếu đúng là thế thì người thám thính phải trở lại lồng trước khi trời sáng. Nếu không bác sĩ Schultz sẽ phát hiện.”
Jenner nói đúng. Chuyện đó làm chúng tôi mất một tuần. Sau nhiều bàn luận, chúng tôi đi tìm vài thứ dụng cụ: trước hết là cuộn chỉ lớn trong một ngăn tủ mà một hôm mấy đứa đã nhìn thấy Julie cất vào. Thứ hai là cái tuốc nơ vít để trên kệ gần các thiết bị điện - vì như Jenner chỉ ra, rất dễ sẽ có lưới chắn ở đầu ống khí để lọc bụi bặm, có thể sẽ phải vặn nó ra. Cái thực sự cần là một ngọn đèn, bởi ban đêm trong đường ống tối mịt. Nhưng chẳng tìm được đâu ra đèn, bao diêm cũng không có cái nào. Chỉ và tuốc nơ vít chúng tôi giấu sẵn trong lòng ống, cách miệng vào vài bộ. Chỉ hy vọng người ta sẽ không nhận ra bị mất, hoặc nếu có thì cũng không ngờ cho chúng tôi.
Justin và hai chuột khác được chọn vào nhóm thám thính (một là Arthur, bà đã gặp rồi đấy). Lần đầu tiên đối với họ thật rợn người: đây là mê cung kinh hoàng nhất trong số các mê cung, bóng tối làm cho họ nhanh chóng mất phương hướng. Thế nhưng họ vẫn miệt mài hàng đêm, tìm hiểu mạng lưới ống khí đan nhau như một mạng nhện lập thể giăng giữa những trần và tường của tòa nhà. Mỗi lần họ lại buộc đầu sợi chỉ vào vỉ sắt trong phòng thí nghiệm rồi vừa đi vừa giở cuộn chỉ ra. Hết lần này đến lần khác họ đi đến mút chỗ rồi phải quay lại.
“Rõ là không đủ dài,” Justin không ngớt than phiền. “Mỗi lần hết chỉ tôi lại nghĩ: giá mình đi được thêm mười bộ nữa thì...”
Rốt cuộc cậu ta đã làm đúng như thế. Đêm thứ bảy, khi cuộn chỉ nhả hết, cậu cùng hai người bạn vừa đi tới một khúc đường ống rộng hơn tất cả những nơi đã qua, và càng đi họ càng có cảm giác nó chênh chếch hướng lên trên. Nhưng ống chỉ đã cạn.
“Hai anh đợi ở đây,” Justin nói với hai người kia. “Tôi chỉ đi thêm một chút nữa thôi. Giữ chặt lấy ống chỉ nhé, và nếu tôi gọi thì nhớ đáp.” (Họ đã buộc đầu chỉ vào ống để không mất dấu trong bóng tối.)
Justin đang có linh tính. Khí thổi qua lòng ống chỗ đó có mùi tươi mát hơn và hình như thổi mạnh hơn những nhánh khác. Ngay phía trước cậu nghĩ hình như mình nghe tiếng máy chạy rừ rừ, và sàn kim loại dưới chân rung động nhè nhẹ. Cậu tiến lên. Ống khí ngoặt lên cao rất dốc - và rồi thẳng trước mặt, cậu đã nhìn ra: một mảng đen sáng màu hơn cái đen ngòm bao vây quanh mình, và chính giữa có ba ngôi sao đang nhấp nháy. Đấy là bầu trời đêm. Bên kia khoảng hở, đúng như Jenner dự đoán, có một lưới mắt cáo thô bằng dây thép dày.
Cậu chạy về phía đó thêm vài giây nữa rồi dừng lại. Tiếng máy vừa bất chợt dội lên, từ tiếng rừ rừ biến thành tiếng ầm ầm. Rõ ràng nó đã chuyển tốc độ; cần gạt tự động đâu đó trong tòa nhà đã tăng từ thấp lên cao, và luồng gió nhè nhẹ vừa thổi qua giờ thốc vào Justin khiến cậu thở hắt. Cậu trụ chân thật chắc trên sàn kim loại cố đứng vững. Trong một phút, cũng đột ngột như khi vừa ồn lên, tiếng máy trở lại rì rầm. Cậu nhìn quanh, nhận ra may mà mình đã dừng lại. Nhờ ánh trời mờ mờ chiếu vào cậu thấy mình đang ở điểm có chừng hai tá ống khí cùng chụm vào như các cành cây nối vào thân. Chỉ thêm vài bước nữa cậu sẽ không còn phân biệt được cành nào là của mình. Cậu theo đường lộn ngược lại, mấy phút sau đã tới chỗ các bạn.
Đêm đó chúng tôi họp mặt, Justin kể với cả nhóm phát hiện của mình. Cậu đã để lại sợi chỉ, lấy tuốc nơ vít chặn lên, để dẫn đường chúng tôi. Một số đề nghị đi ngay tức khắc, nhưng lúc đó đã muộn rồi, và Jenner cùng tôi lập luận phản đối lại. Chúng tôi không biết phải mất bao lâu mới gỡ được lưới chắn ở cuối đường. Nếu quá một hoặc hai tiếng đồng hồ thì trời sẽ sáng. Như thế chúng tôi sẽ không thể liều quay lại phòng thí nghiệm được, mà phải ở cả ngày trong ống khí hoặc tìm cách ra ngoài giữa ban ngày. Bác sĩ Schultz có thể còn đoán được chúng tôi đi lối nào và nhốt cả lũ lại trong đường ống khí.
Cuối cùng, dù miễn cưỡng, tất cả đồng ý ở thêm một ngày nữa trong phòng thí nghiệm và đi ngay đầu đêm mai. Nhưng đến được quyết định ấy thật khó khăn, tự do thì đã ở quá gần và cả nhóm cũng như tôi đều nghĩ: “Giả thử...” Giả thử bác sĩ Schultz bỗng nghi ngờ khóa lồng lại thì sao? Giả thử có ai tìm thấy sợi chỉ và lôi nó ra? (Cái này không có nhiều khả năng - đầu bên này buộc vào ống chỉ, đặt cách miệng ống khí sáu bộ, được giấu rất kỹ.) Dù sao thì chúng tôi cũng bồn chồn.
Rồi đúng lúc chúng tôi chuẩn bị kết thúc cuộc họp, lại có rắc rối mới nảy sinh. Chúng tôi đứng họp thành vòng khá tròn trên sàn phòng thí nghiệm, ngay bên ngoài hai cánh cửa lưới đóng các lồng chuột nhắt. Lúc này từ trong tủ một giọng nói vọng ra:
“Nicodemus.” Tiếng gọi rành mạch nhưng nài nỉ, giọng một anh chuột nhắt. Chúng tôi đã gần như quên khuấy có chuột nhắt ở ngay đấy, còn tôi giật mình khi thấy một con trong đó biết tên tôi. Tất cả chúng tôi đều im lặng.
“Ai gọi tôi đấy?” tôi hỏi.
“Tôi tên là Jonathan,” giọng nói kia đáp. “Chúng tôi nghe các anh nói chuyện thoát ra từ lâu rồi. Chúng tôi cũng muốn đi lắm nhưng không tự mở lồng được.”
Bà có thể tưởng tượng là chuyện này làm chúng tôi kinh hãi chừng nào, lại ngay phút cuối. Chúng tôi không ai biết nhiều về tụi chuột nhắt trừ những gì nghe được bác sĩ Schultz đọc vào máy ghi âm. Qua đó chúng tôi chỉ biết chúng cũng nhận cùng những mũi tiêm như chúng tôi, và liệu pháp này đối với chúng cũng hiệu quả không kém. Chúng chỉ là một thí nghiệm bên lề, không có nhóm đối chiếu nào.
Justin đang ngắm nghía cánh tủ.
“Sao lại không nhỉ?” cậu nói. “Miễn là chúng tôi mở được cửa.”
Có ai đó lầu bầu: “Chúng nó sẽ làm ta chậm lại.”
“Không,” chuột nhắt tên Jonathan nói. “Chúng tôi không cản đường các anh đâu. Chỉ cần mở lồng cho chúng tôi khi nào các anh đi, chúng tôi sẽ tự tìm đường. Nếu các anh muốn thì thậm chí chúng tôi cũng không đi cùng các anh nữa.”
“Các anh có bao nhiêu người?” tôi hỏi.
“Chỉ có tám thôi. Cửa tủ dễ mở lắm. Chỉ có cái khóa móc ở lưng chừng thôi.”
Nhưng Justin và Arthur đã nhìn ra rồi. Họ trèo lên cửa lưới, tháo khóa ra và hai cánh tủ mở tung.
“Lồng cũng mở giống như lồng các anh,” một chuột nhắt khác nói, “nhưng tay chúng tôi ngắn quá không thò ra mở được.”
“Được rồi,” tôi nói. “Đêm mai ngay khi bác sĩ Schultz và hai người kia đi, chúng tôi sẽ mở cửa lồng cho các anh, các anh có thể theo sợi chỉ cùng chúng tôi thoát ra. Sau đó các anh tự đi đường các anh.”
“Nhất trí,” Jonathan nói, “và cảm ơn.”
“Còn bây giờ,” tôi nói, “tất cả chúng ta quay lại lồng thôi. Justin, cậu làm ơn gài lại tủ như cũ.”
Tôi đã đẩy khóa tự nhốt mình trong lồng và chuẩn bị ngủ thì nghe tiếng cào trên cửa, là Jenner đang trèo từ trên xuống.
“Nicodemus,” anh nói, “anh vào được không?”
“Tất nhiên được chứ. Nhưng sắp sáng đến nơi rồi.”
“Anh không ở lâu đâu.” Anh mở cửa chui vào. “Có chuyện này chúng ta cần quyết định.”
“Em biết,” tôi nói. “Em cũng nghĩ nhiều về chuyện đó rồi.”
“Khi ra được hẳn thì ta sẽ đi đâu?”
Tôi không nhìn được mặt Jenner trong bóng tối lồng, nhưng nghe giọng tôi biết anh đang lo lắng. Tôi nói:
“Ban đầu em nghĩ, cố nhiên là về nhà rồi. Nhưng rồi khi bắt đầu nhớ lại, em nhận ra như thế không hay. Em nghĩ là tìm đường thì dễ vì bây giờ chúng ta biết đọc rồi. Nhưng nếu về được đi nữa thì sao? Chúng ta sẽ chẳng gặp ai quen biết cả.”
“Tuy thế,” Jenner nói, “em vẫn biết đấy không phải là điểm chính.”
“Vâng.”
“Điểm chính là thế này: Ta không biết phải đi đâu vì không biết ta là cái gì. Em có muốn trở lại sống trong ống cống không? Và ăn rác rưởi của con người? Vì loài chuột vẫn sống như thế. Nhưng thực tế là chúng ta không còn là chuột nữa. Chúng ta là thứ được bác sĩ Schultz tạo ra. Một thứ hoàn toàn mới. Bác sĩ Schultz đã nói trí tuệ của chúng ta đã tăng quá một nghìn phần trăm. Anh nghĩ ông ta tính toán lầm, anh nghĩ chúng ta ắt phải thông minh ngang bằng ông ta - có thể còn hơn nữa. Chúng ta biết đọc, và tập luyện một chút thì cũng sẽ biết viết. Anh quyết tâm làm được cả hai. Anh nghĩ ta có thể học bất cứ điều gì ta muốn. Nhưng chúng ta sẽ làm thế ở đâu? Một toán chuột văn minh có thể đi đâu được bây giờ?”
“Em không biết,” tôi nói. “Chúng ta sẽ phải tìm ra câu trả lời. Sẽ chẳng dễ dàng đâu. Nhưng dù thế thì việc đầu tiên vẫn là phải ra khỏi đây đã. Chúng ta may mắn có được cơ hội này, nhưng cũng sẽ không lâu đâu. Chúng ta đi trước bác sĩ Schultz, nếu ông ta biết chúng ta biết những gì thì sẽ chẳng để chúng ta lại một mình trong này thêm một đêm nữa. Và chắc chắn ông ta sẽ khám phá ra sớm thôi.”
“Lại thêm một chuyện cần lo nữa,” Jenner nói. “Nếu chúng ta có thoát ra ngoài, khi ông ta phát hiện ta biến mất - chẳng lẽ ông ta không đoán được ta ra bằng cách nào? Chẳng lẽ ông ta không hiểu được ắt chúng ta đã biết đọc?”
“Hẳn là có.”
“Rồi thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta loan báo có một toán chuột văn minh xổng chuồng - một toán chuột biết đọc, biết nghĩ, biết suy luận sự việc?”
Tôi nói: “Cứ đợi đến khi ta được tự do rồi hẵng lo việc đó.”
Nhưng Jenner nói đúng. Đấy là một chuyện đáng lo, lúc đó và có lẽ bây giờ vẫn vậy.
Ngày hôm sau thật là kinh khủng. Tôi cứ nghĩ ngay bây giờ bác sĩ Schultz sẽ nói: “Ai đã lấy tuốc nơ vít của tôi?” Và rồi Julie sẽ thêm: “Cuộn chỉ của tôi cũng biến mất nữa.” Chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra khiến họ phải suy nghĩ - nhưng đã không xảy ra, và đêm ấy, một tiếng sau khi Julie, George và bác sĩ Schultz đã rời phòng thí nghiệm, chúng tôi ra khỏi lồng và tụ tập toàn đội trước tủ chuột nhắt. Justin mở cửa tủ, kéo khóa lồng, và đám chuột nhắt chui ra. Trông chúng rất nhỏ bé sợ sệt, nhưng có một con can đảm tiến lên trước.
“Anh là Nicodemus?” anh ta nói với tôi. “Tôi là Jonathan. Cảm ơn đã đưa chúng tôi đi cùng các anh.”
“Chúng ta vẫn chưa ra được mà,” tôi nói, “nhưng dù sao cũng sẵn lòng.”
Không có thời gian mà chuyện vãn. Ánh sáng qua cửa sổ bắt đầu ngả xám rồi; chưa đến một giờ nữa trời sẽ tối, mà chúng tôi cần ánh sáng để nghĩ cách mở lưới chắn đầu kia ống khí.
Chúng tôi đến bên miệng ống trên ván lót tường.
“Justin,” tôi nói, “cậu dẫn đầu. Đi đến đâu cậu quấn chỉ lại đến đấy. Tôi sẽ đi đoạn hậu. Không ai gây tiếng ồn. Chắc chắn trong nhà này đâu đó vẫn có người thức. Không được để họ nghe thấy chúng ta.” Tôi không muốn bỏ lại cuộn chỉ có nguy cơ bị tìm thấy: càng nghĩ kỹ tôi càng tin bác sĩ Schultz sẽ tìm cách truy đuổi chúng tôi, vì rất nhiều lý do.
Justin nhấc vỉ, đẩy tấm ván trượt mở ra, và chúng tôi đi vào từng đứa một. Nhìn những chuột khác qua trước mặt mình, lần đầu tiên tôi để ý trong số chuột nhắt có một con màu trắng. Rồi chính tôi cũng đi vào, đóng vỉ lại sau lưng và đẩy tấm chắn đóng lại gần kín như cũ.
Có Justin dẫn trước chúng tôi đi qua con đường tối rất mau chóng và thuận lợi. Chỉ mất mười lăm hay hai mươi phút chúng tôi đã đi hết cuộn chỉ. Đến đó, như Justin đã báo trước, đường ống rộng ra, ở đây nghe thấy tiếng rì rầm của cỗ máy trước mặt và gần như lập tức chúng tôi thấy khoảnh vuông là ánh ngày màu xám. Chúng tôi đã đến cuối đoạn ống, thì một chuyện kinh khủng xảy ra.
Justin, chắc bà còn nhớ, đã cho chúng tôi biết cỗ máy kia, cái bơm hút khí qua đường ống, đã chuyển từ mức thấp lên cao khi cậu lần đầu tiên đi đến đó. Thế nên chúng tôi đã được báo trước. Phiền một nỗi là cảnh báo cũng chẳng có tác dụng gì, đối với đoàn chuột nhắt.
Chúng tôi đang đi đến gần khoảng miệng sáng thì tiếng ồn nổi lên. Luồng gió phụt vào thình lình như một cơn gió huýt, khiến tôi không thở nổi và hai tai dính bẹp vào đầu, theo bản năng tôi nhắm mắt lại. Tôi vẫn còn ở sau cùng, khi mở mắt tôi thấy một chuột nhắt đang trượt qua mình, móng vuốt nhỏ xíu cào cấu vào mặt kim loại nhẵn dưới chân nhưng vô ích. Một con nữa bay theo, rồi lại một con nữa, từng con một bị thổi ngược lại vào mê cung đen ngòm những đường hầm chúng tôi vừa rời bỏ. Tôi đứng vững lại ở góc đường ống và chộp được một con đang trượt qua. Đấy là con chuột bạch. Tôi nắm được chân nó, kéo một vòng ra sau lưng mình và ôm chắc lấy. Một con nữa lao mặt vào chuột cống đằng trước tôi và được giữ lại - đấy là Jonathan vốn đi gần đầu. Nhưng số còn lại đã mất dấu, cả sáu con. Chỉ vì chúng nhẹ quá; chúng bị cuốn đi như lá vàng khô, và chúng tôi chẳng bao giờ còn gặp lại chúng.
Thêm một phút nữa tiếng ồn dừng lại, luồng khí cuồn cuộn giảm xuống và cơn gió chỉ còn phe phẩy, chúng tôi lại có thể lên đường.
Tôi nói với con chuột bạch: “Anh nên bám lấy tôi thì hơn. Chuyện này có thể còn xảy ra nữa.”
Anh ta nhìn tôi bất bình. “Nhưng còn mấy chuột kia thì sao? Sáu chuột mất tích! Tôi phải quay lại đi tìm họ.”
Jonathan nhanh chóng hùa theo: “Tôi sẽ đi cùng.”
“Không được,” tôi nói. “Như thế sẽ rất vô ích và ngớ ngẩn. Các anh đâu có biết họ bị thổi vào ống nào, còn không biết họ có rơi vào cùng một nơi không. Mà nếu có tìm ra họ - thì làm thế nào các anh tìm đường ra trở lại? Và nếu gió lại thổi nữa thì sao? Lúc đó sẽ là tám chuột mất tích chứ không phải sáu.”
Gió lại thổi nữa thật, đến cả năm sáu lần, giữa lúc chúng tôi dùng tuốc nơ vít cố cạy lưới chắn. Mỗi lần như vậy chúng tôi lại phải ngừng tay tìm cách bám chặt. Hai chuột nhắt bám lấy chính cái lưới, vài đứa trong chúng tôi đứng trụ sau lưng, đề phòng họ tuột tay. Còn Justin cầm theo cuộn chỉ làm dấu đường, quay lại tìm sáu chuột kia. Cậu đi hết ngõ này đến ngả khác đến tận mút cuộn chỉ, vừa đi vừa gọi khẽ - nhưng chẳng ích gì. Đến tận hôm nay chúng tôi cũng không biết số phận sáu chuột đó ra sao. Có thể cuối cùng họ đã tìm được đường ra, hoặc là họ đã chết trong ấy. Chúng tôi vẫn để ngỏ lưới chắn cho họ để phòng chừng.
Cái lưới chắn ấy. Nó bằng dây thép rất nặng, lỗ to cỡ quả hạt dẻ, bắt vào khung thép. Chúng tôi dùng tuốc nơ vít nạy rồi đập thử đủ kiểu, nhưng không tài nào làm nó nhúc nhích. Nó bắt vào từ bên ngoài - như thế nào thì chúng tôi không nhìn được. Cuối cùng chuột bạch có ý kiến.
“Cắm tuốc nơ vít vào lỗ gần sát đất,” anh ta nói, “rồi bẩy lên.” Chúng tôi làm theo, cái khe cong đi độ vài ly. Chúng tôi lặp lại, bẩy xuống dưới, rồi trái, rồi phải. Cái lỗ dần dần rộng ra, tới khi chuột bạch nói: “Tôi nghĩ là đủ rồi.” Anh ta trèo lên khe hở nhỏ và sau một hồi vặn vẹo luồn lách, anh ta cũng qua được. Jonathan theo sau; cả hai rơi xuống khuất tầm mắt, nhưng một phút sau đầu Jonathan đã lại hiện ra bên ngoài.
“Chốt này là loại trượt,” anh ta nói. “Chúng tôi đang cố mở.” Ở trong chúng tôi nghe thấy tiếng kèn kẹt khẽ do hai chuột nhắt kéo rồi giật chốt, cố đẩy nó ra. Rồi kẽ hở dưới đáy lưới nở ra; chúng tôi đẩy mở, và chúng tôi đã đứng trên mái nhà Nimh, tự do hoàn toàn.