Trốn Thoát.
Lúc mười giờ theo đồng hồ bếp, nhà Fitzgibbon đi ngủ. Rồng được cho ra ngoài, cửa khóa lại hết, đèn tắt ngấm. Việc đầu tiên do Billy phụ trách, theo lệnh của bà mẹ, nhưng không phải không gặp khó khăn. Cậu ta mở cửa.
“Ê Rồng. Ra đi.”
“Nó không chịu dậy.”
“Chưa bao giờ thấy con nào lười như con này. Mỗi ngày một tệ.”
Cuối cùng thì con Rồng, chỉ có tiếng ư ử ngái ngủ phản kháng, được bế lên và thả xuống hiên sau. Nó gần như không mở mắt.
Tới lúc này đã tối hẳn. Chị Frisby đợi thêm vài phút đến khi tin chắc họ đã đi hẳn và mắt chị đã điều tiết lại đủ nhìn thấy các thanh song lồng. Tất cả là những thanh kim loại dọc, trơn nhẵn, chỉ dày ngang que diêm nên rất khó trèo, nhưng quay người sang ngang đôi chút chị có thể bám được khá chắc. Chị nhích từng ly lên tới cửa trượt, tìm cách nhấc nó lên.
Ngay từ cú nâng đầu tiên chị đã thấy là vô ích. Cửa cứng và rất nặng, chị không thể tóm được vào nó hay thanh lồng để tạo sức ép được. Nhưng chị vẫn cố gắng, đầu tiên thử nhấc ở giữa cửa, rồi thử góc này, rồi góc tiếp, căng hết cơ bắp lên. Sau nửa tiếng chị chấp nhận thất bại, ít nhất là trước mắt, và trèo trở lại xuống đáy lồng. Chị ngồi đó, người run lên vì mệt và suy nghĩ.
Bằng cách nào đó chị phải thoát được ra. Các con của chị ngay lúc này có một mình trong nhà tối, lần đầu tiên ở một mình giữa đêm. Martin và Teresa chắc đang cố gắng vỗ về hai đứa nhỏ hơn, nhưng chính chúng nó cũng sợ hãi và buồn bã. Không biết chúng nghĩ gì? Chị chưa hề kể về con Rồng và thuốc ngủ, nên chị chỉ hy vọng có thể chúng sẽ kết luận, việc gì đó bắt chị nghỉ lại đêm ở chỗ chuột cống.
Nhưng đến mười một giờ, chắc là chẳng còn lâu nữa (trong bóng tối chị không nhìn thấy đồng hồ), đàn chuột cống sẽ tới chuyển nhà. Mà không biết họ có đến không nếu biết - vì Justin chắc đã báo lại rồi - chị vẫn chưa ra khỏi bếp? Chị nghĩ là có. Chị hy vọng là có, hy vọng Justin sẽ đi cùng nói chuyện với đám trẻ, tìm cách xoa dịu cho chúng bớt sợ. Ở Justin có vẻ gì đó, cái vẻ tự tin trời sinh của anh, có thể giúp chúng được.
Bây giờ tất nhiên chị không còn băn khoăn đàn chuột cống có thể chuyển nhà của chị đi không. Đấy là một cử chỉ quá rộng rãi, nhất là trong lúc chính họ cũng đang vội vã thực hiện Kế hoạch, chính họ cũng phải chuyển nhà. Và họ còn chưa biết rằng mình còn rất ít thời gian, chưa biết mối nguy mới đang sáp lại quanh mình. Giá chị thoát được ra! Chị sẽ chạy đến báo ngay với họ, có thể vẫn chưa quá muộn.
Chị nghĩ: Đấy là một kế hoạch rất tốt và rất dũng cảm. Đấy sẽ là lần đầu tiên trên đời các sinh vật có trí tuệ, không phải con người, tìm cách khởi xướng một nền văn minh thực sự của riêng mình. Họ đáng được nhận cơ hội ấy. Để họ bị giết vào phút cuối thì chẳng đáng tí nào. Hay bị bắt cũng vậy. Liệu có phải bọn người kia - những kẻ đang đến đây - có liên hệ gì đó với Nimh không? Hay đúng hơn, như Paul đoán, họ chỉ lo bệnh dại? Chị quyết định điều đó không quan trọng. Kết quả vẫn sẽ như nhau. Ngày kia cái xe tải sẽ mang luồng khí chết người đến và đặt dấu chấm hết cho mọi kế hoạch. Trừ phi họ được báo trước. Mệt mỏi, chị đứng dậy chuẩn bị trèo lên tường, cố nhấc cửa lần nữa.
Chị nghe có tiếng động.
Tiếng động trong bếp, ngay gần lồng, sột soạt nhè nhẹ trên sàn vải sơn cứng.
“Chim gì mà lại không có cánh thế này?”
Chính là giọng Justin, rất khẽ, anh ta còn đang cười nữa.
“Justin!”
“Tôi nghĩ chắc là chị muốn về nhà rồi. Các cháu đang đòi mẹ.”
“Chúng có sao không?”
“Không sao cả. Chúng có lo, nhưng tôi đã bảo sẽ đưa chị về. Chúng có vẻ tin tôi.”
“Nhưng sao anh biết được...”
“Là chị ở đây á? Chị quên rồi à. Tôi đợi ngay dưới tủ. Tôi nghe hết mọi chuyện xảy ra. Tôi chỉ muốn chạy ra cắn Billy thủng lỗ chỗ. Nhưng khi nghe thấy chị đã ở trong lồng an toàn rồi là tôi đi bảo với lũ trẻ chị vẫn ổn, nhưng sẽ về muộn một chút. Tôi không nói rõ là tại sao.”
“Bây giờ thì cho chị ra thôi.”
“Tôi thử rồi. Tôi không mở được cửa.”
“Tôi sẽ mở được. Tôi có mang theo ít đồ nghề - chị có thể gọi là đồ nghề đạo chích - trong túi đây. Có nên trèo lên mắc không nhỉ? Không. Trông có vẻ trơn lắm. Tôi nghĩ nên thử cái rèm xem sao.”
Chỉ trong vài giây Justin đã leo thoăn thoắt lên rèm cửa sổ cách đó chừng một bộ, và có tiếng thịch khi anh vụt nhảy rơi xuống trúng nóc lồng, khiến lồng hơi chao đảo. Tiếng động khá nhỏ, nhưng cả hai đều chăm chú lắng nghe một lúc xem có tiếng động nào từ tầng trên đáp lại không. Yên tĩnh cả.
“Giờ thì xem cái cửa nào,” Justin dễ dàng trèo xuống thành lồng.
“Ôi, tôi mong anh có thể mở được ra.”
“Tôi mở được,” Justin xem xét và nói, “dễ thôi. Nhưng chắc là tôi sẽ không mở đâu.”
“Sao vậy?”
“Vì chị thì không mở được,” Justin đáp, “và họ biết như thế. Để họ khỏi đặt câu hỏi thì hãy làm cho nó tự mở. Đúng như tôi đã đoán, chả có lấy cái bản lề đàng hoàng nữa.”
Anh đã lôi một thanh kim loại nhỏ trong túi ra, vừa làm việc vừa nói chuyện. “Chỉ là vòng dây nhỏ thôi. Loại bán hàng lạc xoong. Rẻ tiền và yếu xìu. Hơi tí là đứt.” Anh nói đến đó thì một vòng đứt, cái cửa trễ xuống treo lủng lẳng trên một góc. “Đấy chị thấy chưa? Nếu họ cứ muốn bỏ vào cái lồng hỏng thì chị còn biết làm thế nào chứ. Ra thôi.”
Chị Frisby trèo ra ngoài đứng cạnh Justin trên nóc lồng.
“Bây giờ thì,” anh nói, “chúng ta ôm lấy mắc tuột xuống như cột lính cứu hỏa ấy. Chị ra theo đường chị vào - dưới tủ rồi vào hố. Tôi sẽ ra theo đường tôi vào - qua gác mái. Hẹn gặp nhau ngoài kia.”
“Justin,” chị Frisby nói, “có một chuyện cần kể với anh, tôi vừa nghe được...”
“Đợi ra ngoài đã,” Justin nói. “Chúng ta phải đi nhanh lên. Chị hiểu không, chuyển khối bê tông nhà chị chúng tôi vấp phải ít rắc rối.” Anh đã đi rồi, đang im lặng chạy ra phía trước nhà, ở đó có cầu thang dẫn lên gác mái ở hai tầng trên.
Chị Frisby bò xuống dưới tủ, quờ quạng trong bóng tối như bưng tìm cái lỗ nhỏ, cuối cùng cũng thấy một chân hụt xuống. Chị thả mình rơi xuống. Lỗ hổng hình vuông trong móng nhà rất dễ tìm, sáng lờ mờ trước mặt chị nhờ ánh trăng.
Justin đang đợi khi chị ra khỏi góc lưới chắn. Đêm nay ấm, nửa vầng trăng soi xuống sân trại.
“Bây giờ thì,” anh nói, “chị định kể với tôi chuyện gì?” Anh rất nghiêm nghị; anh đã nghe thấy giọng chị có vẻ khẩn thiết. Cả hai chạy vội về phía vườn, vòng qua hiên sau. Ở đó con Rồng nằm thành một khối đen xì trong ánh trăng, đêm nay chẳng còn đe dọa được ai nữa.
“Một toán diệt chuột sắp tới đánh thuốc tất cả các anh.” Chị Frisby kể cho anh thật vắn tắt câu chuyện nghe lỏm ở bàn ăn tối.
“Bảy con chuột à,” Justin nói. “Bệnh dại ư. Cũng có thể. Nhưng tôi cá đấy là Jenner. Những người kia định đến lúc nào?”
“Ngày kia.”
Chị sửng sốt thấy Justin đứng lại. Anh nhìn chị ngưỡng mộ thấy rõ.
“Chị biết không,” anh nói. “Lần đầu tiên nhìn thấy chị tôi đã có cảm giác chị sẽ mang lại may mắn cho chúng tôi.”
“ May mắn!” Chị kinh ngạc.
“Ồ, tin này thì xấu. Chuyện này rất nghiêm trọng. Chúng tôi sẽ phải đổi kế hoạch và phải làm gấp. Nhưng chị nghĩ xem sự thể sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu chị không nghe được. Chúng tôi sẽ chẳng có hy vọng thoát.”
Họ đã vào đến vườn.
“Nicodemus có ở đây không?” Chị Frisby hỏi.
“Không. Mấy phút nữa tôi sẽ đi nói với anh ấy ngay. Nhưng đầu tiên chúng tôi cần chị giúp mới có thể bắt đầu chuyển nhà được.”
“Cần tôi giúp à? Tôi làm được gì?”
“Nói chuyện với bà hàng xóm của chị. Bà ta nghĩ chúng tôi định đánh cắp khối bê tông thì phải. Bà ấy cắn vào chân Arthur.”
Ở một đầu tảng đá giữa vườn, có mười chuột cống đang nhanh tay đào bới, xúc bằng một vật trông giống thìa hơn là xẻng, chất đất gọn gàng bên cái hố đã gần đủ lớn để lọt nhà chị Frisby.
Nhưng bên mình tảng đá mọi sự đang giậm chân tại chỗ.
Phía này mười chuột nữa đang đứng ngơ ngác thành nửa vòng tròn. Bên cạnh có để một loạt thiết bị: những thanh kim loại hình dáng kỳ dị, các bánh ròng rọc, những cấu kiện gỗ có vẻ là thang, những miếng gỗ khác là những khúc tròn nhỏ. Nhưng giữa họ và cửa trước nhà chị Frisby là một hình dáng nhỏ đứng thách thức. Chuột cống dù so ra thì to gấp bội vẫn đứng chừa một khoảng kính nhi viễn chi.
“Ô,” chị Frisby bảo Justin, “đấy là bà chuột chù ấy mà!”
“Phải,” Justin nói, “và đúng là dữ như chuột chù.”
Trong toán chuột cống một người đang nói. Chị Frisby nhận ra là Arthur.
“...nhưng thưa bà, tôi đã nói với bà rồi, chúng tôi được bà Frisby chấp thuận mà. Bà ấy muốn chúng tôi chuyển căn nhà là khác. Cứ hỏi lũ trẻ ấy. Bà gọi chúng ra đi.”
“Đừng có nói nhăng cuội. Các ngươi làm gì bác Frisby rồi? May là lũ trẻ chưa nghe thấy các ngươi đấy. Chúng nó sẽ sợ chết khiếp! Nếu bác Frisby muốn các ngươi chuyển căn nhà thì bác ấy đã có mặt ở đây rồi.”
“Không sao đâu,” chị Frisby gọi lớn và chạy tới. “Tôi đây rồi.”
“Bác Frisby à!” chuột chù kêu lên. “Bác đến đúng lúc quá. Tôi nghe có tiếng ồn, chui ra thì thấy đám - quái vật - này đang định đào nhà bác lên.”
“Tôi cố gắng giải thích rồi,” Arthur nói. “Nhưng bà ấy không chịu tin.”
“Chắc chắn là không rồi,” chuột chù đáp. “Hắn ta còn bảo bác yêu cầu hắn đào nhà lên nữa chứ. Đồ chuột cống ăn cắp!”
“Đúng thế đấy,” chị Frisby nói. “Tôi có yêu cầu họ, và họ nói sẽ làm. Họ tốt lắm.”
“Tốt à?” chuột chù đáp lại. “Cái lũ thú dữ béo ú này á. Bác nói thế nghĩa là sao?”
Chị Frisby phải cam đoan hồi lâu nữa thì bà chuột chù mới làu bàu tránh ra, miệng vẫn lẩm bẩm cảnh cáo. “Tôi chẳng đời nào tin chúng nó cả. Làm sao bác biết chúng nó sẽ làm đúng như lời hứa?” Chuyện này thì tất nhiên chị Frisby chẳng thể giải thích cho bà được.
Đội chuột cống bây giờ bắt đầu tích cực đào đất phía trên và xung quanh khối bê tông. Justin bảo: “Tôi phải đi gặp Nicodemus đây. Chị đưa lũ trẻ ra đi thì hơn.” Chị Frisby vội vã chạy vào nhà.
Chị thấy tất cả đều đang chờ trong phòng khách, chẳng hề biết có vụ ồn ào nhỏ vừa diễn ra bên ngoài. Như Justin đã nói, chúng không có vẻ lo lắng.
“Ban đầu bọn con sợ lắm,” Teresa nói. “Nhưng rồi một chú chuột cống tới gặp bọn con. Chú ấy không vào được nên gọi và bọn con đi ra, Martin với con. Chú ấy bảo tên chú là Justin. Mẹ gặp chú ấy chưa? Chú ấy dễ thương cực kỳ.”
“Mẹ gặp rồi,” chị Frisby nói. “Bây giờ chúng ta ra ngoài thôi. Họ đang chuẩn bị chuyển nhà.”
“Con sẵn sàng rồi,” Timothy nói. “Con đã được quấn ú như là bù nhìn ấy.”
Martin và Teresa đã lấy những mảnh vải ấm nhất trong giường buộc quanh người em. Trong bóng tối chị Frisby không nhìn thấy con, nhưng khi chạm vào chị thấy hai đứa còn buộc cả một mẩu thành cái mũ chụp quanh đầu và hai tai nữa.
“Tốt lắm,” chị nói. “Và chúng ta lại gặp may - đêm nay rất ấm và khô ráo.”
Họ đi qua đường hầm nhỏ lên vườn, đứng từ mô đất nhỏ cách vài bộ ngắm nhìn cảnh tượng trong ánh trăng. Đội chuột cống đã đào xong cái hố thứ hai, và cả hai mươi chuột đang tập trung quanh nhà. Thật là một cảnh thích mắt.
Ngay khi đất đã gạt hết khỏi trên nóc và hai bên khối bê tông khiến nó nằm trơ bốn bề trong hố, tất cả chuột cống đều quay ra đống thiết bị. Có Arthur chỉ đạo, những cấu kiện trông giống thang được dựng thành giàn giáo - bốn tháp nhỏ dựng gần bốn góc khối bê tông. Trên đỉnh mỗi tháp các chuột cống gắn những thanh kim loại chắc và nhẹ, chị Frisby nghĩ hẳn là lấy từ xe của ông Đồ chơi rong.
Bây giờ họ đang treo ròng rọc vào những thanh kim loại, quấn dây mảnh nhưng chắc, các đầu dây gắn móc, móc luồn vào các lỗ ô van trong khối bên tông rồi kéo thật căng. Bên mỗi sợi dây là năm chuột cống khỏe mạnh. Chị Frisby để ý một chuột lớn hơn hẳn số còn lại: anh bạn Brutus.
“Dô ta!” Arthur hô lớn.
Hai mươi chuột ghì lấy dây, khối nhà được nâng lên hai phân. Mỗi chuột bước lùi một bước.
“Dô ta!” Lại hai phân nữa.
Từ từ, khối bê tông nặng được nâng lên khỏi hố đến khi lơ lửng cách mặt đất năm phân.
“Giữ vững,” Arthur nói. “Lấy con lăn.”
Tám chuột, mỗi nhóm hai con, chạy về phía những khúc gỗ tròn chị Frisby đã thấy lúc trước, trông có vẻ như cán chổi bị cưa đứt, mỗi thanh dài độ một bộ.
Cứ hai chuột một khúc, họ luồn bốn khúc gỗ dưới khối bê tông bắc ngang qua hố, như chấn song vắt ngang cửa sổ.
“Hạ xuống,” Arthur nói, và khối bê tông nhẹ nhàng nằm lên các con lăn.
“Xem ta lăn ra sao nào.”
Họ cởi dây khỏi ròng rọc và móc lại hai sợi vào đầu khối bê tông. Bây giờ mỗi sợi dây có chín chuột kéo, hai chuột ở lại đằng sau theo dõi con lăn.
“Dô ta!”
Con lăn lăn đi và khối bê tông nặng dễ dàng trượt tới trước, như xe tải lăn trên bánh, về phía cái lỗ thứ hai. Cứ khoảng mấy phân nó lại tuột khỏi con lăn sau cùng, hai chuột theo sau lại nhanh chóng nhặt con lăn đó đặt dưới đầu khối bê tông.
Cứ như chơi nhảy cừu, chị Frisby nghĩ. Nhưng trò chơi này đã luyện tập kỹ càng, các chuột cống đã tính toán rất cẩn thận, họ biết chắc mình đang làm gì, và di chuyển rất chính xác, không có lấy một động tác thừa.
Chỉ vài phút sau con lăn đầu tiên đã nằm ngang hố mới, rồi cái thứ hai, cuối cùng là cả bốn. Khối bê tông được căn đúng phương hướng và vị trí, cái hố kích cỡ hình dạng đều chuẩn. Các chuột cống thậm chí đã đào xong hốc chạn ở một góc và đục đường hầm nhỏ nối hai phòng với nhau.
Bốn tháp cùng ròng rọc lại được dựng lên, và quá trình nhấc lên hạ xuống lại diễn ra nhưng đảo ngược; những con lăn được rút đi và khối bê tông từ từ được đưa vào nơi ở mới.
“Xong rồi!” chị Fribsy kêu lên. Chị muốn vỗ tay hoan hô.
“Chưa xong hết đâu,” Arthur ngoảnh lại nói. Quay sang các chuột khác anh bảo: “Lấy xẻng và ba lô lại đây.”
Dừng lại nghỉ lấy hơi xong, anh giải thích với chị Frisby: “Chúng tôi còn phải phủ đất cỏ lên trên, rồi sẽ lấp hố cũ bằng đất đào từ hố mới, nếu không ông Fitzgibbon sẽ nghi hoặc ai lại đi đào đất vườn nhà ông lên. Thêm nữa chúng tôi còn phải đào lối vào cho bà nữa.”
Vì phấn khích chị Frisby quên bẵng mất chi tiết này. Chị không vào trong nhà được. Lúc này thì chị khâm phục nhìn Arthur và Brutus dùng hai xẻng nhỏ cán dài rất sắc đào đường hầm hẹp xuống tới phòng khách bên dưới. Họ mất chưa đầy năm phút. Chị phải mất cả ngày ở nhà cũ mới đào được.
“Bây giờ thì,” Arthur nói, “bà cho các cháu đi ngủ được rồi. Chúng tôi sẽ lo nốt phần còn lại.”