Truyện 2 MẸ QUAN ÂM CỬU LONG
Trời trong, biển lặng, bốn phương trời bát ngát. Chiếc tàu tốc hành Thượng Hải Phổ Đà(#1) lướt như bay trên mặt biển, cơ hồ như đang xẻ biển khơi thành hai mảnh với hai lượn sóng to chạy dài theo hông tàu. Tàu trang bị khá tân tiến như trên một phi cơ hành khách, có máy điều hòa không khí mát mẻ, có ghế dựa thoải mái, và màn ảnh truyền hình liên tục chiếu phim đấm đá sôi nổi.
Nhóm hành khách Việt lên đường hành hương thánh địa Bồ Tát Quán Thế Âm, địa điểm mà hầu hết mọi người hằng thao thức chiêm ngưỡng, nên hầu như lòng ai cũng hớn hở rộn ràng. Nhiều nhóm hào hứng tranh nhau nhắc nhở kinh nghiệm linh cảm của họ đối với vị Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Có vị mân mê tượng Quán Âm lủng lẳng trên cổ lâm râm khấn niệm. Ra khơi chừng nửa giờ, bộ mặt thực hung bạo của biển cả mới lộ nguyên hình.
Trời bỗng u ám, mưa lất phất, rồi cơn giông nhỏ thình lình kéo đến. Từng lượn sóng to úp chụp chiếc tàu như muốn nhận chìm tất cả xuống biển sâu. Hành khách tranh nhau say sóng, có người đã lộ vẻ khẩn trương, và tiếng niệm Quán Âm chân thành cũng đã trổi lên đây đó. Có những Phật tử trẻ tuổi hành Bồ Tát hạnh chạy tới chạy lui săn sóc bạn đồng hành đang vật vã chóng mặt hay nôn mửa. Vĩnh thầm nghĩ: “Chưa đến thánh địa của Ngài mà mình đã nghe được tiếng vọng của Ngài rồi!”.
Thật ra thì tình hình chẳng có chút xíu gì nguy hiểm, nếu so với chuyến vượt biển của chàng khoảng 20 năm về trước, trên chiếc thuyền đánh cá ọp ẹp, đói khát hành hạ, và phải ngồi bó gối san sát theo kiểu cá mòi hộp trong khoang tàu hôi hám. Chuyến hành trình sang qua ngày thứ nhì thì gặp biển động, có lẽ chỉ cùng một cỡ với cơn giông ngày nay, nhưng đối với chiếc thuyền con thì đó là đại họa. Chiếc thuyền lăn lộn như trái mù u bị đẩy xuống sâu tận dưới đáy vực, để rồi từ trên cao lượn sóng to như trái núi ập xuống, tưởng chừng như sẽ đập nát chiếc thuyền thành mảnh vụn. Thế nhưng, từng lượn nầy đến lượn khác tiếp nối, chiếc thuyền tưởng chừng như sắp lật úp bao lần mà vẫn thoát nạn. Ngày đó, trên thuyền mạnh ai nấy lên tiếng “kêu cầu cứu”: tiếng niệm Quán Âm, tiếng khẩn cầu Đức Mẹ Đồng Trinh vang lừng. Thế nhưng chỉ 30 phút sau thì tiếng cầu xin im bặt. Hầu hết thuyền nhân đều bị say sóng nằm la liệt bên nhau, có lẽ không mấy ai còn đủ tinh thần để tưởng nhớ đến Phật, đến Chúa nữa. Vĩnh là một trong ba người còn tỉnh, chàng phải gắng sức tát nước liên tục mà vẫn không ngừng niệm Quán Âm cho đến khi sóng biển lặng dần.
Chàng vốn ngưỡng mộ hạnh nguyện của chư Bồ Tát, nhưng chàng chủ trương niệm Quán Âm là chỉ nhằm nhắc nhở mình thực tập hạnh nguyện “lắng nghe và cứu khổ”, đồng thời, cũng là cách áp dụng phương pháp tu hữu hiệu có công năng đưa hành giả đạt đến trạng thái “nhất tâm bất loạn”. Tâm lặng lẽ an nhiên không loạn động thì tất cả nỗi khổ đau, sợ hãi đều vốn chỉ là vọng tưởng, là “huyễn” nên tự nó sẽ tan biến đi. Vĩnh không ngờ trong cơn lâm nguy chàng cũng phải niệm Quán Âm theo tinh thần tha thiết xin được cứu khổ cứu nạn như thường tình, và tuy tự thân chàng cảm thấy rất linh ứng, nhưng từ đó đến nay chàng không hề lạm dụng việc niệm danh hiệu Bồ Tát để cầu xin điều gì nữa cả. Khác với chàng, Mỹ hoàn toàn đặt niềm tin tuyệt đối vào Bồ Tát Quán Âm, mặc dù, nàng không đến nỗi tin tưởng theo kiểu thường trực cầu cạnh xin xỏ Ngài những quyền lợi cỏn con như một số đàn bà khác. Niềm tin đó đã phát xuất từ những nỗi khổ đau trong chuỗi đời ấu thơ đầy nước mắt của nàng. Nàng thường đoan quyết rằng nếu không có Bồ Tát hiển linh cứu độ, thì nàng đâu còn sống sót cho đến ngày nay.
Cuối năm 1989, Vĩnh cùng vài cựu huynh trưởng Gia Đình Phật tử nhận lãnh công tác thiện nguyện hướng dẫn, thông dịch, đưa đón những gia đình thuộc diện con lai vừa đến Dallas, tiểu bang Texas định cư. Trong dịp nầy, Vĩnh có dịp tiếp xúc gia đình vợ chồng anh Nguyễn văn Hợi cùng năm cô con gái tuổi từ 17 đến 22. Gia đình thiếu nề nếp nên mẹ con, chị em lúc nào cũng cãi vã, nói năng đối xử nhau thô tháo bất chấp sự hiện diện của người lạ. Cô gái út tên Mỹ, người có dòng máu lai duy nhứt, mặt mày tương đối xinh xắn, lại là đứa con ngổ ngáo hỗn láo nhứt trong nhà, có lẽ, cô ta tự hào là nhờ màu da của cô mà mọi người mới đến được xứ sở văn minh nầy. Vĩnh đưa họ đi lập hồ sơ trợ cấp, tập lái xe, chỉ dẫn ghi danh khóa Anh văn buổi tối, nhưng chuyện học hành nầy coi bộ chẳng ai tỏ ra hào hứng cả. Vài tháng sau thì đám đàn bà đều chọn nghề may, tuy lương không cao, nhưng nhờ đông người cùng làm việc nên tiền bạc khá dồi dào. Anh Hợi lẩm rẩm vậy mà rất phong lưu. Anh chẳng cần bôn ba tìm kiếm nghề nghiệp nào cả, suốt ngày nhong nhong đi chơi, về nhà thì cứ tì tì nhậu nhẹt, mà nhậu toàn là thứ rượu whisky VSOP đắt tiền mới “oai” chứ. Có điều là anh phải chịu khó ngoáy hai lỗ tai cho sạch để nghe sáu cái mồm oang oác gấu ó tranh cãi nhau suốt ngày mà thôi. Từ dạo gia đình họ an cư lạc nghiệp, Vĩnh không lui tới nữa, nhưng thỉnh thoảng cũng nghe vài tin tức của họ: hai cô lớn lập gia đình, cô Mỹ lai ra riêng và anh Hợi vẫn sống mạnh sống hùng, tiệc lớn tiệc nhỏ huy hoàng. Bẵng đi hai năm, Vĩnh vô tình gặp cô Mỹ đưa cha đi chùa. Anh Hợi hốc hác, thân thể bệ rạc hẳn ra. Vĩnh lo lắng hỏi:
- Uả! Trông anh có vẻ gầy yếu! Anh có đi khám bệnh không anh Hợi?
- Ba tui đau nặng lắm chú Vĩnh à!, con bé rưng rưng nước mắt lên tiếng, rồi cô dặn nhỏ cha: “Ba nói chuyện với chú Vĩnh nha! con trở ra sân trước lễ Phật bà một chút!”.
Vĩnh thầm nghĩ: “Không dè con nhỏ ương ngạnh hỗn hào nầy lại có thể nhỏ nước mắt thương khóc ông già ghẻ! Lạ thật!”.
Anh Hợi lắc đầu chán nản, rồi đợi cô con đi khuất, mới cất tiếng thở than:
- Tội nghiệp con nhỏ! nó đưa tôi đến chùa là để tha thiết cầu Phật bà phù hộ cho tôi hết bệnh. Mà hết làm sao nỗi chú! Tôi bị ung thư gan nặng “hết thuốc chữa”, “thầy chạy” rồi, thì còn mong cầu van xin gì nữa!
Anh chép miệng thở dài, rồi tiếp tục thều thào:
- Tui chết thì yên phận của tui, chỉ tội nghiệp cho con Mỹ, nó côi cút một mình một thân, chẳng còn một ai mà nương tựa!
Tuy không cố ý dòm ngó đời tư kẻ khác, nhưng tiếp xúc với gia đình anh Hợi một thời gian, Vĩnh đương nhiên biết rõ gia đình họ thuộc giới bình dân nghèo nàn thiếu học. Có lẽ họ không dư dả để đèo bòng thêm đứa con nuôi, vậy thì, con bé lai ắt hẳn phải là tác phẩm của bà vợ tảo tần, “nhảy dù” với lính Mỹ kiếm chút tiền nhằm cải thiện nếp sống bẩn chật hàng ngày. Giờ đây, theo luận điệu của anh Hợi thì dường như bà vợ không liên hệ gì với cô con lai, trong khi anh chồng lại là ruột thịt, chuyện “tréo cẳng ngỗng” như vậy mấy ai mà tưởng tượng cho nỗi. Vĩnh tò mò dọ hỏi:
- Còn chị và mấy cô con lớn nữa chi! Anh khéo xa lo quá!
- Oái! Bả và tụi nhỏ kỵ con Mỹ lắm, nó chết sống mặc kệ, họ nào có kể số gì! Có lần tui năn nỉ bả thương con Mỹ một chút thì bả ó ré ỏm tỏi: “Nó đâu phải là con tui thì mắc mớ gì tui phải lo chớ?”
- Uả! vậy thì cô Mỹ là con của ai?
Anh Hợi lừng khừng đáp:
- Con của ai thì tui cũng không biết nữa!!!
Vĩnh chưng hửng trố mắt nhìn anh. Chắc chắn anh không đùa giỡn, nhưng sự thực thì sao? Vinh ngần ngừ muốn hỏi cho ra lẽ, nhưng thấy mặt mày anh buồn hiu nên ngại ngùng nín lặng. Anh Hợi trầm ngâm khá lâu như để lắng lòng tìm về với dĩ vãng, rồi bỗng nhiên như sực tỉnh lại, anh rỉ rả kể một hơi:
- Ngày cuối tháng tư năm đó, tình hình lộn xộn quá chừng. Tui đang “mần” hạ sĩ thợ máy tại Hải quân công xưởng Ba Son, công xưởng cấm trại trăm phần trăm nhưng lính tráng trốn gần hết chỉ còn lại có mấy mống. Một thằng bạn thân quơ đâu được cái va li của ai bỏ lại, quăng cho tôi bộ đồ xi vinh để thay bỏ bộ đồ nhà binh, rồi mạnh ai nấy phóng lên xe đạp chuồn đi. Tui là thứ tép riêu chẳng ra cái thá gì, mà sao hôm đó tui buồn tủi quá, tui bỏ đi không đành nên cứ lẩn quẩn đạp xe lòng vòng bồn binh chợ, bứt rứt ngóng nhìn cảnh đổ vỡ của dinh Độc Lập, Bộï Quốc Phòng. Rồi tôi lộc cộc đạp xe ngang qua Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, tôi đang tò mò nhìn vào bỗng nghe tiếng đứa con gái nhỏ đứng xéo bên kia đường kêu khóc vật vã: “Hu... hu... Vú ơi! Vú! Vú đâu rồi! hu hu... ”. Tui chạnh lòng ghé lại dỗ cho con bé nín khóc, dọ hỏi nhà cửa nó để đưa về dùm. Con bé còn nhỏ quá, mới chừng 5 tuổi, miệng tía lia đủ chuyện tào lao, mà hỏi đường về nhà thì ăn nói bắt quàng, tui chẳng biết đâu mà mò. Con bé lai trắng trẻo dễ thương mặc quần áo đẹp, cổ mang dây chuyền vàng, mang “lắc” vàng, tai đeo khoen vàng... đứng một mình trong cảnh nhốn nháo nầy mà gặp kẻ gian thì nguy hiểm quá. Tui tính đứng chơi với nó cho đến khi người nhà nó tìm gặp thì mới yên bụng ra đi, nhưng tôi chờ hoài rối cả ruột mà chẳng thấy ai. Chập lâu sau tui định bỏ đi, nhưng tui đi thì con bé khóc ré lên. Tui bỏ đi năm, sáu lần mà lần nào cũng phải quanh trở lại nên cuối cùng tui đành chở nó đem về nhà tại ngõ hẻm lầy lội đường Lạc long Quân, quận 11, Saigon. Tui kể cho bà xã nghe chuyện của nó rồi nói “Trời Phật giao nó cho mình! thôi thì mình nuôi nó chớ làm sao bây giờ! có mắm ăn mắm, có muối ăn muối... tốn hao bao nhiêu đâu phải không bà!?” Mặt mày chù ụ, bả hậm hực: “Hứ! sao lại không tốn hao? Ai đời... Nhà nghèo mạt rệp chạy gạo nuôi bốn đứa con đã hụt hơi, mà lại còn mang thêm của nợ về báo đời nữa! ngu ơi là ngu!”. Tui nghĩ mình cũng ngu thiệt nên nói xụi lơ: “Nói vậy thôi, chớ tui đâu tính nuôi nó mần chi. Ngày mai tui chở nó trở lại chỗ cũ, gia đình nó thế nào tìm gặp, chớ không lẽ người ta bỏ nó luôn sao?”. Cả tuần lễ liên tiếp, tôi đưa con bé trở lại khu Tòa Đại Sứ chờ đợi mà chẳng thấy ai hỏi han. Bà xã tui càng ngày càng gây gổ dữ dội hơn nữa, bả buộc tôi đem nó bỏ đại ra bồn binh chợ Saigon, sống chết mặc nó... Lúc đó, tôi chưa tìm ra việc làm, cơm canh từng ngày là nhờ bả cực nhọc buôn bán bánh kẹo tại trường tiểu học mà có, nên dẫu bả làm trời làm đất gì tui cũng chẳng dám hó hé. Thế nhưng chuyện tống cổ một đứa bé con hỉ mũi chưa sạch ra khỏi nhà thì tui không đành lòng, nên tui cứ hứa cuội hoài hà, cuối cùng bả tức giận cấm tuyệt không cho nuôi ăn nó nữa. Bà con lối xóm biết chuyện nầy, thương hoàn cảnh của cha con tui, nên ngày nào cũng có nhà nhín ra chút đỉnh cho con bé. Xin làm thợ máy không ai mướn, tui mang thùng đồ nghề ra ngã tư cạnh quán cà phê của thím Bảy lãnh vá sửa xe đạp, mỗi ngày cũng kiếm được chút cháo, nên đỡ phải nhờ vả bà con chòm xóm. Mấy tháng sau, tui được thằng bạn bảo lãnh đi mướn được chiếc xích lô đạp. Chèn ơi! đạp xích lô mệt trần thân vậy mà có ăn lắm! Tiền tôi đem về mỗi ngày đủ xài, nên vợ tui không dằn vật tui nữa, tui năn nỉ ỉ ôi mãi bả mới chịu nuôi con Mỹ. Cho ăn mà bả cứ hành hạ đánh mắng nó hà rầm hà, có lần quá tội nghiệp tôi xin bả nhẹ tay một chút chẳng dè bả càng làm dữ hơn nữa, nên về sau, mỗi khi thấy mặt mũi mó bầm dập, lưng và đít nó bị lằn ngang lằn dọc, tôi xót xa mà phải giả đò như đui như điếc. Bậy nhứt là đám con tui lại hùa theo bả hiếp đáp con bé, tôi muốn khuyên dạy chúng mà cũng sợ bị vợ con trách là bênh vực người dưng hơn con ruột nên cũng đành bỏ qua. Lâu lâu dấu được tí tiền tôi mang gởi thím Bảy cà phê, nhờ thím mua quần áo cũ, giầy dép... cho con bé; thím Bảy tốt bụng và kín đáo, bao năm trời thay tôi lo con bé mà không hề lộ chuyện bí mật nầy. Kể ra, sống với gia đình tui thì cực khổ, nó lại bị hiếp đáp, nhưng lây lất mà sống rồi thì cũng qua. Hai năm sau, con Mỹ theo mấy chị đi học. Nó sáng dạ lắm, học xong cấp tiể học nó đậu vào trường cấp hai. Vào năm nó đang học lớp bảy, tui gặp vận rủi, bị tai nạn lưu thông, chiếc xích lô gãy nát, tôi què giò phải ngồi một chỗ. Tiền bạc không có, mấy đứa nhỏ phải chia nhau đi làm: con lớn học may, đứa kế bán bánh kẹo tại trường tiểu học, đứa phụ giúp dì nó coi sạp vải, con Mỹ và chị Năm của nó đi bán vé số. Một hôm vợ tôi bị mất một số tiền dành dụm dấu ở dưới khạp gạo, bà đề quyết ngay là chính con Mỹ là thủ phạm. Con bé bán vé số về nhà, đang hí hửng khoe với tui là được một ngày hên, thì bị bả lôi vào tra vấn. Con bé vừa trả lời không biết, thì bả liền tán cho mấy tát tay nháng lửa, dộng đầu nó vô vách, hét lớn: “Mầy chớ ai vào đây, đừng có láo xược!”. Bả xét túi quần áo của nó, lôi được một số ít tiền. Con Mỹ giải thích tiền đó là tiền mà mấy người mua giấy số trúng thưởng cho nó, tôi tin chắc đó là sự thực, vì nó thường mua thuốc lá, mua bia cho tôi bằng tiền lì xì nầy. Thế nhưng vợ tôi nghĩ khác, bả tiếp tục đánh đập la hét: “Mầy đừng có mong già mồm mà qua mặt tao! rõ ràng mầy đã ăn cắp, mầy xài đã đời nên mới còn chừng đó”. Con Mỹ bị đòn đã quen, nó thường cắn răng chịu đựng cho đến bả hả giận thì mới được buông tha. Lần nầy, bỗng dưng nó lỏ mắt nhìn bả, chăm hẳm nói: “Trong nhà nầy, ai mà được bà cưng thì mới biết chỗ bà dấu tiền, sao bà không nghi, không hỏi người đó?”. Câu trả treo đó khiến vợ tôi nổi sùng hơn nữa, bả đánh đập nó tơi tả, xé nát quần áo nó, rồi đuổi nó ra khỏi nhà. Con Mỹ bỏ đi ngay. Tui sốt ruột quá, muốn phóng theo để an ủi nó, nhưng cái cẳng đi cà nhắc không bắt kịp. Tui đành van nài thím Bảy cà phê giúp tìm nó, cho nó ở đậu vài bữa. Thím Bảy an ủi tôi: “Anh đừng lo! Nó lại đằng chùa chớ chẳng đi lang thang đâu! Ngày nào bán vé số về, nó chẳng ghé chùa làm công quả”. Nghe thím nói tui cũng yên bụng, nhưng không ngờ đến trưa hôm sau thì có dì ba Diệu Hỷ, làm công quả tại chùa Giác Viên báo tin: “Đêm qua con Mỹ vào chùa khóc lóc xin ngủ đêm, đến sáng người ta khám phá nó nằm lăn lộn, bên cạnh còn chén thuốc rầy gần cạn, nên chùa vội cho chở nó vào bệnh viện Chợ Rẩy cứu cấp”. Tôi tức tốc nhờ đứa con lớn chở xe đạp đến phòng cứu cấp. Con Mỹ nằm thiêm thiếp, da trắng bệch như xác chết. Bác sĩ lắc đầu cho biết nó đã được bơm ruột, nhưng chất độc nặng quá nên mạng sống khó vẹn toàn. Tôi chết điếng, đứng sửng như trời trồng, nước mắt chảy dài mà câm họng không nói được tiếng nào. Con Hai cũng khóc ngất. Tới giờ phút nầy nó mới chịu thú thiệt là nó đã lấy cắp tiền để sắm son phấn, xú chen, xì líp như đám bạn cùng trang lứa. Con Hai đã 18 tuổi, tuổi ham hố đua đòi chưng diện, vợ tui vẫn biết nó thường rút rỉa tiền buôn bán nhưng cho đó là chuyện lặt vặt nên làm ngơ, dè đâu nó lại cả gan làm vố nầy. Con Mỹ nằm im không nhúc nhích hơn sáu tiếng đồng hồ, ông bác sĩ ra lịnh cho y công: “Không cứu nỗi đâu, hãy đưa nó sang Nhà Xác cho trống chỗ!”. Tui thấy nó vẫn còn thoi thóp, nên van lạy ông Bác sĩ giữ nó ở Phòng Cấp Cứu thêm vài giờ nữa. Trong lúc rối rắm đó, tôi chỉ biết khóc ngất, nắm tay chân nó kêu réo: “Mỹ ơi! Mỹ! con ráng tỉnh dậy sống với ba! Con đừng bỏ ba con ơi!”. Có khi thì tui quýnh quíu khấn vái lung tung: “Con lạy Trời Phật, con lạy ông thần bà chúa, cô hồn các đãng... ai có linh thiêng ra tay cứu vớt cho con tui sống lại... ”. Thình lình, mắt nó hơi động nhẹ rồi từ từ hé mở, một giọt nước mắt lăn ra. Tui mừng rú: “Con tui sống lại rồi! bác sĩ ơi! bà con ơi! con tui sống lại rồi!”...
Kể lại câu chuyện xưa mà anh Hợi đầm đìa nước mắt khiến Vĩnh cũng xúc động lây. Chàng cất tiếng phụ họa:
- Cô Mỹ mà sống lại chắc là do tình thương vô bờ của anh đó, anh Hợi à!
- Không phải vậy đâu chú, - Anh Hợi thật thà cãi - Khi tỉnh, con Mỹ kể lại như vầy nè: “Tự nhiên con thấy con khỏe nhẹ bay bổng lên, con không nghe đau đớn gì nữa. Từ trên cao nhìn xuống con thấy ba kêu khóc vái van, con cũng thấy bác sĩ, y tá lăng xăng bên xác con nữa. Có mấy đứa nhỏ mặc áo đỏ rủ con đi chơi nhưng con thấy ba khổ sở quá chừng, con thương đứt ruột đi chẳng đành. Con ráng nói lớn “Ba đừng buồn! ba ơi!”, mà sao ba hổng nghe. Bỗng nhiên con thấy Phật bà Quan Âm giống y chang như bức tượng tại chùa Giác Viên, đến xoa đầu con rồi bảo: “Con thương ba con lắm phải không?”. “Dạ!”. “Vậy con hãy trở lại sống với ba con đi!”. Phật bà dẫn con đến bên cái xác, xô nhẹ con, con giựt mình nghe đau nhức rụng rời, rồi con ráng mở mắt ra... ”
Kể đến đây, anh Hợi bỗng thở dài rồi buồn hiu than:
- Nó chẳng nỡ bỏ tui, mà bây giờ thì tui có muốn sống hoài với nó lại không được!
Vĩnh đang nghe chuyện xưa hấp dẫn, sợ anh Hợi lạc sang đề tài khác, vội lên tiếng:
- Sau khi tỉnh lại, cô Mỹ ở đâu vậy anh?
- Ơ! con Mỹ muốn về chùa Giác Viên, nhưng sau vụ tự tử, chùa sợ trách nhiệm nên không dám lãnh, tui đành phải đưa nó về nhà. Vợ tui nó quê quê vụ nghi oan nên cũng đỡ xéo xắt. Mấy tháng sau thì có tin đám con lai được cho đi Hoa Kỳ, từ đó, nó không còn bị hà hiếp nữa. Có gia đình dọ dẫm tui, đề nghị trả một số tiền to để họ lập hồ sơ diện con lai chung với con Mỹ, mà nó thì nhứt quyết chẳng đi đâu cả nếu thiếu tui. Vợ con tui ham xuất ngoại quá, hè nhau xúi tui lo lập hồ sơ. Tui làm trật tới trật lui, nên phải đến ba năm mới tới đất nước nầy. Qua đây, đời sống sung sướng ai cũng vui vẻ, không ai hiếp đáp ai được, vậy mà không dè lại có chuyện để họ gây lộn lùng tùng phèo khiến tui điên cả đầu.
- Uả! còn chuyện gì trục trặc vậy anh?
- Số là như vầy nè! Hồi tôi lượm con Mỹ thì nó có mang khoen tai vàng, tấm “lắc” vàng, sợ dây chuyền vàng cùng với tượng Phật bà bằng cẩm thạch. Sau lưng tượng trên phần bọc vàng có khắc chữ Amy 112070. Tôi mang hỏi mấy người rành chữ nghĩa, thì họ nói Amy chắc viết tắt Anh Mỹ tên con bé. Khi vừa gặp nó, nó cũng xưng tên trại trại như vậy nên tôi yên chí gọi nó là Mỹ. Còn sáu con số người ta đoán đó là số mật mã nhưng ý nghĩa nhưng thế nào không ai rõ.
- Sáu con số nầy có lẽ là ngày sanh: 20 tháng 11 năm 1970 đó anh. Người Việt mình viết ngày rồi mới tới tháng, nên nếu còn ở trong nước chắc tôi cũng không nghĩ ra. Uả! chuyện khắc chữ nghĩa nầy sao lại khiến gia đình anh xào xáo kìa?
- Ơ! nó về ở nhà tui thì bà xã tui lột hết mấy thứ đó, bả cho biết gạo hết sạch rồi, hãy đem bán mớ vàng nầy lấy tiền nuôi con. Tui nghĩ tượng khắc chữ và số là chứng tích mà gia đình nó làm dấu, nếu bán mất đi thì sau nầy nó khó tìm lại cha mẹ ruột. Vì vậy, tui bán đứt mấy thứ kia, còn tượng cẩm thạch thì tôi cầm đỡ cho thím Bảy để lấy đủ tiền nạp cho bả. May mắn là sau đó tui tìm được nghề đạp xích lô, tui chắt mót lần lần gom đủ tiền chuộc lại cái tượng. Mang tượng về dấu là chuyện khổ dài dài đó chú; chôn dấu ở ngoài thì sợ mất, cất trong nhà thì sợ bả biết. Bả mà biết thì chắc tui cũng bị bả tống ra khỏi cửa huống chi là con Mỹ. Mang tượng qua tới đây, chờ đâu đó yên rồi, tui lén đưa cho con Mỹ, dặn phải giữ kín. Tưởng giao tượng thì khỏe thân, nào ngờ mẹ con nó cãi lẫy với nhau, con Mỹ bới chuyện xưa trách móc rồi còn trưng cái tượng Phật để làm bằng. Bà xã tôi tức như điên, nhưng không hoạnh họe con Mỹ được, thành thử bao nhiêu tội lỗi bả trút lên đầu tui hết, bả cà riềng cà tỏi cằn nhằn chửi bới tui tối ngày, tui chịu đời hết thấu vậy đó.
Câu chuyện kết thúc thì Mỹ cũng vừa lễ Quan Âm xong, nàng cho biết cần phải đi giao và nhận đồ may cho kịp giờ hẹn, nên hấp tấp đưa cha ra xe. Vĩnh vội hỏi vói theo:
- Anh còn ở chỗ cũ không? Vài bữa nữa tôi sẽ đến thăm anh, anh thấy có tiện không?
Anh Hợi thoáng ngần ngừ, rồi đáp:
-Ơ... vẫn còn ở chỗ đó. Khi nào rảnh, mời chú đến chơi.
Tuy hẹn là vài ngày nữa mới ghé thăm nhưng ngay hôm sau Vĩnh đã lần mò tìm đường đến nhà anh Hợi tại chung cư Vineyard đường Pleasant Run, Irving. Trước kia chàng đánh giá anh Hợi rất tầm thường, giờ đây khi biết được tấm lòng cao cả của anh - nghèo khó bần cùng, bị vợ chửi mắng mà vẫn mở rộng vòng tay đón đứa bé con về nuôi, gạo hết nhẵn mà vẫn không nỡ bán kỹ vật cuối cùng của nó... - Vĩnh kính trọng anh vô cùng. Chàng nghĩ mình học Phật tu thân, nhưng nếu lâm vào hoàn cảnh tương tợ chắc mình chỉ bảo vệ thân mạng mình, kế đó là vợ con cha mẹ mình, chớ làm sao hành được cái hạnh Bồ Tát như anh ta được. Con người tốt như vậy mà phải sống chuỗi ngày ngắn ngủi còn lại, trong sự buồn nản, lo âu thấp thỏm thì thảm thương quá. Do đó, Vĩnh hấp tấp viếng thăm mong tạo được sự gần gũi tối thiểu, nhiên hậu sẽ tùy cơ hướng dẫn anh thực hành pháp môn Niệm Phật làm hành trang cho ngày vĩnh viễn ra đi.
Vĩnh đến mà không báo trước vì lỡ lạc mất số điện thoại, do đó, chàng ngần ngại đứng trước cửa một lúc rồi mới rụt rè bấm chuông. Chị Hợi mở cửa lỏ mắt ngạc nhiên.
- Chào chị. Xin lỗi đã đến thình lình. Có ảnh ở nhà không chị?
- Thằng chả không có ở đây! Chả ở nhà con lai á!
- Cô Mỹ ở gần đây không chị? Xin chị chỉ đường cho tôi đến đó thăm ảnh có chút việc.
- Ai biết!
Chị Hợi trả lời cộc lốc, kèm theo cái cửa đóng ập phũ phàng khiến Vĩnh sượng sùng lủi thủi trở ra. Vĩnh đang vô vọng nhìn quanh, chợt thấy cô thứ Năm lái xe trờ tới. Chàng mừng rỡ, cười “cầu tài” lên tiếng:
- Chào cô Năm. Tôi đi thăm anh Hợi mà chẳng biết nhà. Cô có thể chỉ cho tôi được không?
- Chú lái xe trở ra, quẹo mặt đến dãy chung cư kế đây, số nhà 3480, tầng trệt, phòng số 2.
Vĩnh đến nơi bấm chuông. Thấy chàng Mỹ đon đả mời vào. Phòng khách trống trải chỉ có bàn ăn hai ghế ngồi vừa dùng để tiếp khách, anh Hợi ngồi ghế xích đu lúc lắc xem truyền hình, cạnh đó, là bàn máy may của gia chủ. Thấy anh Hợi uể oải nhỏm dậy, Vĩnh vội giơ tay ngăn cản. Chàng lên tiếng:
- Tôi đâu ngờ anh dọn qua đây với cô Mỹ?
Anh Hợi cười gượng chưa trả lời thì Mỹ đã ong óng chen vào:
- Cái con mẹ ác ôn nhiếc mắng ba tui đã đời rồi quăng đồ của ổng ra sân đó! chú ạ! Uả! làm sao chú biết được nhà nầy?
- Cô Năm chỉ đường cho tôi.
Để tránh dây dưa vào một đề tài chỉ đào sâu mối bất hòa trong gia đình họ, Vĩnh vội kéo ghế ngồi cạnh Hợi hỏi thăm bệnh tình, rồi gợi chuyện để anh nhắc nhở lại những kỹ niệm vui buồn của thời đi lính Hải quân. Từ ngày lâm trọng bệnh, mất thú nhậu nhẹt, bạn bè thưa thớt dần, đã hằng lâu mới có người chịu khó nghe giải bày tâm sự, nên anh Hợi vui vẻ vô cùng. Anh hào hứng kể từ chuyện nầy sang chuyện khác, nỗi đớn đau buồn nãn gây ra bởi chứng bệnh nan y cơ hồ biến mất. Khi Vĩnh từ giã ra về, anh cứ quyến luyến nhìn theo tiếc nuối. Mỹ đưa Vĩnh ra tận xe, năn nỉ:
- Xin chú làm ơn tới chơi thường thường một chút. Có chú nói chuyện, ông già vui quá hà!
- Cô Mỹ à! Tôi nhận thấy thời giờ còn lại của anh Hợi rất ngắn ngủi, anh lại không có niềm tin nào để bám víu nên dễ sanh buồn phiền. Tiếc quá! giá mà ảnh có được niềm tin giống như niềm tin vào Đức Quán Âm của cô, thì chắc chuỗi ngày còn lại của ảnh cũng dễ chịu hơn!
- Đúng vậy đó chú Vĩnh! Mỗi lần gặp chuyện buồn khổ tôi chấp tay trước tượng Phật Bà niệm danh hiệu của Ngài thì cảm thấy an ủi nhiều lắm! Chú Vĩnh làm ơn nói sao cho ông già tin Phật đi, chớ tui nói hoài, lần nào ổng cũng cười hề hề hứa, rồi chẳng thấy ăn nhằm gì hết!
- Tôi cũng muốn cố gắng nhưng chuyện nầy khó lắm cô ạ! Điểm khó là niềm tin của con người phải xuất phát dựa trên cái thấy, cái cảm tự nhiên... cho nên nếu bị ép buộc, bị thuyết phục thì người ta thường có phản ứng trái ngược. Vì vậy, theo tôi thì mình phải tạo cơ hội cho anh Hợi yên chí rằng ảnh đến với đạo một cách tự nhiên thì mới tốt. Do đó, tôi không muốn anh Hợi nghi tôi đến chơi là vì ảnh và để thuyết pháp cho ảnh. Mình phải tìm một lý do nào khác mới được. Lý do gì bây giờ kìa? Hay là ngày mai cô lên tiếng nhờ tôi dạy tiếng Anh mỗi ngày một giờ, để tôi có cớ đến chơi trò chuyện với ảnh. Sau đó, tôi khuyên cô đọc thêm sách Việt cho mở mang kiến thức. Tôi chọn cho cô đọc toàn sách có chuyện đạo vui vui, ảnh vô tình nghe, rồi mình sẽ tùy nghi bàn bạc rộng ra, biết đâu nhờ vậy mà ảnh tò mò tìm hiểu rồi sẽ tự tìm thấy niềm tin trong đạo Phật.
- Ừa! chuyện đó tui làm được.
- Còn chuyện nầy xin làm phiền cô nữa đây. Anh Hợi kể rằng khi cô bị những người kia nặng lời thì anh rất đau khổ, ngược lại, nếu anh nghe cô dùng lời lẽ không đẹp ám chỉ họ, thì chắc ảnh cũng không vui. Tôi đồng ý với cô là họ không phải là người tốt, nhưng trước mặt ảnh khi nhắc tới họ, đề nghị cô nên dùng chữ nhẹ nhẹ một chút cho ảnh đỡ khó chịu. Được không cô?
Không che dấu nỗi bất mãn, Mỹ ngoe ngoẩy bỏ đi vào nhà, chẳng thêm bớt lời nào nữa. Vĩnh ngại cô nàng còn bực bội nên chờ đến hai hôm sau mới lò dò tìm đến. Gặp chàng, Mỹ chẳng những không đổ quạu mà còn rối rít chào đón. Vĩnh cũng muốn lấy lòng nàng, nên tán tỉnh:
- Lần nào đến cũng thấy có hoa đẹp trên bàn thờ Quán Âm. Cô Mỹ thuần thành quá!
- Không tin thuần thành sao được chú? Ngày tui bị cái con... Ơ ơ... má nuôi tui xua đuổi, tui tự tử kể như chết rồi, thì Phật Bà cứu mạng tôi đó.
- Danh hiệu của Ngài là Quán Thế Âm có nghĩa là vị bồ tát có hạnh nguyện lắng nghe tiếng kêu thương của thế gian để mà cứu khổ cứu nạn. Cô tin tưởng niệm danh hiệu của Ngài thì được linh ứng chớ sao?
- Chú Vĩnh cũng niệm Quan Âm hả?
- Tôi cũng niệm Quán Âm để học hạnh nguyện của Ngài, hầu mỗi khi nghe thấy ai buồn khổ thì ráng sức mình giúp đỡ họ. Điểm dễ thương của Bồ Tát là tùy theo ước muốn của chúng sanh mà hiện ra đủ mọi hình dạng để cứu giúp. Tôi cũng mong học theo đặc điểm nầy. Mình không hiện thành vua quan thánh thần được, nhưng nếu ai cần người anh, người em, con cháu, bạn hữu... thì tôi sẽ ráng lo lắng cho họ theo tư cách đó...
Hai người đàn ông lại tiếp tục chuyện trò. Khi nghe họ bàn đến những nỗi khó khăn thuở ban đầu tại xứ người, thì Mỹ chen vào than:
- Ở xứ người mà nói nghe không rành thiệt khổ! Mỗi lần đưa ba tui đi nhà thương, tui thiệt “sẫu” mình! Chú Vĩnh à! khi nào chú rảnh chú nhín chút thời giờ kèm tôi tiếng Anh nghen chú!
Vĩnh còn đang ngần ngừ, thì anh Hợi đã năn nỉ:
- Chú làm ơn nhín chút thời giờ dạy cho con Mỹ, nghen chú!
- Được rồi, nếu cô có lòng muốn học thì mỗi ngày tôi sẽ dạy cô một giờ.
Theo đúng kế hoạch đã vạch sẵn, trong thời gian đầu sau phần dạy Anh văn, thì Vĩnh sáp lại tán gẫu với anh Hợi về những đề tài liên hệ đến quê hương mến yêu: chuyện xóm làng, sông nước, ruộng đồng, bánh trái, cá mắm... dài dài bất tận. Tuần lễ sau, nhân lúc Mỹ đi giao và nhận hàng may, Vĩnh gợi chuyện:
- Cô Mỹ mới học Anh văn vài ngày mà đã tiến bộ thấy rõ.
- Mấy bữa nay bỗng dưng nó đi thưa về trình, xưng con, thưa ba ngọt xớt. Nó còn gọi vợ tui là má nữa! Tôi thiệt khoái quá xá hà!
- Ơ! mấy ngày trước, nhân bàn về những câu chào hỏi lịch sự của người Hoa Kỳ, tôi cũng nói thêm về lối thưa gởi lịch sự của người Việt. Chỉ có vậy mà mà không ngờ cô ấy có thể áp dụng ngay, nói năng dịu dàng liền, khá thật!
- Tui đã nói với chú là nó sáng dạ lắm mà!
- Cô ấy thông minh như vậy mà không học nhiều uổng quá! Tôi có ý chọn một số sách Việt để cô đọc cho tăng sự hiểu biết, nhưng sợ cô chán ngán rồi bỏ dở. Anh Hợi à! Cô Mỹ rất có hiếu, nếu anh chịu khó nghe, giả vờ thích thú, tôi tin cô sẽ hứng chí đọc thì lợi ích lắm đó!
- Chuyện ấy dễ quá mà! Tui sẽ làm theo ý chú.
Hôm sau Vĩnh mang vài tập truyện của hòa thượng Thiện Hoa và của sư bà Thể Quán như: Bài học ngàn vàng, Nét đẹp Đông Phương, Em mơ người hoang đảo..., để mỗi ngày Mỹ đọc một giờ cho cha nuôi nghe.
Truyện viết dễ thương, cảm động, vừa hàm chứa nội dung đạo pháp sâu đậm, càng nghe càng hấp dẫn. Do đó, tuy lúc đầu hai cha con, người nầy vì người kia hy sinh gượng gạo tham gia, nhưng lần lần họ bị câu chuyện lôi cuốn. Họ theo dõi tình tiết, phê phán nhân vật, trao đổi quan điểm... với sự góp ý của Vĩnh. Thế rồi, từ chuyện đời sang chuyện đạo, từ nhân vật tưởng tượng chuyển sang nhân vật có thực, ba người mặc sức bàn ngang tán rộng. Thời giờ bàn ngang tán rộng hấp dẫn quá, nên ngày nào Vĩnh bận việc về sớm, hai cha con buồn hiu.
Đó là lý do mà cả hai cứ nài ép Vĩnh đến sớm, ăn cơm thân mật, để có thêm thời gian bàn bạc. Ăn cơm mời mãi thì cũng ái ngại, nên Vĩnh gởi tiền cho Mỹ nhờ nấu cơm tháng cho tiện. Từ cơm nước tiến lần đến giặt giũ, Mỹ lo lắng cho chàng như một cô em gái. Bù lại, Vĩnh thay cô ta gánh vác việc đưa đón, hẹn ngày khám bệnh cho anh Hợi nên cũng bận rộn không kém. Tình thân thiết của Vĩnh và hai cha con cứ thế mà gia tăng theo ngày tháng. Diễn tiến tự nhiên khác là anh Hợi bỗng thích đi chùa lễ Phật, nghe Pháp. Anh quyết tâm dành quãng đời còn lại để học Phật tu thân nên thường yêu cầu Vĩnh giải thích những điểm chưa thông suốt. Một hôm, nhân khi đọc truyện “Để lại cho vui” của sư bà Thể Quán, đến đoạn hai mẹ con sư bà hẹn sẽ gặp nhau ở cõi Tây Phương Cực Lạc, Mỹ bỗng õng eo.:
- Ba à! ba con mình cũng ráng tu tập và hẹn nhau ở đó nghen ba!
Anh Hợi gật gù:
- Ừa! nhưng rủi ba tu không nên thân, bị đọa xuống địa ngục thì sao?
- Ba xuống địa ngục thì con cũng xuống theo đó!
Con bé chỉ nhỏng nhẻo thôi, vậy mà, coi bộ anh Hợi tưởng thiệt. Anh nghẹn ngào hồi lâu mới than nho nhỏ với Vĩnh:
- Chết cha tui rồi chú ơi! Con nhỏ nầy lì lợm lắm. Tui xuống địa ngục, nó cũng xuống theo chớ chẳng chơi đâu! Chú phải nói hết cho tui nghe cái vụ Tịnh Độ để tui ráng tu thì mới được.
- Có rất nhiều băng giảng về pháp môn Tịnh độ rất hay, tôi dự trù mang cho anh nghe rồi mình sẽ bàn thêm những điểm còn mù mờ. Tuy nhiên, để anh hiểu đại khái phần nào pháp tu nầy, tôi có thể nêu ra vài đặc điểm như sau: Theo luật nhân quả nghiệp báo, những tạo tác ta làm trong kiếp nầy và cả những kiếp trước sẽ quyết định cho hoàn cảnh và nơi chốn của kiếp tái sanh. Tu tịnh độ, trước hết có nghĩa là tu sửa thân tâm thanh tịnh, tức tạo nghiệp thanh tịnh để được sanh về cõi thanh tịnh tức tịnh độ. Sanh về cõi tịnh thì sẽ không còn còn khổ não, không còn tạo nghiệp ác để lăn lộn vào chốn địa ngục ngạ quỷ súc sanh nữa. Việc hành trì pháp môn nầy có thể tóm gọn bằng hai chữ “Niệm Phật”. Niệm có nghĩa là tưởng nhớ. Tưởng nhớ Phật có thể bằng quán tưởng, chiêm bái... hay bằng cách xưng danh hiệu của Phật. Phương pháp trì danh tức niệm danh hiệu Phật dễ nhất, nên chư tổ thường khuyên Phật tử thực hành. Tóm lại, tâm mình luôn luôn tưởng nhớ Phật, không để tham sân si lôi kéo, lần lần được thanh tịnh nên sẽ tương ưng với tâm Phật mà sanh về cõi Phật.
- Mà mình phải niệm vị Phật nào cho đúng vậy chú?
- Theo nguyên tắc khi tưởng nhớ đến vị Phật nào thì sẽ gieo duyên với vị Phật đó, và có thể sanh về cõi tịnh độ của Vị Phật ấy. Tuy nhiên, vì cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A Di Đà có nhiều nhân duyên với chúng sanh cõi Ta Bà, chư Bồ Tát trên cõi đó như Ngài Quán Âm, Ngài Thế Chí thường hóa hiện vào cõi Ta Bà để dẫn dắt, cứu khổ cứu nạn, ngoài ra, Đức Phật A Di Đà có 48 lời đại nguyện, trong đó có lời nguyện rằng nếu có chúng sanh nào trong lúc lâm chung niệm danh hiệu Ngài 10 niệm nhất tâm bất loạn, thì Ngài và thánh chúng sẽ rước về nước Phật. Vì vậy cho nên Đức Phật Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền và chư tổ đều ân cần khuyên nhủ Phật tử chúng ta niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà để cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc.
- Niệm Phật để tu nghiệp thanh tịnh hầu sanh về cõi tịnh thì hợp lý rồi, nhưng còn cái vụ khi lâm chung chỉ niệm 10 tiếng mà được vãng sanh thì khó tin quá chú ạ! nếu vậy kẻ gây nghiệp ác suốt đời rồi đợi đến giờ chót niệm Phật mấy câu mà thành tựu thì dễ dàng quá, nhưng như thế thì luật nhân quả không giá trị gì hết sao?
- Mới nghe nói tưởng rằng dễ lắm nhưng nghiên cứu kỹ thì thấy không dễ như người ta lầm tưởng đâu anh. Niệm Phật nhất tâm bất loạn nghĩa là một lòng chí thiết niệm Phật không để bất cứ ý tưởng tạp nhạp nào xen vào thì ngay khi còn khoẻ mạnh, tâm trí sáng suốt mà muốn thực hành thành công đã là chuyện gian nan, huống chi là vào lúc lâm chung: thân xác đau nhức, đầu óc u mê rối loạn, khủng hoảng cùng cực... Chính vì điểm khó khăn đó, nên ngay bây giờ mình phải thực hành pháp Niệm Phật liền, niệm liên tục từ ngày nầy đến ngày kia, niệm cho tham sân si giảm lần, chuyện thị phi, chuyện hơn thua, lòng tham luyến cõi đời không còn nữa... có như vậy, thì tâm mình mới thanh tịnh phần nào, hầu đến giờ phút tối quan trọng là lúc lâm chung mình mới hội đủ phước duyên tinh thần minh mẫn mà niệm Phật nhất tâm bất loạn được.
- Tại sao giờ phút lâm chung quan trọng quá vậy chú?
- Chư tổ dạy rằng cận tử nghiệp tức là cái nghiệp tạo ra khi gần chết rất mạnh, nó quyết định con đường tái sanh của mình. Trong Phật sử có kể đến trường hợp một vị tỳ kheo trong phút lâm chung tham luyến cái y nên bị đọa thành rận, một vị hòa thượng tham luyến mía đọa thành sâu mía..., ngược lại có lắm người tu tập tầm thường nhưng lúc cận tử chân thành tha thiết niệm Phật thì được vãng sanh. Điều nầy lúc đầu tôi không hiểu ra, nhưng khi tôi nhớ lại chuyện học trò thi cử thì nhận thấy có chỗ tương đồng. Có những đứa học trò chăm học suốt năm, nhưng đến giờ chót lại lêu lỏng bê tha, làm bài thi bừa bãi nên phải lãnh kết quả bi đát, trong khi có đứa học trò kém nhưng đến cận ngày thi biết lo lắng học ôn dưới sự hướng dẫn của vị thầy giỏi, lại bình tĩnh và gắng sức làm bài thì vẫn có thể đỗ đạt. Tóm lại, dẫu mình tu tập lơ mơ nhưng nhờ biết nương theo lời dạy của chư Phật chư tổ, một lòng tha thiết niệm Phật trong lúc lâm chung, thì tâm mình sẽ chuyển hóa gần gũi với tâm Phật, nên có thể được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây Phương Cực Lạc.
- Nè chú nói thiệt dùm tui nghen! Dốt nát kém cõi như tui cũng có thể tu pháp môn nầy hở chú!
- Được chớ anh! vấn đề là một lòng một dạ chí thành niệm Phật, sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” tiếp nối nhau không gián đoạn, không để cho chuyện vui buồn thương ghét của thế gian dao động, thì chắc chắn sẽ thành công. Tôi tin tưởng anh sẽ làm được.
Từ dạo đó anh Hợi phát nguyện hành trì pháp môn Niệm Phật. Anh vốn là người thực thà trung hậu, nên một khi đã xây dựng niềm tin rồi, thì cứ thế mà bền bĩ tu tập không một giây phút xao lãng. Thời gian ngắn sau anh bỏ rượu, rồi cũng nhứt quyết không nếm mùi vị cá thịt nữa. Càng niệm Phật, anh càng tinh tấn, anh không tha thiết đến chuyện đời, kể cả chuyện sống chết của chính anh. Những buổi mạn đàm tay ba trở nên thừa thãi nên lần lần chấm dứt. Vĩnh chỉ còn nhiệm vụ là kèm Mỹ học và kháo chuyện với nàng. Kháo chuyện với Mỹ độ rày rất thú vị, có lẽ nhờ nàng chịu khó học hỏi và cải tiến nên tính nết dịu dàng nhỏ nhẹ, chớ không còn ngổ ngáo hỗn hào như xưa. Một hôm, Mỹ bỗng chớp chớp đôi mắt nhìn Vĩnh, rồi õng ẹo:
- Vĩnh à! Vĩnh vốn hành hạnh nguyện Quan Âm nếu ai cần người anh, người em, bè bạn hay con cháu... thì Vĩnh cũng đóng vai anh em bè bạn con cháu của họ để lo lắng cho họ phải hông?
- Đúng vậy!
- Hồi trước ba cần người em nên Vĩnh hiện thân là người em chăm sóc ba, còn Mỹ cần người anh nên Vĩnh trở thành người anh dạy dỗ Mỹ phải hông?
- Ơ! thì Vĩnh cũng cố gắng hết sức mình vậy thôi!
- Giả tỉ như bây giờ, Mỹ cần một người... Ơ ơ... người thương... thương Mỹ suốt đời thì sao? Vĩnh có hiện thân làm... Ơ ơ... làm... của Mỹ hông?
Mặt Vĩnh bừng đỏ như gấc, chàng chỉ ú ớ: “Ơ... Ơ”, rồi im bặt.
Vĩnh vốn nhát gái lại bất ngờ bị Mỹ tỏ tình táo bạo nên đành tịt ngòi. Thật ra, Vĩnh đã lờ mờ hiểu phần nào lòng dạ Mỹ khi nàng bắt đầu thay đổi lối xưng hô mấy tháng về trước, và tự đáy lòng chàng cũng cảm thấy rung động trước người con gái khả ái nầy. Đây là vấn đề mà chàng đã từng đêm trăn trở suy tư, nhưng càng suy tư thì lòng càng rối ren không tìm ra đáp số. Mỹ nhí nhảnh duyên dáng, và tuy ngang bướng với thiên hạ nhưng rất phục tùng chàng, chàng ngầm tự hào rằng nhờ mình mà Mỹ đã thay đổi hẳn ra, và chàng rất yêu thích sự việc nầy. Tuy nhiên, chàng lớn hơn Mỹ một con giáp, tuổi tác, gia giáo, học thức, tính nết đều cách biệt... suy ra thì thật khó mà chung sống hạnh phúc, huống chi chàng đã lo lắng cho người là do hạnh nguyện Bồ Tát, nay nếu có tình ý thì té ra chàng đã hành động vì có mưu đồ sao?
Vĩnh bối rối không hiểu nỗi lòng mình, nên cứ im lặng. Chàng bỗng ngượng ngập mất hết tự nhiên. Mỹ tránh né hỏi han trực diện chàng, nàng đánh mất vẻ liếng thoáng thường nhật và lúc nào cũng trầm ngâm man mác buồn khiến lòng Vĩnh nao nao thương đứt ruột. Chiến tranh lạnh mà êm ái nồng nàn nầy mà kéo dài thì e rằng Vĩnh đành phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quá. Thế nhưng, thình lình bệnh tình của anh Hợi bỗng trở nên nguy ngập, cả hai phải thay phiên túc trực chăm sóc bệnh nhân thành thử chuyện đôi co tình cảm đành gác qua một bên. Trước đây, bác sĩ tiên đoán mạng sống anh Hợi chỉ còn sáu tháng, anh chống chỏi đến tháng thứ mười bốn mới kiệt quệ là quá may mắn rồi. Anh phải uống những liều thuốc an thần cực mạnh để chống đỡ đau nhức, dù vậy mỗi khi tỉnh lại anh vẫn kiên trì niệm Phật không gián đoạn. Một hôm, đang chăm chú niệm Phật bỗng anh ra dấu cho Vĩnh đến gần, thều thào:
- Tui đang niệm Phật mà vừa nghĩ tới hoàn cảnh côi cút của con Mỹ thì lòng chộn rộn niệm trật vuột rồi!
- Anh có bề gì thì còn tôi lo lắng cho cổ mà! Xin anh yên tâm niệm Phật đừng nghĩ chuyện gì khác!
- Chú lo cho nó suốt đời được không chú? Chú Vĩnh à! Con Mỹ “mết” chú lắm mà không biết chú có “ưng” nó không? Nếu chú thật lòng thương nó, chú hứa với tôi một tiếng thì tui yên bụng biết là bao?
Mạng sống anh Hợi đang đếm từng ngày, anh cần an tâm để tập trung niệm Phật, nếu Mỹ khó ưa thì Vĩnh còn nghi ngại, đàng nầy nàng dễ thương quá mà. Vĩnh vội vã đáp:
- Hứa! tôi hứa chắc! Xin... yên tâm!
- Nhớ lo đám cưới càng sớm càng tốt nghen Vĩnh. Không cần chờ mãn tang hay cữ kiêng gì ráo mà phải kéo dài nhé!
- Dạ!
Mỹ đứng sau lưng chàng tự lúc nào, nghe đối thoại trên, hớn hở “háy” chàng một cái bén ngót, rồi thủ thỉ bên tai:
- Thật dễ... ghét! ỷ được người ta thương nên làm bộ làm tịch. Sao không giỏi làm thinh với ông già đi?
Sau khi phó thác cho Vĩnh cục nợ đời, anh Hợi tiếp tục thành khẩn niệm Phật, không màng để tâm đến bất cứ chuyện gì khác nữa. Có những lúc bị cơn đau nhức hành hạ oằn oại, nhưng anh vẫn gắng giữ vẻ tươi vui, môi mấp máy không rời sáu chữ Di Đà. Hai tuần lễ sau thì anh từ trần. Anh ra đi thanh thản nhẹ nhàng, miệng cứ như đang mĩm cười và có rất nhiều triệu chứng vãng sanh khiến cho người ở lại rất đổi vui mừng.
Tang ma xong, Vĩnh lập tức liên lạc về Việt Nam xin mẹ cho phép lập gia đình. Được mẹ chuẩn y, chàng tức tốc tiến hành hôn lễ theo nghi thức Phật Giáo tại ngôi chùa địa phương, trang nghiêm và giản dị, với sự hiện diện của một số ít thân hữu của chàng, bên vợ thì chỉ có chị Năm tham dự mà thôi. Đám cưới hấp tấp có thể là đề tài hấp dẫn cho người đời biếm nhẽ, nhưng thà vậy còn hơn chàng phải phập phòng lo lắng cho người vợ bé bỏng thân gái một mình ngụ tại một chung cư tồi tệ nằm trong khu vực kém an ninh.
Đúng theo kế hoạch đã vạch sẵn, Vĩnh khuyến khích vợ bỏ nghề may để ghi danh học toàn thời gian tại trường đại học cộng đồng North Lake, nơi có những lớp học căn bản Anh ngữ và ngành nghề đủ loại dành cho những người lớn tuổi học vấn dở dang. Chàng dự trù, sau ba năm chuyên cần học hành, nàng sẽ có trình độ hiểu biết khá, hội nhập dễ dàng với đời sống xứ người, thì mới nghĩ đến chuyện tìm công ăn việc làm. Mặt khác, chàng cũng đưa nàng đến chùa sinh hoạt, hy vọng nàng sẽ trở nên một Phật tử thuần thành biết tu tâm dưỡng tánh và hộ trì tam bảo.
Sau mấy tháng trăng mật thuận vợ thuận chồng chan hòa hạnh phúc, Vĩnh bỗng khám phá ra rằng kế hoạch “dạy vợ” của chàng có những điểm trục trặc to lớn. Đúng ra, về phương diện “học làm sang”: giao tế, chưng diện, nói năng tiếng người và tiếng Việt... thì Mỹ tiến bộ vượt bực. Chỉ cần một thời gian ngắn thì những nét quê mùa thiếu học biến dạng, nàng tạo được vẻ bề ngoài nhã nhặn, khả ái, lịch thiệp, mộ đạo... khiến kẻ bàng quan ai cũng nức lòng khen ngợi.
Ai chẳng cho rằng Vĩnh có đại diễm phúc được cô vợ trẻ đẹp và ngoan, ngờ đâu chàng đã phải nuốt cay ngậm đắng dai dẳng vì nàng. Nguyên nàng bị đẩy ra cuộc đời quá sớm, tự mình phải chống chỏi phấn đấu để sống còn, nên lòng dạ nàng dường như bị biến dạng sứt mẻ bởi những vết thương rướm máu từ thuở ấu thời. Nàng giống như một trái xoài non choẹt mà bị hái đem “dú ép”, bề ngoài láng mướt vàng hực hấp dẫn, mà bên trong thì chua lét xẵng lè. Vĩnh có ước nguyện hành Bồ Tát hạnh, nên tuy làm việc lương bổng khá, mà vẫn giữ nếp sống giản dị đạm bạc, để dành tiền giúp đỡ mọi người không kể thân sợ Thế nhưng, tính Mỹ lại quá sức cần kiệm, nàng đã trải qua quãng đời thơ ấu nhọc nhằn, lúc nào cũng thiếu thốn, nên ôm chặt túi tiền, chẳng để rơi rớt đồng nào. Thế rồi, bằng cách nầy hay cách khác nàng kiểm soát tiền bạc cẩn thận chẳng để Vĩnh tự do chi dụng nữa. Lần hồi, ngay như chuyện gởi tiền cho mẹ một ít Vĩnh đã gặp khó khăn, đôi khi còn phải gánh chịu giận hờn nặng nhẹ, thì làm sao chàng có thể mang tiền ra bố thí cho người dưng kẻ lạ như ngày xưa nữa. Nàng dễ giận dễ hờn, thù ghét ai thì dai dẳng không nguôi. Mỗi lần nhắc đến má nuôi và ba chị lớn, lửa hờn của nàng bừng lên hừng hực tưởng như nếu nàng được bầm nát xác họ ra thì mới hả. Nết giận đã ghê gớm mà nết ghen tuông cũng ngoại hạng nữa. Không những nàng chỉ ghen với đám đàn bà con gái trong lứa tuổi người đàn ông có thể lén phén, mà nàng còn ganh tỵ luôn với thân nhân bè bạn của chàng không chừa một ai. Nói khác nàng muốn tất cả tình cảm của chàng phải dành trọn cho nàng, không chia xẻ chút xíu nào cho người khác, dù đó là đối tượng mà chàng phải xử sự vì bổn phận hay vì thương hại. Nàng rất mực yêu thương chồng, nhưng khi đã nổi cơn ghen thì hỗn hào bất chấp lẽ phải, thành thử chàng đành giảm bớt giao du để tránh cảnh gia đình xào xáo.
Lầm lẫn lớn của Vĩnh là tuy trước kia vẫn biết bẩm tính xấu xa của nàng, nhưng lúc đó, nàng ngoan ngoãn quá, chàng nói điều gì nàng cũng nhứt nhứt nghe theo nên tưởng nàng dễ uốn nắn lắm. Chừng rước nàng về rồi thì “Bụt trong nhà không thiêng”, nàng lại chủ trương vợ chồng ngang hàng nhau đủ mọi khía cạnh kể cả sự hiểu biết nên nếu chàng ra vẻ khuyên bảo thì chẳng những nàng không nghe mà có khi còn làm nghịch lại nữa.
Vì lẽ đó, Vĩnh không bao giờ bàn chuyện đạo với vợ. Mỗi người tùy nghi chọn nếp sống tâm linh phù hợp với mình. Chàng cố gắng ăn ở sao cho dạt dào tình nghĩa mà vẫn tròn đạo hạnh, rồi ngày ngày chỉ biết chí thành lễ Phật sám hối cầu Phật từ gia hộ cho nàng. Mặt khác, chàng thường xuyên chọn những băng thuyết giảng giá trị của quí thầy chăm chỉ nghe với hi vọng những lời dạy đạo đó vô tình lọt vào tai nàng, may ra nàng sẽ lưu tâm đến chuyện tội phước nghiệp báo mà chuyển hóa phần nào chăng? Biết nàng tin tưởng Quán Âm, Vĩnh thường ca ngợi hạnh cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát để ngầm nhắc nhở nàng mở rộng lòng thương. Nàng mà bố thí chút đỉnh dù là với mục đích phô trương đạo đức, Vĩnh cũng trầm trồ tán thán mong nàng hứng chí bố thí thường xuyên hơn nữa.
Thời gian đầu, nàng lập lại những lời thuyết pháp, nói chuyện tu hành rất thông suốt nhưng dường như tham sân tị hiềm chẳng mấy thay đổi. Mấy năm sau, bỗng dưng dấu hiệu chuyển biến tâm tư của nàng xuất hiện. Có lẽ, sau khi ra trường, làm cán sự kiểm lượng cho công ty điện tử, lương chồng lương vợ dồi dào, nhà cửa khang trang, tiền bạc thừa thãi nên lòng nàng cũng rộng rãi ra. Khúc quanh thay đổi tâm tính của nàng, đúng ra chỉ thật sự bắt đầu sau chuyến về thăm quê hương. Vĩnh đưa vợ về thăm mẹ, đồng thời cũng để liên lạc với một số người tự nhận biết những tin tức liên quan đến gia đình Mỹ. Chàng đã nhờ thân nhân trong nước đăng báo và rải truyền đơn hậu tạ cho ai cung cấp manh mối về thân nhân của một đứa bé bị thất lạc tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng tư năm 1975. Để tránh trường hợp đoán mò, Mỹ lánh mặt, chỉ để một mình Vĩnh tiếp xúc cả năm người đưa tin: ba người cho biết đứa bé là trai, người thứ tư mô tả cô bé khác màu da, người cuối cùng chỉ đúng màu da nhưng nói rằng đứa bé còn nằm nôi. Thất vọng, Mỹ đành quay về dĩ vãng bằng cách đưa chồng về thăm xóm cũ tại đường hẻm đường Lạc Long Quân, quận 11. Thím Bảy cà phê và vài gia đình láng giềng vẫn còn sống lây lất ở đó. Họ tíu tít vây quanh Mỹ, trầm trồ ca ngợi nàng, khiến nàng hả hê mở bét hồ bao không tiếc rẻ. Vĩnh gạ gẫm đưa vợ đi viếng thăm cô nhi viện và Trung Tâm Khuyết Thị. Tại đây, Mỹ có dịp quan sát được hành hoạt của những vị Bồ Tát vô danh âm thầm dâng hiến cả cuộc đời mình hàn gắn vết thương đau cho đồng loại. Tại đây, nàng cũng thấy nghe hoàn cảnh cơ cực của những đứa bé mồ côi bệnh hoạn, tật nguyền, trì độn... đang thoi thóp sống, những kẻ đui mù mò mẫm mà vẫn hồn nhiên lao động vui tươi. Và lần đầu tiên trên đời, trái tim chai đá của Mỹ bỗng xúc động thực sự. Nàng hốt nhiên phát nguyện học hạnh Quán Thế Âm Bồ Tát, lắng nghe tiếng kêu thương của thế gian để hết lòng cứu khổ. Từ dạo đó, Mỹ bền bĩ phát triển lòng từ bị Lúc đầu, mỗi khi hành hạnh nguyện nầy nàng còn suy tính so đo, nhưng càng bố thí nàng càng cảm thấy có niềm vui đạo vị mênh mang tràn ngập, nên nàng cứ tiếp tục mãi và lần lần trở nên thuần thục tự nhiên không cần phải gượng ép cố gắng nữa. Một khi tình thương đã mở rộng thì những tính tốt khác cũng tiến bộ lần, ngoại trừ lòng thù ghét của nàng đối với má nuôi thì vẫn bám chặt không nguôi.
Một hôm Vĩnh nhận được hai cặp chữ dùng làm đề tài tu tập là: “Lắng nghe” và “Nhìn lại”. Chữ viết là bút tích của thầy Nhất Hạnh, hằng năm thầy vẫn đưa ra đề tài mới, và Làng Hồng gởi đi khắp nơi cho Phật tử để tùy nghi. Thông thường Vĩnh cất giữ các bộ chữ nầy trong tủ sách để thỉnh thoảng đem ra suy gẫm. Lần nầy chàng đóng khung cẩn thận treo trên tường rồi cứ ngắm nghía mãi. Ngạc nhiên trước thái độ long trọng của chàng, Mỹ thắc mắc:
- Bộ chữ nầy có điểm gì đặc biệt mà coi bộ anh trân quí hơn các bộ chữ năm trước?
- “Lắng Nghe” tượng trưng cho hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm: lắng nghe tiếng kêu thương của thế gian để mà cứu khổ. Em đã hành hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn rất tích cực nên anh treo thông điệp nầy lên làm món quà quí để ca ngợi em.
Nghe chồng tán tỉnh, Mỹ thích chí cười lỏn lẻn, rồi hỏi tiếp:
- Cặp chữ nầy thì em hiểu được, còn cặp chữ “Nhìn lại” theo em thì nó có vẻ mâu thuẫn sao đó! Anh nghĩ coi, quí thầy dạy mình phải giữ chánh niệm, phải sống trong hiện tại, không thả tâm dun rủi tương lai, không đem tâm đào xới lại quá khứ, vậy thì nhìn lại có còn hợp lý không?
- Nhìn lại có nghĩa là nhìn lại con người thực của mình, quán sát từng động niệm của tâm mình để biết tâm có đắm nhiễm tham sân si không, nói khác, nhìn lại để biết lỗi mình đã gây ra mà sám hối sửa đổi. Cũng là nhìn lại, nhưng nếu đào bới quá khứ để tham sân si sinh khởi thì sai lầm vì nó chỉ tạo cho ta phiền não chớ chẳng ích lợi gì. Ngược lại, nếu ta thành khẩn nhìn lại hầu thấy rõ được lỗi mình để sám hối sửa đổi và thấy được cái tốt của người để tùy hỉ tán thán, thì điều đó chính là hành hạnh nguyện thứ tư và thứ năm của Bồ Tát Phổ Hiền. Anh có kinh nghiệm cá nhân như thế nầy: Hồi nhỏ má gởi anh lên Saigon ở nhà cậu ba đi học, cậu thương chị nên cho ăn ở miễn phí. Điều đó khiến mợ ba không mấy bằng lòng, mợ thường khe khắc rầy rà anh, còn anh vốn đã ghét mợ nên cũng lời qua tiếng lại chẳng mấy nể nang. Một hôm mợ ba to nhỏ thế nào mà cậu nổi giận la rầy anh. Anh nghĩ mình oan ức nên cũng ong óng trả lời, khiến cậu bực tức đuổi anh đi, từ đó, anh rất oán hận mợ. Mãi đến khi anh may mắn học hỏi Phật Pháp, anh lại có duyên với hạnh nguyện Phổ Hiền nên hằng quán sát lại mình để sám hối lỗi lầm, đồng thời, tập thấy được công đức của người để tùy hỉ tán thán. Nhờ vậy, khi nhìn lại câu chuyện ngày xưa thì anh lại có những nhận định khác hẳn. Trước hết anh nhận thấy mợ ba đã nuôi anh ăn học, đã phải chịu đựng cái tuổi thiếu niên kỳ cục của anh cả năm trời là quá tốt, anh lại khám phá ra rằng anh có thói xấu là ăn nói với người lớn bừa bãi, rồi anh lại nghĩ anh phải xa cha mẹ sớm, chịu đựng vất vả có lẽ vì kiếp trước vụn tu, có thể trong kiếp trước anh đã từng gây cảnh mẹ con chia lìa nên cần phải sám hối lỗi lầm. Do sự “nhìn lại” nầy anh biết thương yêu kính trọng mợ Ba, anh dè dặt lời nói, anh thông cảm với tuổi thiếu niên kỳ cục, anh lo lắng đùm bọc cho những đứa trẻ xa cha xa mẹ. Anh tu tập có chút đỉnh kết quả nhờ là biết “nhìn lại” nên rất trân quí thông điệp Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nầy.
Chừng hai tuần sau, bỗng dưng Mỹ lên tiếng rủ rê:
- Anh à! Bữa nay anh đưa em về thăm má một chút nhé!
Vĩnh giả vờ ngạc nhiên, nửa đùa nửa thật vặn hỏi:
- Uả! em nói gì sao anh nghe lùng bùng lỗ tai quá vậy? Em cao hứng nói giỡn chơi với anh phải không?
- Em không giỡn mà cũng không cao hứng bất tử đâu! Em nghĩ suy cặn kẽ rồi anh à! Trong hoàn cảnh sống khó khăn ngày đó, má vẫn chịu đùm bọc em, dù bả có khe khắc một chút thì cũng quí báu lắm rồi. Nếu em ở vào trường hợp của bả, thì với tánh nết ngang ngược của em, thế nào em cũng tống cổ đứa nhỏ ra khỏi cửa, anh không dễ dầu gì ngăn cản nỗi đâu. Em mà có được như ngày nay là nhờ ơn của bả, thế mà em cứ ôm ấp hiểu lầm xưa rồi gây hấn với bả hoài nên càng tạo thêm lỗi lầm. Em lại nghĩ kiếp trước chắc em tạo nghiệp chướng nặng nề nên kiếp nầy phải lạc mẹ lạc cha, nếu nay em không phát lồ sám hối mà cứ tiếp tục đối xử tệ bạc với người mẹ nuôi thì nghiệp ác lại chất chồng thêm mãi... e rằng từ kiếp nầy qua kiếp khác em cứ phải chịu cảnh côi cút dài dài mà thôi.
- Đưa em đi thăm thì anh rất sẵn sàng, nhưng chỉ ngại mình đến thình lình như vầy, liệu có ai mở cửa cho em vô không?
- Anh yên chí lớn đi! Em đã có tay trong rồi!
Vĩnh biết tay trong đó không ai khác hơn là chị Năm. Nguyên chị và Mỹ tuổi tác suýt soát nhau, thuở ấu thơ hai chị em đã học chung, chơi đùa chung... nên dù Mỹ có gay cấn với người khác, ha