LÀO PDR.COM ĐI RA TỪ LÃNG QUÊN
LÀO PDR.COM
ĐI RA TỪ LÃNG QUÊN
Từ một Xứ Sở Bị Lãng Quên, Lào đang muốn trở thành
Xứ Kuwait Thủy Điện của Đông Nam Á.
Từng bị mang tên là “Xứ Sở Bị Lãng Quên – Forgotten Country”, gần đây Lào lại đang được biết tới không chỉ qua Du Lịch Sinh Thái – Ecotour với hơn 600 ngàn du khách / năm nhưng còn được chú ý nhiều hơn nữa do tin tức từ bên ngoài về những biến động chánh trị ở Lào. Dĩ nhiên phải từ bên ngoài vì không có tự do báo chí hay đúng hơn không có sinh hoạt báo chí ở Lào. Hai tờ tuần san / bán tuần san Le Rénovateur – Đổi Mới [tiếng Pháp] và Vientiane Times – Vạn Tượng Thời Báo [tiếng Anh] là của Nhà Nước Lào chủ yếu dành cho người nước ngoài.
Bây giờ là tháng 12, thời điểm tốt về thời tiết để viếng thăm Lào (giữa khoảng tháng 11 tới tháng 3): sau đó khí hậu quá khô nóng rồi tiếp theo là Mùa Mưa. Nhưng xem ra thời điểm lúc này lại không tốt về dự báo tình hình chánh trị ở Lào với dồn dập những tin tức:
- Các vụ nổ bom từ Vạn Tượng tới Pakse làm rung chuyển nước Lào. Tướng lưu vong Vang Pao người Hmong phủ nhận trách nhiệm (AFP, 26/07/ 2000).
- Vụ nổi dậy vũ trang bị giấu nhẹm ở vùng núi non Muong Khoun, Lào (AFP, 04/08/ 2000).
- Tin Bộ trưởng Tài chánh Khamsay con trai ông Hoàng Đỏ Souvanouvong tỵ nạn chánh trị bị Lào phủ nhận (AFP, 05/08/ 2000).
- Rồi tiếp theo những tin như: vụ tấn công biên giới Lào Thái với cờ Hoàng Gia Lào; người Mỹ gốc Hmong mất tích trên đường tới Lào; người Hmong đốt chợ ở cây số 52 trên quốc lộ 13 phía bắc Vạn Tượng; đoàn xe chở quân đội Cộng sản Việt Nam di chuyển qua thủ đô Vạn Tượng...
- Bà Ngoại trưởng Albright khẳng định Mỹ không hậu thuẫn phong trào kháng chiến ở Lào, Tòa Đại Sứ khuyên không nên du lịch đường bộ lên phía bắc Vạn Tượng.
- Rồi là cả một bài viết dài đọc được trên Internet viết về “Những Biến Chuyển Tại Lào” với đầy bất ổn.
Chuyến đi của tôi tới với con Sông Mẹ / Mae Nam Khong (tên Lào Thái của con sông Mekong) trong bối cảnh chánh trị địa dư như vậy – không qua Guide Tour không với tính cách một du khách. Hành trang đem theo phải kể cả những dữ kiện đầy ắp của cuộc hành trình 2 năm 24 ngày của Đoàn Thám Hiểm Pháp Doudart de Lagrée / Francis Garnier (Mekong Expedition 1866 - 1868) cách đây hơn một thế kỷ.
Từ nước Mỹ ngay sau Lễ Tạ Ơn – Thanksgiving Day, đang là không khí rộn rã chuẩn bị mừng Giáng Sinh và đón mừng năm mới 2001, năm đích thực đầu tiên của Thế Kỷ 21. Một ngày trước chuyến đi, tôi còn nhận được lời khuyên “bảo trọng” của người bạn làm báo am hiểu tình hình xứ Lào.
Thái Lan đang rộn dịp mùa bầu cử. Trong chánh trị người dân Thái phân hóa nhưng lòng tôn kính của họ đối với nhà vua luôn luôn là một. Cả nước Thái đang hân hoan làm lễ mừng sinh nhật thứ 72 của quốc vương Bhumibol. The King’s 72nd Celebration là dòng chữ có thể đọc được trên tất cả thân tàu của các chuyến bay hãng hàng không Hoàng Gia Thái.
Quốc Tự That Luong thủ đô Vạn Tượng biểu trưng chiều dày lịch sử và niềm hãnh diện của người dân Lào
Đài Chiến Thắng Pantouxai và Du Lịch Lào năm 2000.
Tòa Nhà Trắng nhìn từ đường bờ sông Fa Ngum và là dinh Tổng Thống Lào
Sang năm 2000, vẫn còn đó trên đường Fa Ngum cạnh Tòa Nhà Trắng là một Sở Ngân Khố từ thời Pháp nay đã đổ nát
Tới Bangkok lúc 2 giờ sáng, phi trường Don Muang vẫn tất bật nhộn nhịp 24 giờ. Sáng hôm sau bằng chuyến bay Thai Royal International 747 với các cô tiếp viên đẹp mịn như tơ (Smooth As Silk, First Time and Every Time) đi Vạn Tượng. Máy bay đầy ắp du khách, cả những Lào kiều từ Mỹ từ Úc lần đầu tiên về thăm quê hương 25 năm sau. Chỉ một giờ bay để đặt chân tới phi trường quốc tế Wattay khang trang và xinh xắn, mới được Nhật Bản xây xong. Không còn những bảng hiệu tuyên truyền kiểu “Nông Công Binh Đoàn Kết Bảo Vệ Chủ Nghĩa Xã Hội”. Vạn Tượng cuối năm 2000 đã khác xa với những trang sách của Graham Greene trong Người Mỹ Trầm Lặng (1955).
Từ những thập niên 30, để kiện toàn bộ máy thư lại, chánh quyền bảo hộ Pháp đã đưa rất nhiều gia đình công chức Việt Nam sang Lào, đông tới mức (ngoại trừ kinh đô Luang Prabang) số người Việt tại các thành phố lớn như Vạn Tượng, Savanakhet, Xieng Khouang, Pakse đã trở thành đa số. Các bang hội người Hoa là cộng đồng di dân lớn thứ hai.
Thủ đô Vạn Tượng trên đà phát triển nhưng vẫn là một thị trấn nhỏ với những ngôi biệt thự cũ thời Pháp ẩn khuất dưới tàn cây xanh ngày càng ít đi. Sở Ngân Khố cũ trên đường Fa Ngum chỉ còn bốn bức tường vàng với mái đổ nát, rất tương phản không xa đó là Tòa Nhà Trắng uy nghi của chủ tịch nhà nước Lào.
Thư Viện Quốc Gia Vạn Tượng /Bibliothèque Nationale từ thời Pháp và tiếng Pháp vẫn còn đậm dấu ấn trên đất nước Lào
Vang Bóng Một Thời: tòa Đại Sứ Pháp ở Vạn Tượng nay chỉ còn là một biệt thự khiêm cung trên đường Sett hathuat
Vạn Tượng năm 2000 không còn im ngủ, vươn lên từ những tàng cây xanh là các khách sạn sang trọng, những tòa nhà cao tầng
Nhưng từ cái nền phẳng xanh ấy của Vạn Tượng bắt đầu vươn lên những tòa nhà mới cao tầng, các buildings, nổi bật nhất vẫn là các khách sạn 4 sao hàng trăm buồng, nhìn xuống những đường phố tấp nập xe cộ, xe gắn máy Honda, xe Tuk Tuk ba bánh, xe hơi nhỏ và cả những Taxi của công ty Lavi là một liên doanh Lào-Việt.
Tượng đài vua Sisavang Vong uy nghi vẫn còn nguyên vẹn nơi thủ đô Vạn Tượng cho dù chế độ quân chủ Lào đã bị “bức tử”
Vội vã với Đổi Mới, Vạn Tượng từ một thị trấn im ngủ đã như một nàng công chúa choàng thức dậy để đón những hoàng tử đang đổ tới từ Thái Lan.
Tấp nập nhất là khu trung tâm quảng trường Nam Phou (với vòi nước phun chỉ có vào ban đêm) với đủ thành phần du khách thuộc nhiều quốc gia nhưng đông nhất vẫn là Tây ba lô.
Khúc sông Mekong cạn dòng chảy qua Vạn Tượng năm 2000
Cây cầu Hữu Nghị Mỉttaphap 1994 - 2000 vẫn soi bóng trên dòng sông Mekong đang cạn dần; thế hệ Lào năm 2000 trước Ống kính tác giả với dấu hiệu chiến thắng.
Bây giờ mới là giữa tháng Chạp – vừa hết Mùa Mưa, chưa vào cao điểm Mùa Khô (khoảng tháng 4 tháng 5 ) vậy mà khúc sông Mekong chảy qua Vạn Tượng như đã khô cạn với ngổn ngang những cồn và bãi. Bên tả ngạn phía Lào, từ lầu ba khách sạn Lane Xang nhìn xuống chỉ thấy xanh rờn các bãi trồng bắp trồng chuối lan ra tới 1/3 sông trước khi tới được dòng nước như con sông nhỏ, rồi là cả một giồng cát lớn giữa sông ngăn đôi với một dòng chảy khác bên hữu ngạn phía Thái Lan.
Đây đâu phải là hình ảnh đích thực của Con Sông Mekong Dũng Mãnh lớn thứ ba của Châu Á và lớn thứ 11 của thế giới? [như mạch sống của người dân Lào, Cam Bốt cũng như của hàng bao triệu cư dân Việt nơi ĐBSCL].
Nang Ouane, sinh ra và lớn lên ở Vạn Tượng. Chị là người có học hiểu biết, ngoài tiếng Lào tiếng Việt chị còn nói được tiếng Pháp tiếng Anh. Là chuyên viên cao cấp ngành ngân hàng trong số rất hiếm những người Lào học thức còn ở lại sau ngày đội quân Pathet Lao từ các khu hang động Sầm Nứa xuống tiếp thu thủ đô Vạn Tượng. Chị vẫn sống bình dị đời một công chức với tương lai là đàn con 7 đứa trai gái học rất giỏi đã có bốn đi du học ngoại quốc. Đứa con gái lớn của chị tốt nghiệp ngành điện toán ở Úc, nay là người sáng lập mạng lưới Internet phát triển rất nhanh trên đất Lào.
Sáng nay từ nhà trên đường tới sở làm, Ngân Hàng Ngoại Thương cũng trên đường bờ sông Fa Ngum, Nang Ouane vận một chiếc váy dệt theo lối y phục cổ truyền của phụ nữ Lào, chị có một vẻ đẹp hiền thục và giọng nói thật thanh thoát:
- Chỉ mới sáu bảy năm trở lại đây thôi con sông Mekong mới khô cạn đến như vậy. Trước đây khúc sông chảy qua Vạn Tượng lúc nào cũng đầy nước, chỉ có khác là mực nước cao thấp trong Mùa Mưa và Mùa Khô chứ đâu có trơ bờ bãi như bây giờ mà mưa thì vẫn vậy.
Thời điểm chị nói trùng hợp với năm hoàn tất con đập Man wan (1993) cao 35 tầng trên thượng nguồn – con đập đầu tiên công suất 1500 MW trong dự án một chuỗi 14 con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc (chỉ riêng con đập Man wan này cùng thừa đủ để cung cấp điện cho toàn vùng Vân Nam Quế Châu ). Cũng vào năm đó, một hiện tượng được coi là bất thường khi mực nước con sông Mekong đột ngột tụt thấp xuống mà không vào Mùa Khô, chỉ lúc đó thì người ta mới biết là Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào hồ chứa con đập Manwan.
Dòng chảy của con sông Mekong nơi hạ lưu sẽ ra sao khi cả chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam (khởi đầu 7 nay 14) được hoàn tất trong hai thập nhiên đầu của thế kỷ 21. Nước trong các hồ chứa không chỉ để chạy các turbines mà còn được dùng để tưới cho những vùng ruộng đất mênh mông vốn khô cằn của Trung Quốc.
Qua Thong Dien, người tài xế Lào gốc Việt cho biết thêm:
- Em từ vùng giải phóng Xieng Khouang theo gia đình lên sống ở Vạn Tượng từ 1976. Nhà gần sông tụi em thường ngày ra chơi. Em nhớ rõ là hồi đó con sông Mekong rất nhiều nước kể cả Mùa Khô (trong dịp Tết Pimay); còn Mùa Mưa thì khỏi nói con sông nước chảy mạnh là thế nào. Nhưng chỉ có năm bảy năm gần đây thôi khúc sông mới cạn như vậy, bây giờ mới tháng 11 – 12 mà sông đã thiếu nước. Hai mùa mưa nắng thì vẫn thế mà không biết nước chảy đi đâu hết!
Rồi đưa tay chỉ xuống những bãi trồng bắp trồng rau dọc theo con đường Fa Ngum trải dài xuống tới mé sông cạn, Thong Dien tiếp:
- Chỗ ấy trước kia là sông nước chứ đâu có đất mà trồng trọt và cả cất nhà lên như vậy.
Theo tầm tay Thong Dien thì dưới những bụi chuối xanh um còn có ẩn hiện cả mấy túp nhà lá, hắn tiếp:
- Đất phù sa quá tốt nay đem trồng rau trồng bắp hay cả trồng chuối thì cứ gọi là “vô tư”.
Ngữ vựng tiếng Việt của tôi tuy không gọi là giàu nhưng cũng không thể bảo là nghèo nàn, hai chữ “vô tư” theo cách dùng của anh tài xế người Lào gốc Việt này rất mới đối với tôi. Vô tư tự nó có nghĩa tốt, không thiên vị nhưng với Thong Dien thì hẳn phải có một ý nghĩa rất khác. Từ nay với tôi, Thong Dien sẽ có tên là anh tài xế Vô Tư. Người Lào và cả nhà nước Lào hầu như vẫn vô cảm trước hiện tượng một con sông Mekong đang ngày một cạn dòng.
Thời gian ở Lào, tôi chưa hề được nghe một ai nhắc tới những con đập bậc thềm Vân Nam.Không lẽ một khúc sông Mekong cạn kiệt như vậy mà lại là nguồn nước cho Biển Hồ và hai con Sông Tiền Sông Hậu nơi Đồng Bằng Châu Thổ?
Trong trí tưởng tôi hiện ra hình ảnh đối nghịch của khúc Sông Tiền hoành tráng đẫm phù sa mênh mông trải rộng tới hơn 3 km, từ bao thế kỷ vẫn ôm ấp và và không ngừng bồi dưỡng cho hàng trăm cù lao lớn nhỏ như cù lao Rồng, cù lao Phụng, cù lao Quy và cù lao Thới Sơn với rượi mát những khu nhà vườn...
Một mai khi cạn nguồn phù sa và nước ngọt để chỉ còn cường triều nước mặn thì đó sẽ là buổi hoàng hôn của nền Văn Minh Miệt Vườn. và cũng để rồi sẽ có một ngày nào đó – đây đó trên khúc sông Mekong sẽ:
Sông kia giờ đã nên đồng
Bên làm nhà cửa bên trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếc ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò... [Tú Xương]
Những ngày ở Vạn Tượng, buổi sáng sớm mai trời còn mát tôi đã có mặt đi bộ dọc bờ sông Mekong theo con đường Fa Ngum – giống như đường bờ sông Sài Gòn.
Kể từ 1994 khi có cây cầu Mittaphap bắc ngang qua sông Mekong, không còn cảnh huyên náo thuyền bè tấp nập từ Lào với thúng mủng trống trơn trên đường sang bến cảng Nong Khai phía Thái Lan để khi trở về thì chất đầy hàng hóa từ thời kỳ “Đổi Mới”.
Nay chỉ còn thưa thớt trên sông những chiếc thuyền chài nhỏ mà tôi theo dõi từ sáng sớm cho tới khi vào bờ. Để tận mắt thấy từ trên mỗi chiếc ghe, con cá lớn nhất lưới được không hơn một bàn tay, phần còn lại là mớ cá vụn. Không ai có cái xa xỉ thả lại xuống sông những con cá nhỏ ấy để chờ một mẻ lưới lớn hơn ở mai sau (vì đây là nguồn protein trong ngày của một gia đình).
Bác ngư dân già vẻ ẩn nhẫn nói: sông ngày càng cạn và cá thì ít đi. Nước con sông Mekong vẫn còn đỏ phù sa nhưng dòng chảy thật chậm. Không có bên lở bên bồi mà chỉ có những bờ bãi hai bên bờ cứ kéo dài ra. Vậy mà người ta còn đưa xe ủi đất tới đắp cao thêm bờ đê, không lẽ để ngăn cả chút gió mát từ dòng sông đã mất hết vẻ dũng mãnh và đang cạn dần.
Nếu Quốc Tự That Luong như một biểu tượng cho lịch sử nước Lào thì đập Nam Ngum cũng là niềm hãnh diện khác của tiến bộ và phát triển của người dân Lào. Hình đập Nam Ngum được in trên bưu thiếp, con tem, trên đồng bạc 50 kip (sau này không còn lưu hành nữa vì nạn lạm phát phi mã ở Lào).
Là con đập thủy điện đầu tiên được xây dựng và hoàn tất rất sớm ngay giữa những năm giông bão của cuộc Chiến Tranh Việt Nam bằng tiền vay của Ngân Hàng Thế Giới và nhiều nước khác. Mỹ cũng đổ tiền thêm vào giúp Lào sớm hoàn tất con đập để có thêm nguồn điện cung cấp cho căn cứ không quân chiến lược Udon lúc đó đang nhộn nhịp hoạt động ở vùng đông bắc Thái.
Năm 1971, đập Nam Ngum hoàn tất giai đoạn một, đánh dấu một thời điểm lịch sử khi hai vua Lào Savang Vathana và Thái Adubjadej Bhumidol cùng gặp nhau trên một con phà lộng lẫy trăng đầy hoa đèn giữa dòng chính sông Mekong “để cùng bấm nút nhấn, cùng một lúc điện và đôla chảy ngược chiều nhau về hai quốc gia Thái Lào”.
Phải đi suốt 420 Km đường bộ từ Vạn Tượng tới Luang Prabang, vượt hơn 170 Km đường đèo với núi cao và lũng sâu, để thấy tính đa dạng các sắc tộc Lào ( Lao Lum – Kinh, Lao Theung – Thượng, Lao Soung – Núi) và còn thấy được ánh sáng điện từ con đập Nam Ngum vươn xa tới đâu – tới những thôn bản trên các rẻo cao xa xôi hẻo lánh nhất.
Trước khách sạn nổi tiếng Lane Xang bên kia đường Fa Ngum dưới sông vẫn có những chiếc ghe chài
Ở một chừng mực nào đó, với từng bước phát triển hài hòa, cùng lúc quan tâm tới bảo vệ sinh cảnh môi trường, thì không thể phủ nhận được là đập Nam Ngum đã thực sự cải thiện đem lại ánh sáng cuộc sống văn minh tới người dân Lào.
Với người Lào hiểu biết tiến bộ, thấy được tiềm năng tài nguyên thiên nhiên của Lào, họ không muốn kìm hãm đất nước họ mãi dừng lại như “một thứ viện bảo tàng các di tích của thời kỳ đồ đá đồ đồng” để mua vui cho du khách.
Hồ chứa đập Nam Ngum trải rộng trên một diện tích hơn 250 km2 (lớn hơn 1/ 3 toàn diện tích đảo quốc Singapore), như một thắng cảnh thiên nhiên có vẻ đẹp hùng vĩ với cảnh trí núi non và hàng trăm những hòn đảo lớn nhỏ, tuy không còn thú lớn nhưng vẫn là nơi trú ngụ của khỉ, chút, các loài chim và rắn nước.
Còn phải kể tới một cảnh trí lạ mắt khác là vô số những ngọn cây cao hơn 50 mét tua tủa vươn lên khỏi mặt nước do rừng cây chưa kịp khai quang đã bị dìm sâu dưới đáy hồ. Cây không chỉ làm rách lưới ngư dân nhưng còn có thể làm vỡ thuyền bè đụng phải khi di chuyển trên mặt hồ.
Các tay lái gỗ Thái không chỉ phá những khu rừng mưa ở Lào mà còn thuê toán người nhái với cưa máy tiếp tục khai thác những cây gỗ quý còn lại dưới hồ. Đám thợ lặn kể lại rằng họ còn bắt gặp những chiếc xe bò và khung nhà của dân làng Na Bon phải bỏ lại khi thác nước đổ ập vào thôn bản của họ. Do làm bằng gỗ tốt nên những nông cụ ấy sẽ còn đó cả trăm năm nhưng mỗi ngày một dìm sâu trong lớp chất lắng từ núi và đảo không ngừng đổ xuống mỗi năm và đang làm cạn hồ.
Đập Nam Ngum năm 2000 - nguyên là con đập thủy điện đầu tiên của nước Lào, tấm biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào
Những mớ cá lưới được từ hồ con đập Nam Ngum 2000
Nam Ngum trở thành tụ điểm du lịch hấp dẫn với các quán ăn, với thuyền máy du ngoạn trên hồ. Nơi bờ hồ phía nam, nhóm doanh nhân Mã Lai có kế hoạch đầu tư mở khách sạn 4 sao Dan Savanh Nam Ngum Resort 200 buồng, với bãi tắm, sân golf và cả Sòng-Bài-Sinh-Thái / Eco-Casino _ thêm một hình thức đĩ điếm hóa / prostitution từ “sinh thái” của đám con buôn. Không phải là vô lý khi gặp một giáo sư đại học Stanford đang viếng thăm Lào đã có nhận xét và phát biểu: – Đến một lúc nào đó người dân Lào trở thành “công dân hạng hai – second class citizen ” ngay trên đất nước họ.
Cá trong hồ là nguồn lợi tức cho ngót 4 ngàn ngư dân quanh vùng với lượng cá đánh được trước đây lên tới 850 ngàn tấn mỗi năm nhưng cá ngày càng ít đi do lối đánh cá “lùng và diệt” bất kể cá lớn nhỏ với lưới, súng hơi và cả điện xoẹt.
Cá trong đập Nam Ngum ngày càng ít đi, người ta bắt đầu trồng chuối trên các đảo. Buổi sáng mai,khi có những chiếc ghe ra hồ đánh cá,thì vài chiếc ghe khác chở chuối từ ngoài đảo vào bờ
Cũng vẫn là con sông Nam Ngum /một phụ lưu của sông Mekong /nhưng là phía dưới con đập; con sông như một động mạch bị kẹp, cá không thể lội ngược về nguồn
Để bù lại, người ta bắt đầu trồng thêm chuối trên các đảo: những trái chuối ngự vàng óng thơm ngon bán rẻ cho khách không phải từng nải mà là từng buồng. Buổi sáng khi ghe chài ra hồ cũng là lúc mấy chiếc ghe khác từ ngoài đảo đưa chuối vào bờ.
Cũng chẳng thể ngờ rằng ngay từ 1975 người Cộng Sản Lào đã có “vận dụng sáng tạo” là dùng hai đảo lớn giữa biển hồ để biến thành “trại lao cải – reeducation camp” cho những thành phần xã hội mà họ gọi là “cặn bã của tư bản” bao gồm gái điếm, trộm cắp, thiếu niên du đãng... có lẫn tù chánh trị hay không trong đám tù hình sự đó thì chỉ có chính nạn nhân mới tự biết.
Ngồi trên chiếc tàu sắt thô sơ chạy bằng máy dầu cặn, vỏ tàu sắt thì vẫn an toàn hơn tàu gỗ khi chọn đi vào vùng hồ còn tua tủa những ngọn cây gỗ trắc _ cứ như trận địa Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán thuở nào.
Tenoi Laxami là tài công cũng là chủ tàu, vẻ hiền lành như mọi người dân Lào. Tuổi chỉ mới ngoài 30, khi các kỹ sư Nhật Bản bắt đầu tới khảo sát khu xây đập Nam Ngum thì Laxami chưa chào đời. Anh không phải gốc dân làng Na Bon nên không biết những thôn bản nằm dưới đáy sâu hồ ra sao nhưng cảnh quan của đập Nam Ngum ngày nay thì lại quá thân thuộc với anh từ tấm bé.
Với số câu tiếng Lào mới học chỉ đủ cho xã giao du lịch nhưng tôi có thêm được Thong Dien, tài xế người Lào gốc Việt đã rất hoạt bát thông dịch. Vượt được hàng rào ngôn ngữ rồi thì tôi cũng có nhiều điều để giúp Laxami và Thong Dien hiểu thêm về lịch sử những giai đoạn hình thành con đập Nam Ngum.
Buổi sáng 9 giờ, trên mặt hồ phía tây vẫn phủ dầy một lớp sương mù. Giờ này thì Tây Ba lô – những con cò ăn đêm ấy, chắc còn đang ngủ. Quán Nam Ngum cũng mới mở cửa. Sabai dee! Mấy cô gái Lào tóc đen láy búi cao trên chiếc cổ trắng ngần cũng mới tới quán và bắt đầu bắc nước sôi lên bếp.
Thong Dien kêu ly “cà phê sữa nóng – kafeh hawn”, riêng tôi thì kêu ly “kafeh dam baw sai nâm tan – cà phê đen không đường”. Bánh mì baguette, cà phê sữa do người Pháp du nhập nay trở thành rất phổ biến và được mọi người dân cả ba nước Đông Dương ưa chuộng.
Một nhà thủy tạ trắng 2 tầng vươn lên giữa hồ, nơi để du khách có tầm nhìn toàn cảnh con đập và đứng chụp hình. Laxami nói:
- Nhà thủy tạ ấy vốn cao 3 tầng nhưng nay chỉ còn 2 do mực nước hồ dâng cao, chỉ mới đây thôi.
Tôi chợt hiểu rằng từ 1971, sau ngót 30 năm một phần hồ bị chất lắng từ núi đổ xuống làm cho cạn, cộng thêm với kế hoạch tăng công suất đập thủy điện Nam Ngum từ 30 tới 150 MW nên mực nước trong hồ dâng cao hơn.
Thấp thoáng từ xa là những chiếc ghe chài. Họ ra hồ từ sáng sớm. Laxami nói:
- Số cá đánh được ngày càng ít đi. Cách đây mấy năm, công chúa Thái Lan Maha Chakri Sirindhorn có tới đây làm lễ thả xuống hồ hơn một trăm con cá Pla Beuk (loại catfish khổng lồ hiếm quý của sông Mekong, được các nhà ngư học Thái gây giống nhân tạo) nhưng cho tới nay chưa ngư dân Lào nào lưới được một con cá Pla Beuk trong hồ.
Là loại cá của sông sâu với dòng chảy, mỗi năm vượt hàng ngàn dặm lên thượng nguồn để đẻ trứng, nay đem thả trong hồ liệu có bao nhiêu con cá Pla Beuk trong số đó còn sống sót?
Tàu chậm lại để tiến gần tới một ghe nhỏ của cặp vợ chồng ngư dân già. Mươi con cá mỏng manh bằng lòng bàn tay mới lưới được nằm phơi bụng trong lòng thuyền. Laxami bảo nếu đem mớ cá ấy ra chợ bán cũng được 7000 kip – chưa tới một đôla nhưng đủ cho hai vợ chồng sống qua ngày với bữa ăn chủ yếu là một trõ xôi nếp với muối ớt đâm Padaek.
- Nghe nói mấy tháng nữa nhà nước ra luật cấm đánh cá bằng lưới mắt nhỏ và điện xoẹt để bảo về nguồn cá trong hồ.
Ra luật và thi hành vẫn còn là một khoảng cách đại dương trên xứ Lào (cấm thuốc phiện, cấm phá rừng, bảo vệ nguồn cá...).
Với Laxami thì cái gì thuộc hồ Nam Ngum cũng có một lịch sử một giai thoại. Chỉ dãy núi xanh sẫm chạy dài bên hữu ngạn, Laxami nói:
- Đó là Pu Mụt - núi tối, do núi luôn luôn có màu tối sẫm cho dù ngày nắng, đó như trạm dự báo thời tiết cho ngư dân đi hồ: mưa gió hay bão táp bao giờ cũng đến trước với rặng núi tối, tới trước rất lâu trước khi lan ra khắp mặt hồ.
Laxami tiếp:
- Ngày gió lớn, sóng trên hồ cao tới hơn 1 mét đủ để lật ghe thuyền nhỏ, đã có một ngư nhân gốc Việt, ông Trần cách đây ít lâu bị lật ghe chết mất vợ và con, sau đó ông ta bỏ nghề về sống ở Vạn Tượng nhưng thỉnh thoảng vẫn trở lại thăm.
Rời dãy núi tối, con tàu đi qua những đảo lớn nhỏ với những những cái tên thơ mộng khác: Pu Padang Nang Non / cô gái đang ngủ, Pu Kao Nang / núi chín cô, Pu Eng / rặng núi cong và Pu Huot / núi trõ xôi...
Nhà khách Xantiphap – Hòa Bình, là một khu nhà gỗ trên đảo dành cho khách du lịch có thú quạnh hiu chọn qua đêm giữa cái mênh mông của biển hồ.
Laxami đã không tìm được một cái tên tượng hình thơ mộng nào cho hai hòn đảo có trại cải tạo: Đỏn Thao (đảo chàng) và Đỏn Nang (đảo nàng) – như một thứ ổ tội ác - Lao Sodom, với cả đồn công an trên đó.
- Nghe nói trên đó có giam cả viên chức ngụy?
Lớn lên từ Vùng giải phóng Cánh Đồng Chum, cách mạng và ngụy là từ ngữ quen thuộc củaThong Dien. Laxami trả lời thật đôn hậu:
- Ngụy hay không nhưng đã là người tốt thì giống nhau!
Một dân tộc Lào nổi tiếng hiền lành như vậy mà đã dứt chế độ quân chủ của họ với vua, hoàng hậu và hoàng thái tử đều chết trong trại cải tạo nơi vùng hang động Sầm Nứa.
Trở lại với con đập Nam Ngum, đã 30 năm rồi, người dân nghĩ sao về con đập?
Laxami phát biểu giản dị và công bằng:
- Chẳng thể nào vui được nếu là dân làng Na Bon mất hết nhà cửa ruộng vườn quê cha đất tổ của họ. Nhưng nói chung dân trong vùng được hưởng tiện nghi có điện, hồ có cá, thêm lợi tức do du khách đem tới và hàng ngày gặp gỡ, chúng tôi cũng được tiếp xúc với tiến bộ và văn minh.
Nhưng rồi Laxami hiểu rằng đến một ngày nào đó hồ Nam Ngum cũng sẽ bị cạn vì đất núi đổ xuống. Anh cũng không dấu được vẻ lo sợ khi kể lại là:
- Các ông già bà cả thì còn sợ rằng làm con đập như vậy là xúc phạm tới thần linh [phi] có thể bị trừng phạt.
Laxami muốn nói tới một trận động đất với cả cơn hồng thủy sẽ cuốn trôi hết làng mạc và dân cư trong vùng.
Tin hay không tin ở thần linh thì “động đất do hồ chứa – reservoir triggered seismicity ” cũng không phải là không có cơ sở khoa học.
Nguồn: Tác giả - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 23 tháng 8 năm 2016