MƯỜNG LUÔNG KHU DI SẢN THẾ GIỚI Tháp núi ẩn màn sương
Chuông chiều ngân trong gió
Tháp núi ẩn màn sương
Lầu vua thu bóng nhỏ
Chùa bụt lạnh hơi sương (Vân Đài 1942)
Cho dù đã được UNESCO chọn là Khu Di Sản Thế Giới nhưng cố đô Luang Prabang [Mường Luông] lại đang có những đổi thay thật mau chóng. Nhà khách, quán ăn mọc khắp nơi, thực đơn luôn luôn có phần tiếng Anh và không làm ai ngạc nhiên khi một quán ăn bình dân khác có cả thực đơn tiếng Do Thái. Trở lại thăm Hoàng Cung vẫn trên con đường Phothisarat, nay đã trở thành Viện Bảo Tàng Quốc Gia nhưng bên trong thì ngày càng trống trải. Nhiều kỷ vật của các nguyên thủ quốc gia tặng nhà vua như khẩu súng săn với báng nạm ngọc của Leonid Brezhnev, bộ đồ trà của Mao Trạch Đông... vốn được trưng bày nơi phòng khách thì nay đã biến mất, hỏi nhân viên hướng dẫn thì không có câu trả lời ngoài một nụ cười hiền. Chỉ có bức tranh tường (mural ) của họa sĩ Pháp Alex de Fautereau với chủ đề “Một Ngày Luang Prabang” nơi Phòng Khách Sứ Thần chẳng thể gỡ đi đem bán thì vẫn nguyên vẹn.
Có thêm mấy chiếc Trống Đồng tuổi từ 600 tới 1000 năm tìm thấy được ở Bắc Lào. Giữa mặt trống đồng là hình mặt trời tỏa sáng, trang trí vòng quanh là các hình cá, hoa và chim. Hình trạm nổi những con ếch bên rìa trống đồng tượng trưng cho Mùa Mưa. Tất cả những hình ảnh ấy kết hợp hài hòa như biểu tượng cho “sự sống, đất đai màu mỡ và sự phồn vinh ”.
Hoàng Cung Luang Prabang nay trở thành Viện Bảo Tàng Quốc Gia
Khúc sông Mekong cạn Pak Ou, nơi gần cửa sông Ou một phụ lưu của con sông MeKong
Không xa Hoàng Cung về phía bắc trên đường bờ sông Manthatoulat là con sông Mekong tuy chưa phải Mùa Khô mà đã co thắt lại như một con sông nhỏ. Các vườn rau nơi mé sông ngày một mở rộng và mực nước thì cứ lùi dần. “Sự sống, đất đai màu mỡ và sự phồn vinh” ấy rồi ra sẽ trở thành quá khứ chỉ có trên mặt trống đồng. Không có ai thắc mắc về hiện tượng con sông đang cạn dòng ấy. Nhưng tôi thì hiểu rằng chỉ cách đó vài trăm cây số về phía bắc mấy con đập bậc thềm Mạn Loan [Manwan], Đại Chiếu Sơn [Dachaosan], Cảnh Hồng [Jinghong] và sắp tới là con đập mẹ Xiaowan... trong chuỗi 8 con đập khổng lồ Vân Nam đã bắt đầu ảnh hưởng làm tụt thấp mực nước của con sông Mekong và ngăn chặn phù sa xuống hạ nguồn.
Con sông Mekong đẫm phù sa vốn là tặng dữ của thiên nhiên từ bao ngàn năm thì nay đang nhợt nhạt dần.
TỪ TÂY BA LÔ TỚI HENRI MOUHOT (1826 – 1861)Henri Mouhot là một cái tên gần như xa lạ với đa số cư dân Lào bây giờ. Cho dù là người Pháp đầu tiên tới kinh đô Luang Prabang nhưng tên tuổi Mouhot lại được biết đến như người tái phát hiện khu đền đài Angkor.
Tuy không phải là người Tây Phương đầu tiên tới Angkor, nhưng do những trang bút ký hấp dẫn và lôi cuốn được in ra ba năm sau khi ông chết, khiến tên tuổi Mouhot gắn liền với khu đền đài Angkor. Mouhot cũng là nguồn cảm hứng cho văn nghệ sĩ sáng tác thời đó, điển hình là sự ra đời của các tác phẩm như The Governess of the King and I của Anna Leonowens 1870.
Gốc người Pháp nhưng Mouhot đã gặp phải sự thờ ơ của đồng hương. Ông đã phải quay sang nhờ tới người Anh. Là nhà thám hiểm và đồng thời cũng là nhà sinh học, Mouhot vừa đi vừa tìm kiếm các loài côn trùng hiếm. Tháng 12 năm 1860, Mouhot quyết định khởi hành từ Bangkok để lại sang Lào, băng qua vùng đông bắc Thái, đi qua những bộ lạc, những vương quốc của Vua Lửa thuộc các tỉnh Korat, Loei bây giờ, nơi chưa hề có dấu chân người Tây Phương nào.
Những đứa trẻ từ vùng bắc Thái sang tới Lào đã mau chóng trở nên thân thuộc với một ông Tây râu đỏ và con chó Tin Tin luôn luôn theo cùng. Bọn chúng đã biết kiếm bắt côn trùng nộp cho ông để đổi lấy chiếc vòng đồng hay thuốc lá và Mouhot nhận xét là “lũ trẻ ấy dường như đã biết hút thuốc khi khi mới rời vú mẹ.”
Phải hơn 7 tháng trời lặn lội để từ Bangkok tới kinh đô Luang Prabang là một thị trấn quyến rũ như Genève và tại đây Mouhot được vua Tiantha tiếp đón trọng hậu.
“Sau 10 ngày chờ đợi cuối cùng tôi được diện kiến nhà vua với nghi lễ long trọng. Phòng tiếp tân được trang trí như một ngày lễ hội lớn với màu sắc sặc sỡ. Nơi sảnh đường nhà vua nhàn nhã ngả mình trên một chiếc pan với bên mặt là 4 vệ sĩ cầm gươm quỳ hầu, phía sau là các hoàng thân tất cả đều rạp mình phủ phục và phía sau xa hơn nữa là các quan triều đình xoay lung ra ngoài và úp mặt xuống nền đất.”
Từ Luang Prabang như trạm xuất phát, Mouhot đã thực hiện nhiều chuyến thám hiểm khảo sát ra các vùng rừng núi xa nhưng rồi chì 3 tháng sau ông bị cơn sốt rừng / forest fever - có lẽ là cơn sốt rét ác tính và chết ở cái tuổi mới 35 với dòng chữ cuối cùng trên trang bút ký: “Thương cho tôi, Chúa ôi...” Xác Mouhot được vùi nông bên bờ sông Nam Khan, một phụ lưu của con sông Mekong với con chó Tin Tin vẫn tru lên nằm bên mộ chủ.
Phải sáu năm sau (1867) khi Đoàn Thám Hiểm Pháp tới Luang Prabang, họ mới tìm ra nơi chôn và Doudart de Lagrée với tư cách trưởng đoàn đã xây cho Mouhot ngôi mộ khang trang dầu tiên.
Ban Pha Nom cách cố đô Luang Prabang 5 Km về hướng đông, với hơn 100 nóc gia thuộc sắc tộc Lu gốc từ Vân Nam, nổi tiếng về nghề dệt thủ công dùng để tiến vua.
Bằng một con đường đất bốc mù bụi đỏ rất khó đi lại đang từng khúc bị cắt sửa nên xe phải chạy đường vòng. Theo sách hướng dẫn thì tấm bảng chỉ đường cũng đã bị gỡ mất và cuối cùng phải nhờ tới hai em nhỏ trong bản Phanom mới tìm ra ngôi mộ Mouhot khuất lất dưới những tàn cây um tùm.
Khó mà tưởng tượng rằng cách đây ngót 140 năm trong cảnh hoang sơ của rừng rậm, bên dòng sông chảy xiết, nỗi hiu quạnh và can trường của Mouhot phải lớn lao đến là thế nào.
Ngôi mộ sơn trắng vuông vức bắt đầu ngả sang màu rêu phong, còn gắn 2 tấm bia đá đen cổ đã sứt mẻ từ hơn một thế kỷ trước:
Henri Mouhot 1826 – 1861.
Doudart de Lagrée fit élever ce Tombeau en 1867
Pavie le reconstrusit en 1887
(Doudart de Lagrée xây ngôi mộ này năm 1867 và được Auguste Pavie lãnh sự Pháp ở Luang Prabang trùng tu năm 1887).
Ở lần trùng tu cuối cùng năm 1990, ngôi mộ lại được gắn thêm một bảng lưu niệm bằng đá trắng gửi từ Montbéliard quê hương nơi sinh của Mouhot với dòng chữ khắc thật đơn giản nhưng ý nghĩa:
“La ville de Montbéliard fière de son enfant 1990”.
(Montbéliard hãnh diện về đứa con của mình 1990)
Mouhot biểu hiện cho thế hệ thanh niên Pháp tuổi trẻ rạng rỡ học thức sống giữa thế kỷ 19 - thế kỷ của chịu đựng và khắc kỷ đã như người lính tiền trạm trước khi Pháp áp đặt nền bảo hộ trên cả ba nước Đông Dương.
Theo bước chân Mouhot ngót 140 năm sau, là tấp nập những Tây Ba lô cũng từ Thái đổ tới Lào, không phải đi tìm các loài côn trùng hiếm mà là chất nhựa đặc quánh ứa ra từ nhữngtrái cây thuốc phiện. Không ít người người tới Lào và đã không bao giờ trở về.
HANG PHẬT PAK OUChỉ mới đây thôi khi chưa có con đường bộ người ta phải đi thuyền máy với hơn 2 giờ đường sông từ Luang Prabang ngược dòng Mekong để tới bản Pak Ou. Pak Ou hay “cửa sông Ou” nơi con sông Nam Ou nước trong xanh không có phù sa đổ vào con sông Mekong. Bên kia sông là một ngọn núi đá cao đứng sừng sững. Phải bằng chuyến đò ngang để qua sông.
Với giúp đỡ ngân sách của Thụy Điển, nay khách đã có thể tới Pak Ou bằng đường bộ, qua bản Shang Hay – rất nổi tiếng về làm chum và cất rượu gạo, để tới bản Pak Ou êm đềm nằm bên tả ngạn sông Mekong.
Nhờ các em nhỏ trong Ban Phanom đi chân đất dẫn đường, tác giả mới tìm ra được ngôi mộ Mouhot, bên bờ sông Nam Khan khuất lấp dưới những lùm cây um tùm.
Henri Mouhot chết vì sốt rét, xác vùi nông bên bờ sông Nam Khan, một phụ lưu sông Mekong gần Luang Prabang. Ngôi mộ được Đoàn Thám Hiểm Pháp xây năm 1867 và trùng tu năm 1990 với thêm tấm bia từ Montbéliard nơi sinh của Mouhot, với dòng chử đơn giản và ý nghĩa: “Montbéliard hãnh diện về đứa con của mình”
Pak Ou Caves là tên chỉ chung hai hang Phật: Tam Ting (Hang Dưới) và Tam Phum (Hang Trên).
Chẳng thể ngờ rằng nơi ấy có những hang đá lớn chứa cả hơn 4000 tượng Phật cổ từ hơn 300 năm trước với đủ kích thước và hình dạng mà như một kỳ công dân Lào phải ban đêm chèo thuyền trốn giặc để đi giấu Phật khi kinh đô Luang Prabang bị ngoại xâm.
Khác Giao Hưởng Tĩnh Lặng của con sông Mekong, nhìn từ Hang Phật Pak Ou
“Ký họa đầu tiên về Hang Phật Pak Ou cũng đã được tìm thấy trong tường trình về cuộc thám hiểm sông Mekong 1865- 1867 của Françis Garnier”.
Khi còn thể chế quân chủ, theo truyền thống hàng năm nhà vua đều tới thăm hang Phật vào ngày tết Pimay và ở qua đêm trong một ngôi chùa hoàng gia nơi bản Pak Ou. Dân chúng cũng tấp nập dùng ghe thuyền từ Luang Prabang ngược dòng Mae Nam Không tới hang Pak Ou hành hương, với nghi thức dùng nước hoa thơm tắm Phật. Thêm hơn 200 bậc thềm để tới được hang trên, cảm giác như bước vào một thế giới khác. Trong ánh sáng chạng vạng, không gian tĩnh lặng ẩm mát thoảng mùi rêu mốc và thời gian như ngừng lại. Từ bên trong nhìn ra ngoài cửa hang là hàng dãy những tượng Phật bao phủ bụi thời gian, cả bị sứt mẻ nhưng không suy xuyển vẫn là nụ cười an tĩnh của Đức Phật lan tỏa xuống con sông Mekong còn đẫm phù sa như cũng đang cạn dần.
Hang Pak Ou nổi tiếng là linh thiêng để dâng lời cầu nguyện. “Không phải Phật tử nhưng tôi cũng đã thắp nén nhang và có bó hoa tươi cúng Phật với lời khấn nguyện cho con sông Mekong cứ mãi nguyên vẹn, vẫn mãi là mạch sống của cư dân bảy quốc gia sống hai bên bờ con sông ấy...”
Nhưng chỉ vừa bước ra cửa hang, nhìn ngấn nước trên vách đá đã tụt xuống thật thấp thì tôi chợt hiểu rằng lời cầu nguyện ấy đã như một “giấc-mơ-không-thể-được”.
Những bãi cát trồi lên sớm hơn, người dân quanh vùng kéo nhau tới đây sớm hơn để đãi vàng.
MỘT THOÁNG THÁI LAN / BÊN KIA CẦU MITTAPHAPCây cầu do Úc hoàn tất 1994 như cánh cửa mở ra để Lào tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Từ Thái Lan qua cầu, du khách có thể đóng dấu nhập cảnh khi tới giống như tại phi trường quốc tế Wattay. Nơi đầu cầu có trạm đổi tiền, bưu điện và cửa hàng bách hóa sang trọng miễn thuế dành cho du khách. Giai thoại về một hệ thống cửa hàng bách hóa “free duty shop ” theo tiêu chuẩn quốc tế do Singapore thiết kế nơi các cửa khẩu trên toàn xứ Lào, mà chủ nhân triệu phú đô la xuất thân nghề buôn vàng lại là một phụ nữ Lào gốc Việt rất đơn sơ hiện sống ở Paksé.
Từ trên cầu nhìn xuống dòng chảy để thấy suốt chiều dài 4661 Km của dòng sông từ Tây Tạng ra tới Biển Đông, với cả chiều dày lịch sử, đã và đang soi bóng bao nền văn minh, có cả Văn Minh Miệt Vườn trên một vùng đất mới chưa đầy 300 tuổi đã lại đứng trước nguy cơ tiêu vong.
Bên kia cầu là Nong Khai một thị trấn nhỏ nằm phía cực bắc cao nguyên Isan – nguyên là cả một vùng đất rộng lớn mênh mông và khô hạn nhưng lại được bao quanh bởi con sông Mekong – một biên giới tưởng như là thiên nhiên nhưng thật ra là do thực dân Pháp Anh toa rập cắt một phần lớn đất Lào sát nhập vào Thái từ 1941. Cư dân Isan đa số là người Lào chiếm 1/3 dân số Thái – nói cùng ngôn ngữ (cũng dễ hiểu vì sao các chương trình truyền hình Thái là phần giải trí và cả thông tin thường ngày của các gia đình khá giả bên Lào). Phải kể tới số không ít những người Việt tản cư sinh sống lâu năm ở đây từ những thập niên 40 – 50 khi cuộc kháng chiến chống Pháp lan rộng ra cả ba nước Đông Dương.
Cho tới những năm 60, cao nguyên Isan vẫn còn là vùng đất nghèo nàn. Để đáp ứng với cường độ Chiến Tranh Việt Nam gia tăng và cũng để ngăn chặn xâm nhập của cộng sản vào đất Thái, Mỹ đã ồ ạt đổ tiền vào phát triển Isan, mở mang hệ thống xa lộ tối tân, xây 4 phi trường quân sự chiến lược, nơi xuất phát các đoàn máy bay phản lực oanh kích Bắc Việt và cả những đoàn cấp cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi. Mỹ cũng tích cực giúp Thái xây các con đập thủy điện trên phụ lưu sông Mekong điển hình là hai con đập Nam Pong và Nam Pung, nhằm điện khí hóa nông thôn, cải thiện hệ thống tiêu tưới khiến mức nông sản gia tăng vượt mức.
Như từ bao giờ, Nong Khai vẫn là cửa ngõ đi vào xứ Lào nhưng hương vị của một thị trấn tỉnh nhỏ bên sông ngày nay không còn nữa từ ngày có cây cầu Mittaphap. Đây là nơi du khách đổ tới bằng đường bộ dừng chân trước khi vượt sông qua Lào.
Các nhà khách tiện nghi, khách sạn 4 sao mọc lên, có cả Holidays Inn Mekong Royal trên đường Jomanee cao 8 từng với 200 buồng lộng lẫy nhìn ra con sông Mekong.
Nong Khai đang vào giữa mùa bầu cử, trên đường phố tràn ngập Posters với khẩu hiệu của các ứng viên vận động tranh ghế. Bác tài xế taxi người Thái có ánh mắt lúc nào cũng như đang cười, giọng hiền lành:
- Chúng tôi sẽ bầu cho ứng viên nào giàu nhất, vì họ chỉ cần danh chẳng cần tiền nên sẽ không có tham nhũng. Không biết tự bao giờ người dân Thái đã thấm nhuần chủ nghĩa thực tiễn kiểu Mỹ. Đó cũng là lý do tại sao đảng Người Thái Yêu Thái của nhà tỉ phú Thaksin Shinawatra có triển vọng thắng phiếu dễ dàng để tiến tới lập nội các mới. Học vấn của Thaksin cũng là điều đáng nói: tốt nghiệp tiến sĩ Đại Học Houston Texas trở thành người giàu có nhất Thái vì kinh doanh thành công trong ngành điện toán, được báo chí Mỹ mệnh danh là “ông trùm kỹ thuật cao / high-tech mogul”.
Thaksin biểu tượng cho thế hệ lãnh đạo mới tại các quốc gia đang phát triển trên đà toàn cầu hóa / globalization theo cái nghĩa Mỹ hóa / Americanization: biểu hiện rõ nét là nguyên thủ các quốc gia như Đài Loan, Chile, Mễ Tây Cơ và sắp tới là Thái Lan, Phi Luật Tân... đều được đào tạo và có học vị tiến sĩ từ Mỹ.
Thái Lan là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không bị ách đô hộ của thực dân Anh Pháp vào thế kỷ 19, lại thoát khỏi nửa thế kỷ chiến tranh, được hưởng lợi từ cuộc chiến tranh Việt Nam, và còn tiếp tục được hưởng lợi sau cuộc chiến ấy do dịch vụ cung cấp gạo thực phẩm rau trái cho hai triệu người Việt hải ngoại, phải nói rằng thập niên 80 là thời kỳ kinh tế phát triển huy hoàng nhất của Thái.
Như từ bao giờ, người dân quê Thái chỉ lại được nhớ và nhắc tới trong mùa bầu cử. Mỗi lá phiếu đều có giá tính theo đồng baht – bản vị tiền tệ Thái. Mua chuộc không xong thì có giải pháp bạo lực. Tham nhũng và bạo lực luôn luôn là bộ đôi nguy hiểm – Dangerous Duo trên sân khấu chánh trị Thái. Câu nói của một giáo sư Chánh Trị Học Đại Học Thammasat phản ánh điều ấy:
- Tại sao lại phải tiêu hơn 30 triệu baht (hơn nửa triệu đô la) để mua một ông xã trưởng trong khi chỉ cần 1/10 số tiền ấy thuê một tay súng là xong?
Cũng để trấn an người dân đi bầu, viên Tướng tổng tư lệnh quân đội Thái đã hứa là “sẽ không có đảo chánh cho dù kết quả cuộc bầu cử ra sao.” [Sic] Nhưng nếu cần phải đổi ý thì cũng là quyền của ông Tướng ấy.
Cuộc binh biến 1932, đã như một khúc rẽ trong sinh hoạt chánh trị Thái, đã chấm dứt vương quyền độc tôn, chuyển qua chế độ quân chủ lập hiến giống như Anh Quốc, vua và hoàng gia chỉ có vai trò lễ nghi. Nhưng đến đời Bhumibol thì tình hình đổi khác, nhà vua trở thành một trọng tài được kính trọng bởi mọi phía như một “mẫu số chung” nối kết lòng người và đứng trên mọi tranh chấp.
Khi mà nhà vua là yếu tố để đoàn kết và ổn định xã hội Thái trong hơn nửa thế kỷ, thì một câu hỏi lớn được nêu ra là sau Bhumibol liệu ai là người có thể thay thế nối ngôi trong khi hoàng thái tử thì hoang đàng chỉ là một phó bản mờ nhạt của phụ thân. Đây đang là mối ưu tư của mỗi người dân Thái khi biết nhà vua năm nay đã cũng đã 72 tuổi rồi và người ta đang nghĩ tới công chúa Chakri Sirindhorn có cơ trở thành nữ hoàng đầu tiên trong lịch sử đầy biến động của Thái Lan bước sang thế kỷ 21.
Đặt chân tới thị trấn biên thùy này, tôi không có nhiều mối bận tâm về chánh trị của xứ Thái. Tôi đến một quán ven sông và đang muốn tìm tới sự yên tĩnh của dòng sông Mekong. Tôi cũng đang nghĩ tới mấy con cá Pla Beuk – Pangasianodon gigas, giống cá bông lau khổng lồ nặng hơn 300 kg, nay còn hay mất nơi khúc sông dưới chân cầu Mittaphap.
Pla Beuk thì có đó cả bao ngàn năm rồi chứ đâu có phải chờ tới năm 1930, mới có con cá Pla Beuk đầu xuất hiện trên sách báo Tây phương. Và sớm hơn trước đó cả nửa thế kỷ James McCarthy (1881 – 1893) nhà thám hiểm Anh trong cuốn sách Surveying and Exploring in Siam đã có ghi nhận về cá Pla Beuk với nhiều chi tiết khi ông: “giúp ngư dân kéo con cá Pla Beuk nặng 130 cân Anh dài 7 bộ vòng thân 4.2 bộ, là loại cá không vẩy không răng...” McCarthy còn đề cập tới cả trứng cá Pla Beuk giống như trứng cá tầm caviar [sturgeon] rất ngon và hiếm quý từng được các vua Lào dùng như phẩm vật triều cống triều đình Huế hay Bangkok.
Vào thăm chợ Nong Khai, chủ yếu để thăm những mớ cá còn lưới được từ con sông Mekong. Không khác bao nhiêu với những ngôi chợ Việt Nam, đầy màu sắc với hoa trái vùng nhiệt đới. Chưa bao giờ tôi thấy me dốt lại có thể nhiều đến như vậy với những sọt những thúng chất thành vồng trên các xạp. Bạn hàng trong chợ không ít là người Việt nhưng họ tránh nói tiếng Việt. Lý do là dân Thái không mấy ưa người Việt mà họ coi như là cội nguồn bất an do có liên hệ tới các hoạt động của đảng Cộng Sản Thái trước đây [CPT – Communist Party of Thai ]. Các nhà cách mạng Việt Nam như chí sĩ Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh khi bị thực dân Pháp lùng bắt cũng đã có một thời gian từng bôn ba sống và hoạt động trên lãnh thổ Thái.
VIỆT KIỀU TRÊN ĐẤT THÁITheo Hoàng Văn Hoan, “Giọt Nước Trong Biển Cả” thì vào giữa thập niên 40, khởi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, số người Việt ở Thái, đa số từ Lào tản cư sang đã lên tới cả 100 ngàn. Ban đầu do có thiện cảm với cách mạng Việt Nam, người Thái và chánh phủ Thái không những chấp nhận sự có mặt đông đảo của cộng đồng người Việt, họ còn tận tình giúp đỡ. Đất Thái trở thành hậu phương an toàn và địa bàn hoạt động của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cuộc sống tuy tha hương nhưng lại thuận lợi tới nỗi chính những người Việt ấy như quên là mình đang sống trên đất khách quê người. Tới mức họ trở thành chủ quan và cao ngạo, sống phô trương lộ liễu chẳng quan tâm gì tới tập quán phong tục của người Thái. Họ mở Nông Trường lấy tên Việt Nam, luôn luôn rầm rộ tổ chức những ngày lễ hội với cờ xí treo khắp nơi,với cả bộ đội Việt kiều mang súng nghênh ngang đi khắp đường phố...
Và hiển nhiên cái gì phải tới đã tới: từ thập niên 50 không phải chỉ người dân Thái địa phương than phiền mà cả báo chí Thái Lan của chánh quyền mới hữu khuynh cũng khởi đầu một chiến dịch chống đối người Việt.
Từ thiện cảm giúp đỡ, đã lại chuyển sang tình cảm thù nghịch. Và hậu quả là Việt kiều ở Thái tuy không bị cưỡng bách hồi hương nhưng họ bị kỳ thị, bị cấm di chuyển ra khỏi nơi đang cư trú. Khác với người Hoa dễ dàng được chấp nhận hội nhập vào xã hội Thái, người Việt sống trên đất Thái đã có một thời gian từng bị đối xử như một thứ công dân hạng hai.
Và chỉ mới đây thôi, sau hơn nửa thế kỷ tình hình có phần nào được cải thiện khi chánh phủ Bangkok bắt đầu chấp thuận cho những người Việt sống lâu năm và sinh đẻ trên đất Thái được nhập tịch.
Cho dù đã sang thế hệ thứ ba, trở thành công dân Thái – đã từ lâu mất liên hệ với thực tại của Việt Nam nhưng họ vẫn là những người Thái gốc Việt giữ tình cảm gắn bó với quê nhà, với chế độ cộng sản Hà Nội qua hình ảnh Cách Mạng Tháng Tám và cuộc Kháng Chiến Chống Pháp ngày nào. Chân dung ông Hồ vẫn còn được các cụ già thuộc thế hệ thứ nhất tuổi ngoài 80 trưng giữ ở một nơi trang trọng trong gia đình.
Tới khu chợ cá Nong Khai, niềm vui là còn thấy được mớ cá tươi ngon lưới được từ con sông Mekong. Trên sạp cá ấy có cả một con cá lớn Pa Pu hơn 50 kg đang được xẻ khúc. Tôi hỏi mà không chút trông đợi về một con cá Pla Beuk. Lần này thì là sự kinh ngạc khi thấy chủ vựa lại tủ nước đá khệ nệ bưng ra một đầu cá Pla Beuk với lời giải thích:
- Pla Beuk nay rất hiếm nhưng may là anh tới đúng lúc. Đây không phải là một con cá Pla Beuk lớn đúng cỡ, chỉ cân nặng chừng 45 Kg chứ không phải hơn ba tạ, mà người ta còn lưới được trên sông Mekong.
Có lẽ đây là một trong mấy con cá Pla Beuk thiên nhiên cuối cùng còn sót lại nơi lũng sâu nào đó của con sông Mekong mà tôi còn có may mắn thấy được trong khu chợ Nong Khai vào vào những ngày cuối năm 2000.
Đến Nong Khai cũng là đến với ngôi Đền Phật Giữa Sông – Phrathat Klang Nam bị đổ sập xuống từ năm 1847 và càng ngày càng bị nước cuốn xa ra giữa dòng và chỉ thấy nhô lên trong mùa nước thấp. Henri Mouhot 140 năm trước (1860) khi từ Bangkok băng qua cao nguyên Isan để sang Lào, khi ngược dòng sông Mekong cũng đã ghi nhận về “Một ngôi đền Phật bị lũ cuốn xa khỏi bờ và nay chỉ còn phân nửa nhô trên mặt nước, giống như một con tàu đắm”.
Chỉ 5 km phía đông Nong Khai là một cảnh trí kỳ lạ khác Wat Khaek, như một nét văn hóa mới khác của con sông Mekong với những tượng đài khổng lồ chỉ mới được dựng lên từ thập niên 70. Tượng Rắn Thần Naga Bảy Đầu cao hơn 30m với sự tích rắn che chở cho Đức Phật qua khỏi cơn giông bão. Với tôi, Naga còn biểu trưng cho những khu rừng mưa, ngậm giữ nước trong mùa mưa và rồi nhả ra trong mùa khô điều hòa mực nước con sông Mekong, giúp ngư dân có cá và nông gia hai mùa đủ nước gieo trồng.