TỪ CẦU MỸ THUẬN 2000 TỚI CÂY CẦU CẦN THƠ 2008
From mountains to the sea, wetlands at work for US.
Từ núi ra biển, các vùng đất ngập phục vụ chúng ta. World Wetlands Day_ 02/02/2004
TỚI TAM NÔNG_ TRÀM CHIM VẮNG BÓNG CHIM
Rời Sài Gòn từ buổi sáng sớm, khi chưa có những rối loạn xe cộ và ồn ào tiếng động. Theo quốc lộ 1A đi về hướng tây nam, qua các tỉnh Long An, Tiền Giang qua huyện Cái Bè, đổi qua tỉnh lộ 30 tới Đồng Tháp. Do đường chưa tốt lại sợ bị công an “bắn’’_[tốc độ xe] nên nhiều đoạn tài xế phải chạy chậm lại, phải mất hơn 6 giờ để qua một đoạn đường chỉ hơn 200 km. Trên đường luôn luôn thấy cảnh tài xế những chiếc xe đò chạy ngược chiều, đưa tay ra dấu. Bàn tay chúc xuống là phía trước không có công an phục kích, bác tài lại yên tâm nhấn ga “phá rào” để vượt qua đoạn đường có giới hạn tốc độ. Vi phạm luật lưu thông không chỉ bị phạt tiền rất nặng, lại thêm bị bấm lỗ trên bằng lái xe, ba lỗ là mất bằng_ nên đã làm trùn chân cả những tay lái giang hồ liều mạng tự nhận là rất “bản lãnh”.
Đến với Đồng Tháp Mười là đi trên một vùng đất trũng rộng lớn. Có giả thuyết lý thú cho rằng ‘‘có thể nơi đây khi xưa là dấu vết cũ của sông Cửu Long, vì một lý do thiên nhiên nào đó sông Cửu Long đã bỏ lòng sông cũ để chảy qua vị trí hiện nay. Hai vùng trũng thiên nhiên rộng lớn là Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau là hai hồ để chứa nước sông Cửu vào mùa nước nổi’’.[Trần Ngươn Phiêu - Đồng Tháp Mười, 2006]
Từ thị xã Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp, lên tới quận Thanh Bình, để từ đây vẫn theo đường 30 đi về hướng tây bắc. Tới một ngã ba? thay vì đi hướng Hồng Ngự, theo tấm bảng chỉ dẫn, xe quẹo mặt đi thêm 17 km nữa trên một đoạn đường tráng nhựa hẹp và khá gập ghềnh để dẫn tới Tràm Chim Tam Nông [TCTT].
Hai bên đường nhà cửa đang san sát mọc lên, áp lực gia tăng dân số rất rõ, để thấy rằng Tràm Chim đang trước nguy cơ. Sâu vào lề đường, chúng tôi chú ý tới một ngôi mộ không phải trên đất mà trên một sàn xi măng khô ráo cao hơn mặt lộ, ngay phía dưới là đất ruộng ngập nước để thấy Tam Nông nguyên là vùng đầm lầy.
TCTN trong khu tứ giác các con kinh đào thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL]. Với khí hậu gió mùa, gần xích đạo, nhiệt độ trung bình 27 độ c với biến thiên từ 3 tới 5 độ c trong năm. Độ mưa tương đối thấp khoảng 1500mm/ năm, mùa mưa khoảng từ tháng 5 tới tháng 11. [Phùng Trung Ngân, Garrulax 6:3-5,1989]
Trong chiến tranh Việt Nam, Đồng Tháp Mười nơi từng là trận địa giao tranh ác liệt và là một vùng rất khó bình định.
Mỹ đã thực hiện kế hoạch rút cạn các khu đầm lầy, kết hợp xử dụng chất khai quang da cam và bom napalm để phá hủy các an toàn khu của Việt Cộng nhưng đã không thành công.
Sau chiến tranh do đất chật người đông, người ta vẫn không ngừng rút cạn các khu đầm lầy qua một hệ thống kinh rạch phức tạp nhưng chỉ là để có thêm đất canh tác.
Năm 1985 khi thấy giống Hạc Đông Phương bắt đầu xuất hiện ở vùng đất ngập nước Đồng Tháp Mười, các nhà khoa học đã triệu tập một Hội Nghị Hạc Quốc Tế ở Côn Minh thủ phủ Vân Nam, với sự tham dự của nhiều tổ chức như WWF (World Wildlife Fund), IUCN (International Union for the Conserva-tion of Nature), ICF (International Crane Foundation)... nhằm tìm biện pháp bảo vệ Tràm Chim Tam Nông như một khu mẫu mực ưdu lịch sinh tháư trong vùng Đông Nam Á. TCTN trở thành một cứ điểm hấp dẫn cho các nhà khoa học muốn nghiên cứu về đời sống sinh hoạt của các loài di điểu.
Là một vùng trũng phía tả ngạn sông Tiền, với diện tích 7,588 hecta được giới thiệu như ‘mô hình thu nhỏ cảnh quan Đồng Tháp Mười’ với hơn 130 loài thực vật, 120 loài cá nước ngọt, 40 loài lưỡng ngư bò sát, hơn 200 loài chim với 16 chủng loại được coi như quý hiếm; riêng giống Hạc Đông Phương (Eastern Sams cranes) hay còn có tên là sếu Đầu Đỏ, được liệt kê trong Sách Đỏ Thế giới (Worlds Red Book) đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Chỉ mới tám năm, TCTN khu trung tâm Đồng Tháp Mười được chính thức công nhận là Vườn Quốc Gia Tràm Chim [29-12-1998].
Khu Tràm Chim chủ yếu là vùng đất ngập nước (wetlands) với rừng tràm (Melaleuca) và các loại cỏ nước (wet grass¬lands), mùa lũ vào khoảng từ tháng 8 tới tháng 11, với đĩnh
Đường vào Tràm Chim Tam Nông Đồng Tháp Mười trỏ thành Vườn Quốc Gia Tràm Chim từ 29-ỉ2-ỉ998, như một khu mẫu mực adu lịch sinh thấi,y
Ngôi mộ khô ráo trên sàn xi-măng trong vùng nước ngập (ảnh NK Hùng)
Trung Tâm Du Lịch Sinh Thái và Giáo Dục Môi Trường Tam Nông
Đài quan sát và trạm bảo vệ Tràm Chim Tam Nông
Gia đình Hạc hay sếu Đầu Đỏ Tam Nông trong danh sách các loài chim quý hiếm, có nguy cơ bị tuyệt chủng (WAR: Wildlife At Risk)
lũ vào tháng 9, nước có độ sâu trung bình 2.50 m, nhưng vì là vùng thếp nên Tràm Chim vẫn ngập nước trong mùa khô.
Rất khó để thấy trụ sở TCTN nằm khuất lấp ở cái điểm mốc cây số 17 ấy. Nhưng rồi chúng tôi cũng tìm ra. Cô hướng dẫn với một cái tên rất mộc mạc, Nguyễn Thị Được cùng xuống ghe đi với chúng tôi. Do tới TCTN vào giữa thời điểm mùa lũ nên từ ghe chỉ thấy mặt nước mênh mông với nhô lên là những khóm tràm, bụi cỏ, bông súng và rất thưa thớt những bóng chim.
Phải tới tháng 2-3, vào mùa nước thấp, Tràm Chim là nơi tràn đầy thực phẩm tôm cá sò ốc hến nên lôi cuốn các đoàn di điểu từ xa trở về kiếm ăn và sinh sản. Không phải chỉ có giống Hạc Đông Phương; còn phải kể thêm loại chim nước hiếm quý như Oriental Darter, Lesser adjutant stork, Painted Stork, Asian Golden Weaver và nhiều chủng loại chim khác.
Mới đây có thêm mối quan ngại về dịch cúm gia cầm H5N1 có nguy cơ lan ra toàn cầu và các chuyên viên dịch tễ học (epidemiologist) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có nhắc tới khả năng các đàn di điểu phát tán bệnh đi tứ phương. ĐBSCL cũng là nơi có ổ bệnh H5N1 cho dù đã được khống chế nhưng không phải không có khả năng tái phát.
Không chỉ có động vật và các loài chim hiếm quý, trong số hơn 130 loài thực vật, phải kể tới giông lúa hoang (Oryza rufipogon), cũng đang có nguy cơ không còn nữa. Trong bài viết về Đồng Tháp Mười, Bs Trần Ngươn Phiêu có nhắc tới loại lúa đặc biệt này như một độc đáo khác thường được thấy ở Đồng Tháp, đó là loại ''lúa trời, mọc từ lòng đất vươn lên cao khỏi mặt nước, giông như loại lúa nổi. Dân nghèo dùng xuồng nhỏ, thấp, len lỏi vô các bưng có lúa trời, dùng thanh tre dài lùa đập các cọng lúa để hột lúa rụng rớt vô xuồng. Đi đập mót lúa trời cũng là một nguồn sinh sống cho dân cư cùng
khổ,không đất canh tác,
Theo Gs Phạm Hoàng Hộ "Lúa hoang là giống lúa nổi, có thân dài 1,5 - 4m, thân to 4 - 6mm, với lóng dài 10cm. Lá có phiến dài 20 cm, rộng 1cm... Trước đây có ở ruộng sâu khắp cùng và rất nhiều ở Đồng Tháp". [Cây cỏ Việt Nam 1991. Ill -2, tr. 776].
Theo Gs Võ Tòng Xuân [VTX], ''Cây lúa ma hay lúa hoang Oryza rufipogon (OR) mọc hoang ở các nơi đầm lầy, hoặc dọc theo các kênh mương ở Đồng Tháp Mười, và các vùng nước sâu trung bình ở các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang. Có một loại khác nữa, Oryza nivara (ON) mọc chung với OR ở các vùng này. Năng suất rất thấp, khoảng 0.2 đến 0.4 tấn/ha mà thôi. Ngày nay khi các cánh đồng trong Đồng Tháp Mười đã phủ kín lúa cao sản thì OR và ON gần như bị tiêu diệt hết. Gs VTX cho biết, ông đã đưa cả hai loại lúa hoang này sang giữ tại IRRI (International Rice Research Institute) tại Banos 60 km nam Manila, là viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế lớn và lâu đời nhất Á châu.
Tam Nông còn có những đầm sen và súng tô điểm thêm cho vẻ đẹp cảnh quan của Tràm Chim.
Và rồi cũng không thể không nói tới một ‘’loại cây bất ưng’’đang xâm lấn sinh cảnh của TCTN: cây Mimosa pigra. Tuy là một giống ngoại lai từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ nhưng đang tràn lan trong vùng trung tâm Tràm Chim gây tác hại trên sinh cảnh và tính đa dạng sinh học của khu bảo tồn.
Theo Gs Phạm Hoàng Hộ ‘‘Mimosa pigra hay Trinh nữ nhọn là một loại cây cứng cao 2-3 m, lá khi đụng cũng xếp lại nhưng chậm hơn Trinh nữ mắc cỡ (M. pudica), sóng lá mang một gai đứng cao 1,5cm giữa mỗi cặp thứ diệp. Hoa đầu vàng, hoa như ở Trinh nữ. Chụm trái to có lông hoe, dày 10-12 X 1,3-1,6 cm rụng từng đốt chừa hai bìa lại. Gốc Nam Mỹ, gặp ở các nơi đầm lầy.."[Cây cỏ Việt Nam 1991_ I -2, tr. 1029]
Theo Gs VTX, thì “Mimosa pigra còn được gọi là Mai Dương hay Ngưu Ma Vương là một đau đầu cho nông dân vùng đất ngập nước. Cây này phát tán rất nhanh và rất khó diệt trừ. Đã có nhiều nghiên cứu quốc tế nhằm tìm biện pháp hữu hiệu để diệt chúng nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả tốt. Vườn bảo tồn quốc gia Tràm Chim Tam Nông, nơi mà Tổ Chức Hạc Quốc Tế (ICF) đầu tư bảo tồn đàn sếu đầu đỏ quý hiếm, đang bị Mai Dương lấn áp”.
Do đó, nhân kỷ niệm “Ngày Đất Ngập Nước Thế Giới” nơi 4 quốc gia ven sông Mekong vùng Hạ Lưu: Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan, với khẩu hiệu « Từ núi ra biển, các vùng đất ngập nước phục vụ chúng ta_ World Wetlands Day 02-02-2004 »
Riêng với Việt Nam vùng điểm được chọn là Tràm Chim Tam Nông. Ngoài những nghi thức của một ngày lễ hội với các cuộc vui đua thuyền, đá banh, diễn kịch... nhưng đáng chú ý nhât đó là ngày phát động phong trào « lùng và diệt cây Mai Dương, Ngưu Ma Vương hay Trinh nữ nhọn" và cũng để báo động với dân chúng địa phương là giống Mimosa pigra kẻ thù nguy hiểm, cần có một chiến dịch lâu dài lùng và diệt loại cây này để bảo vệ sự cân bằng và đa dạng sinh thái của TCTN.
Từ khi Tràm Chim đã chính thức trở thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, ngoài số tiền 4 tỉ đồng từ Việt Nam, còn có thêm nhiều tặng dữ của các quốc gia khác như Đan Mạch, Đức, Nhật... nhằm bảo tồn khu Hạc và phát triển vùng đệm (buffer zone) của Tràm Chim.
Từ 1995, Tổ Chức Hạc Quốc Tế/ICF đã lên kế hoạch khảo sát các vùng sinh sản của giống sếu Đầu Đỏ và kể từ tháng Ba 1998 các nhà điểu học đã khởi sự cho đặt những chiếc vòng theo dõi điện tử (electronic tracking rings) để khảo sát toàn sinh cảnh và lối sinh hoạt của giống di điểu này. Chương trình được tài trợ bởi chánh phủ Nhật và có sự tham gia của các nhà khoa học Nhật, Mỹ và Việt Nam.
Theo cô Được, hướng dẫn viên của Tràm Chim thì do những ảnh hưởng tiêu cực dây chuyền, số Hạc cũng như các loại chim hiếm quý trở về ngày càng ít đi vào mùa khô mỗi năm về sau. Đây là một hiện tượng rất đáng quan tâm đối với các nhà bảo vệ môi sinh. Từ 20 năm qua là số chim Hạc trở lại Tràm Chim càng ngày càng ít đi: từ con số 1,052 năm 1988, xuông còn 631 năm 1996, 154 năm 2004 và chỉ còn 90 con năm 2006 [Source VNN].
Có thể do nhiều nguyên nhân: suy thoái môi trường sống trong Tràm Chim với các kinh rạch mới, các trận lũ bất thường do ảnh hưởng chuỗi đập thượng nguồn Vân Nam, còn phải kể cả sức ép dân số từ các khu phát triển gia cư, chiếm lấn đất quanh vùng đệm, nhu cầu lấy nước từ Tràm Chim, bao quanh tràm chim là những cánh đồng lúa với ảnh hưởng độc hại của phân bón hóa chất... Tất cả đều có tác hại lâu dài tới khu bảo tồn.
Đã thế lại đang có thêm một công trình làm con lộ vòng đai quanh TCTN để khai thác ‘‘du lịch sinh thái’’, với cảnh quan thiên nhiên ngày một thu hẹp, nhìn về tương lai không xa, hệ sinh thái phong phú của TCTN đang được đếm từng ngày.
Săn bắn trong khu Tràm Chim tuy bị cấm nhưng thực tế thì vẫn cứ diễn ra, gây sát hại các loài chim quý kể cả giống hạc.
Các nhà bảo vệ môi sinh đã rất có lý khi chọn giống Hạc Đông phương như một ‘‘chủng loại quan trọng /flagship spe-cies’’,bảo vệ Hạc có nghĩa là bảo vệ cho hơn 120 loài chim,
nhưng xa hơn thế nữa cũng là bảo vệ cho cả một hệ sinh thái trong lành của ĐBSCL và con sông Mekong_ mà Tràm Chim Tam Nông là một biểu tượng sống.
... Tới Đồng Tháp Mười, khi qua huyện Lấp Vò nơi mà mấy năm trước đây ngư dân đã bắt được một ''con cá đuối nước mặn" khổng lồ dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 kg trên sông Tiền - nhưng khi hỏi thì không ai biết hay đúng hơn là chẳng còn ai nhớ. Cũng rất ít ai nhớ là chỉ cách đây hơn 30 năm thôi, nguồn tôm cá thiên nhiên ĐBSCL còn phong phú là thế nào. Nay thì nguồn tài nguyên ấy cạn kiệt và cũng ít ai thắc mắc tại sao. Không kể Thái Lan, ngay người dân Lào và Cam Bốt từ hai quốc gia không thể nói là hơn Việt nam, nhưng họ có ý thức về con sông Mekong và có thông tin nhiều hơn về những con đập khổng lồ Vân Nam chắn ngang dòng chính sông Mekong. Rồi không thể không nghĩ tới cái địa chỉ nghịch lý ‘‘23 Phố Hàng Tre Hà Nội của ủy Hội Quốc Gia Sông Mekong Việt Nam’’ thay vì nơi Đại học cần Thơ hay Đại học An Giang.
ĐẾN VỚI ĐẠI HỌC AN GIANG SÁU TUỔI.
Về lại Cao Lãnh để đi An Giang, nơi có khu di chỉ ốc Eo thuộc Vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến VI, Long Xuyên với Đại Học An Giang là nơi tôi có hẹn gặp anh Võ Tòng Xuân. Có một thay đổi bất ngờ là khi tới Long Xuyên, người bạn đồng hành Nguyễn Kỳ Hùng - đã cùng đi với tôi trong chuyến thăm ĐBSCL kỳ thú 7 năm trước, vì một lý do riêng anh đã lại phải tách ra để trở về Sài Gòn. Rất tiếc những ngày sắp tới tôi sẽ không có được những tấm hình tuyệt đẹp ĐBSCL qua ống kính rất nghệ thuật của anh. Lại một cuộc hành trình đơn độc như các chuyến đi Lào và Cam Bốt.
Đã từng tới Long Xuyên, trở lại thăm để ngạc nhiên thấy một Long Xuyên, thị xã của tỉnh An Giang đã có rất nhiều đổi thay và phát triển.
Năm 1970 khi Gs Đỗ Bá Khê đọc bài diễn văn tốt nghiệp khóa đầu tiên của Đại học Cần Thơ, thì lúc đó An Giang chỉ mới có Trường Sư Phạm Long Xuyên với 4 lớp và 260 giáo sinh. Phải 30 năm sau, do con số hơn 40 ngàn học sinh tốt nghiệp trung học mỗi năm tại ĐBSCL, trước tình trạng quá tải của Đại học cần Thơ, trường Đại Học An Giang [DHAG] được phép thành lập vào tháng 12 năm 1999, rồi công trình xây cất ĐHAG được khởi công tháng Giêng 2001 - năm đầu tiên của Thế kỷ 21, với kinh phí 35 triệu MK trên một diện tích 40 hecta. ĐHAG được hỗ trợ tài chánh từ địa phương nhưng vẫn chịu sự giám sát chuyên môn của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Trung ương.
Sau Đại Học Cần Thơ - được ra đời vào những năm 1960, ĐHAG là trường Đại học công lập thứ hai, được xem là trường Đại học trẻ trung nhất ĐBSCL.
Lãnh đạo nhà trường ngay từ bước đầu chập chững là một khuôn mặt quen thuộc và thân thương đối với bà con nông dân ĐBSCL: đó là Gs Võ Tòng Xuân, từng là Phó Viện trưởng Đại học Cần Thơ, ông cũng được biết tới từ trước 1975 như cha đẻ của lúa cao sản Thần Nông HYV (cao sản, ngắn ngày), là một giống lúa thân lùn với năng xuất rất cao. Đưa lúa Thần Nông vào ĐBSCL được coi như “bước đột phá” chống đói giảm nghèo mà Viện Lúa Gạo Quốc Tế IRRI gọi đó là Cuộc Cách Mạng Xanh về Lúa Gạo. Với một con chim đầu đàn như thế, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy ĐHAG đang phát triển theo hướng kết hợp giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng vào công ích. Một thứ quan niệm R&D (Research and Development) trong các đại học Mỹ.
Trước khi gặp anh Võ Tòng Xuân, không người hướng dẫn,
GsVõ Tòng Xuân được biết tài từ trước 1975 như cha đẻ của lúa cao sản
Thần Nông HYV, nay đang là Viện trưởng Đại học An Giang
Sinh viên Đại Học An Giang đang sử dụng máy điện toán trong học tập
Sinh viên ĐHAG đang sắp hàng mượn sách trong thư viện
Trung Tâm Tạo Nguồn Phát Triển Cộng Đồng cứa Đại Học An Giang (Resource Center for Community Development)
Sinh viên ĐHAG và huấn luyện viên trong chương trình thể dục buổi sáng
Đại Học An Giang sáu tuổi, là đại học công lập thứ hai của ĐBSCL sau 1975
Đại Học Cẩn Thơ là đại học công lập đẩu tiên của ĐBSCL trước 1975
tôi đã tự xông xáo đi thăm các cơ sở nhà trường, giảng đường, thư viện và dĩ nhiên cả gặp gỡ nói chuyện riêng với một số em sinh viên: các em rất trẻ mộc mạc, ăn mặc giản dị, cách nói chuyện chất phác, và đặc biệt là lễ phép với khách lạ đến thăm. Phải chăng đó là nét đẹp từ một nền Văn Minh Miệt Vườn. Chắc chắn các em không phải con của các uđại gia hay cán bộ cao cấp” của ĐBSCL, bỏi vì tệ lắm nếu không là Đại học Sài Gòn thì cũng đã là những sinh viên du học utự tuc^ ở các nước Âu Mỹ, nhất là Mỹ.
Các em là thế hệ khá thiệt thòi, sinh ra và lớn lên nơi vựa lúa ĐBSCL sau chiến tranh nhưng lại chỉ được hấp thụ một nền giáo dục trung và tiểu học thấp kém nhất nước, do thiếu lớp học thiếu thầy cô giáo - thua cả Tây nguyên, theo nhận xét của chính các nhà giáo dục trong nước. Tốt nghiệp trung học trong một tình trạng mất căn bản như vậy, khi bước lên đại học, chỉ có lòng hiếu học cao độ mới giúp các em vượt qua được khoảng cách đại dương ấy.
ĐHAG hiện có tầm vóc khiêm tốn của một Đại Học Cộng Đồng (Community City Collège) còn đang phát triển. Quanh sân trường, đây đó còn những đống gạch cát của công trình đang xây cất dở dang. Thư viện khá đẹp như khuôn mặt chính của nhà trường với hai từng lầu, gọn sạch ngăn nắp, tổ chức sắp đặt theo tiêu chuẩn Mỹ, với cả một giàn máy điện toán PC cho sinh viên sử dụng. Sinh viên nam nữ tự động sắp hàng trật tự trước các quầy để mượn và trả sách. Sách mới, sách khoa học tiếng Anh phải kể là còn rất ít nhưng bù lại các em đã biết truy cập vào “internet” để có một số thông tin mà các em cần.
Buổi sáng, bước vào một giảng đường lớn, đông đảo sinh viên thuộc nhiều khoa và các lớp khác nhau, trên bục giảng là Gs VTX, với đề tài rất cơ bản "Phương pháp Khoa học va Lộ trình Nghiên cứu.Cho dù đi vào từ phía sau giảng đường cũng không còn một chỗ trống, một em tự động đứng dậy nhường chỗ cho khách [sau này có dịp nói chuyện, tôi được biết là một sinh viên năm thứ tư sắp ra trường].
Bài giảng khúc triết và dễ hiểu để ứng dụng đối với các sinh viên khi phải làm một luận văn/ một thứ luận án nhỏ như điều kiện để tốt nghiệp ra trường. Luận văn ấy sẽ là nỗ lực cá nhân của sinh viên hướng về giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến phát triển kinh tế xã hội của vùng ĐBSCL. Riêng với tôi thì phần lý thú nhất trong bài giảng sáng hôm đó vẫn là những ví dụ nghiên cứu vể “lúa gạo” của nhà nông học Võ Tòng Xuân.
Sau lớp học, tôi được gặp anh Xuân. Tuy gặp nhau lần tiên nhưng từ nhiều năm ‘‘văn kỳ thanh’’ tôi đã theo dõi những bước đi của anh, anh cũng đã là nguồn cảm hứng về ‘nhân vật’ khi tôi viết Cửu Long Cạn Dòng - chúng tôi đã có ngay một mẫu số chung để nói chuyện với nhau. Phong cách giản dị, không nghi thức, anh Xuân tự tay pha trà tiếp tôi trong văn phòng Hiệu trưởng_ mà tôi thì vẫn quen gọi là Viện trưởng, căn phòng khá nhỏ, trông lại càng nhỏ chật hơn với ngập những sách. Trong số sách ấy, tôi cũng thấy cuốn Cửu Long Cạn Dòng, ấn bản đầu tiên của nhà xuất bản Văn Nghệ năm 2000, cũng là thời điểm Đại Học An Giang mới tuổi “thôi nôi”.
Buổi trưa hôm ấy, tôi đã ngồi Honda ôm với anh VTX thay vì xe hơi, để xuống phố cùng với mấy cộng sự trẻ của anh dùng bữa ăn trưa với canh chua cá bông điên điển, cá kho tộ và có cả gỏi tôm ngó sen, toàn những món đặc sản của ĐBSCL.
Sau bữa ăn trưa ngắn ngủi, nửa ngày còn lại là một ngày ngập bận rộn của anh Xuân. Anh để tôi tùy nghi chọn lựa tham dự các sinh hoạt ấy. Như buổi trình luận án cấp trường của một giảng viên ĐHAG do anh Xuân chủ trì. Luận án liên quan tới những con số thống kê, những khiếm khuyết trong cách thu thập và phân tích dữ kiện đều được hội đồng giám khảo nhận xét, thí sinh có cơ hội được phản biện; cuối cùng thì thang điểm được cộng lại: chỉ đạt 52% số điểm có nghĩa là luận án không được thông qua. Cùng một lúc ở một giảng đường khác, là một buổi nói chuyện của một kỹ sư người Mỹ gốc Việt từ Florida về, dùng laptop và power point để giới thiệu với sinh viên về chiếc máy xấy lúa “tiết kiệm” do anh sáng chế. Cũng buổi chiều hôm ấy, có hai phái đoàn khách tới thăm, một đoàn từ đại học USC (University of Southern California) tới đây, ai cũng muốn được gặp Gs VTX.
Anh Xuân có những cộng sự viên trẻ, tốt nghiệp ở ngoại quốc từ nhiều nguồn khác nhau, lớp trẻ này có kiến thức khả năng và nhiệt tình nhưng chưa tới tầm vóc để có thể thay anh. Họ về với anh Xuân, về với ĐHAG vì họ biết đó là tương lai. Với trình độ chuyên môn và khả năng ngoại ngữ ấy nếu đi làm cho các công ty tư nhân ngoại quốc như Đài Loan Đại Hàn chắc chắn họ sẽ với một số lương bổng cao hơn gấp nhiều lần. Cô Giám đốc phòng giao dịch quốc tế là một Ph.D. về giáo dục về từ đại học USE. Tổ chức thư viện và thiết kế website của ĐHAG là một kỹ sư có bằng MSC. Tốt nghiệp ngành vi tính (computer sciences) từ một Đại học Miền Đông Hoa Kỳ, cho dù nhiệm vụ chính của anh vẫn là giảng dạy về Tin học; được biết anh cũng vừa được một Đại học úc thâu nhận vào chương trình Ph.D. trong năm tới. Cô nhà báo HV, xuất thân từ báo Tuổi Trẻ, tác giả nhiều bài ký và những bức hình chụp sinh động, nay cũng đã tự nguyện về với ĐHAG, cô ấy cũng được khuyến khích đi học thêm về báo chí ở Đại học Colum¬bia New York... Ngoài ra, còn phải kể tới nguồn Voluntary Faculty - những giáo sư ngoại quốc thỉnh giảng tình nguyện. Anh Xuân cho biết tuy là trên căn bản tự nguyện nhưng ĐHAG vẫn tìm cách trả lương họ theo quy chế.
Một “sự cố vui bên lề ’’ là đã có một ông giáo sư thỉnh giảng tới với ĐHAG nhưng vì ‘‘đi một về hai’’ nên nhà trường đã có một tổn thất phụ / collateral damage về nhân sự.
Nhiệm vụ của ĐHAG cùng với ĐH Cần Thơ, là đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cung ứng cho các bước phát triển kinh tế và xã hội của ĐBSCL nhằm ‘‘tăng cường khả năng hợp tác và cạnh tranh, khả năng hội nhập vào thị trường quốc tế’’khi Việt Nam sắp chính thức gia nhạp WTO.
Tình trạng thực tế hiện nay, tỉnh An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung không chỉ thiếu cán bộ có trình độ đại học và trên đại học trong các ngành kinh tế xã hội mà còn rất thiếu cả một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề trong các lãnh vực công nghiệp chế biến thủy sản và nông phẩm, công nghệ sinh học và phát triển du lịch.
Với hướng đi từ nay tới 2010, dự trù sĩ số sinh viên sẽ lên tới 10,000 với chương trình đào tạo 4 năm cho các ngành như sư phạm, canh nông, công nghệ thực phẩm thủy sản, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, kỹ sư điện toán, kỹ thuật môi trường / environment engineering, quản trị kinh doanh nông thôn...và mục tiêu đào tạo là làm sao đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các thành phần kinh tế. [Biện pháp đào tạo theo-địa- chỉ các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chứ không phải với tương lai sinh viên tốt nghiệp chỉ là những công chức nhà nước].
Phải nói rằng số lượng giảng viên hiện nay của nhà trường còn rất hạn chế, với sĩ số 600 chỉ có 50% có bằng thạc sĩ (Master) và một số rất ít tiến sĩ (Ph.D). Qua các em, tôi được biết anh Xuân không ngừng khuyến khích và tìm cơ hội gửi các giảng viên trẻ của ĐHAG đi ngoại quốc học thêm để tăng cường chất và lượng cho ban giảng huấn. Và cũng có cả kế hoạch thu hút thêm những nguồn chất xám mới đổ về. Nhiều hứa hẹn nhưng cũng thật nhiều thách đố cho một Đại học còn non trẻ như ĐHAG.
Ngoài chức vụ lãnh đạo ĐHAG, riêng anh Xuân còn những dự án dở dang khác: (1) tìm genegiống lúa mới chịu được nước lợ do Cửu Long Cạn Dòng và thêm nhiễm mặn; (2) vận động nông dân ĐBSCL áp dụng kế hoạch “3 giảm 3 tăng” trong đó có giảm thuốc trừ sâu rầy để giảm nhiễm độc đã tới mức độ nguy hiểm cho môi trường sống; (3) lập khu bảo tàng cây lúa ĐBSCL với SƯU tập tất cả các nông cụ mà tiền nhân đã sử dụng từ thủa khai hoang.
Và còn nhiều nữa, anh Xuân có theo dõi và biết rõ hậu quả những con Đập Bậc Thềm Vân Nam và các dự án chuyển dòng lấy nước sông Mekong của Thái Lan ra sao trên ĐBSCL, mà theo anh Việt Nam cũng chẳng thể phản đối được gì. Trước nghịch cảnh, anh tìm cách làm sao để biến những “bất cập” hiện nay thành “thuận lợi” như phát triển ngành nuôi “tôm xú” nuôi “cua biển” nơi vùng nước lợ đem lợi tức cho nông dân cao hơn là trồng lúa; áp dụng kỹ thuật tưới luân phiên mà vẫn bảo đảm năng xuất lúa ở vùng thiếu nước khi Cửu Long Cạn Dòng... Hình như lúc nào anh Xuân cũng thiếu thời gian cho một ngày chỉ có 24 giờ, bản chết người Nam, anh vẫn lạc quan; luôn luôn nhìn thấy nửa phần đầy của ly nước thay vì là nửa vơi.
Tre già măng mọc, anh Xuân đang lo vun trồng thế hệ măng tiếp nối anh. Hẹn ngày tái ngộ với ĐHAG, lần tới khi trở lại ĐBSCL mong sẽ có dịp đến thăm Bảo Tàng Cây Lúa của anh Xuân.