← Quay lại trang sách

Chương 3 CON NGƯỜI BÌNH DỊ

Chương 3

con người bình dị

rường đại học ồc-xpho tặng Mai-cơn Pha-ra-đây học vị tiến sĩ danh dự. Các viện Hàn lâm khoa học Pháp, Đức Nga... Tặng Mai-cơn Pha-ra-đây đanh hiệu viện sĩ. Giới khoa học coi Mai-Cơn Pha-ra-đây là một nhà bác học thuộc vào số những người giỏi nhất của thế kỷ XIX...

Nhưng con người vĩ đại ấy vẫn sống cuộc đời bình dị như khi ông còn là một phụ tá. Hai vợ chồng nhà bác học và cô con gái nuôi vẫn sống bằng số lương 160 sin-linh một tháng trong hai gian phừng ở gầm cầu thang cửa Học viện hoàng gia! Mặc đầu bây giờ Mai-Cơn Pha-ra-đây đã trở thành giáo sư giám đốc Học viện hoàng gia, thay chân thầy học Hâm-phơ-ri Đê-vi, và đã có một người phụ tá là En-đéc-xơn nhưng cuộc sống của ông vẫn không có gì khác trước lắm. Ông vẫn tự tay chuẩn bị thí nghiệm cho các bài giảng ở cả Học viện hoàng gia và ở Hội triết học cũng như trong khi nghiên cứu. Bà Xa-ra vẫn phải tiếp tục suy nghĩ về những món ăn ngon miệng nhưng rẻ tiền.

Năm 1831, một số hãng kinh doanh ở Luân Đôn mời Pha-ra-đây cộng tác, tham gia vào việc kiểm nghiệm phẩm chất hàng hóa. Cuối năm đó số thu nhập “phụ” của gia đình nhà bác học tăng thêm bằng mười lần số lương chính của ông. Nhưng Pha-ra-đây đã quyết định thôi không tham gia công tác kiểm nghiệm đó nữa. Ông nói với vợ:

- Anh không đủ thì giờ nghiên cứu. Chúng ta chỉ có một đứa con nuôi, cũng chẳng cần phải lo kiếm nhiều tiền lắm!

Bà Xa-rạ vui lòng trở lại nếp sống thiếu thốn của một gia đình người phụ tá thí nghiệm. Nhưng bạn bè của nhà bác học thì bất bình về sự đối xử bất công đó. Họ ra sức vận động chính phủ Anh hoàng trợ cấp cho nhà bác học.

Nể lời khuyên của bạn, Mai-Cơn Pha-ra-đây tới gặp viên bí thư của bộ trưởng Men-buốc. Nhưng khi trở về nhà ông không hề nói lại với vợ con một câu nào về cuộc gặp gỡ và kết quả trợ cấp.

Vài ngày sau, một người bạn là bà Mê-ri Phồc-xơ cùng với cô con gái Ca-rô-li-na là một hội viên tích cực của Hội triết học tới thăm Pha-ra-đây. Vừa bước vào cửa, bà Phồc-xơ đã vội hỏi:

- Ông bạn thân mến, ông làm thế nào mà viên bí thư của ngài bộ trưởng Men-buốc có vẻ bực mình như thế?

Nhà bác học mỉm cười:

- Thưa bà, người nên bực mình đáng lẽ phải là tôi.

Bà Phồc-xơ ngồi xuống ghế:

- Ông có thể làm hỏng hết mọi việc đấy, ông bạn ạ! Chúng tôi phải vận động mãi mới xong, thế mà bây giờ một viên bí thư...

Pha-ra-đây nhún vai:

- Tôi không thể hành động khác được! Ông ta hết lục vấn tôi về dòng dõi gia đình, về nhân khẩu trong nhà và hoàn cảnh khó khăn lại đến đòi tôi viết đơn thỉnh cầu lên nữ hoàng Vich-to-ri-a. Thế mà tồi có nói gì đâu. Tôi chỉ trả lời ông ta rằng: các cụ thân sinh ra tôi đều đã mất và những người đã qua đời thì không cần gì đến tiền trợ cấp. Còn tình hình sinh hoạt trong gia đình tôi thì có lẽ bà Xa-ra Pha-ra-đây nắm vững hơn tôi, thế nhưng bà Xa-ra lại không được đề nghị vả cũng không yêu cầu trợ cấp!

Mọi người đều bật cười. Bà Phốc-xơ lắc đầu:

- Ông thật là quá khí khái! có thể là viên bí thư của ngài Men-buốc ăn nói thiếu lễ độ. Nhưng đó là những vấn đề thủ tục.

Pha-ra-đây gật đầu:

- Có thể là bà nhận xét đúng. Nhưng ngay lúc bỏ nghề đóng sách để dấn thân vào con đường khoa học tôi đã tự hẹn với mình là sẽ hi sinh tất cả cho sự nghiệp mà tôi hằng mơ ước. Tôi từ bé đã quen sống thiếu thốn, được bữa nay lo bữa mai. Từ khi có gia đình riêng vợ chồng tôi cũng không hề thấy khổ sở vì số lương ít ỏi của tôi. Chúng tôi vẫn rất hạnh phúc vì luôn luôn thông cảm với nỗi lo âu cũng như phút sảng khoái của cuộc sống những người đi tìm chân lý. Lẽ nào bây giờ tôi lại cần phải bán rẻ nguồn hạnh phủc đó để ngửa tay cầu xin một món tiền trợ cấp.

Bà Phốc-xơ cảm động ngồi yên lặng nghe người bạn có tâm hồn cao thượng. Phút chốc trước mắt bà, con người hơi gầy gò mặc bộ quần áo đã bạc màu kia đã vượt lên trên hẳn vô số những người mà bà quen biết.

Một lát sau bà mới khẽ nói:

- Bạn thân mến! Bạn hoàn toàn có lý. Nhưng nước Anh phải có trách nhiệm đối với người con ưu tú của mình, đối với nền khoa học của toàn thể loài người! Ngày mai tôi sẽ đích thân tới gặp ngài bộ trưởng.

Bộ trưởng Men-buốc tự tay viết thư xin lỗi Mai-Cơn Pha-ra-đây. Nhà bác học đồng ý nhận một khoản tiền trợ cấp hàng năm 300 phun-tơ xtéc-linh, bằng ba lần số lương mà ông đang được hưởng. Mặc dầu món tiền đó cũng chẳng phải là quá lớn, nhưng từ nay nhà khoa học Pha-ra-đây đã có thể hoàn toàn không phải lo lắng đến cuộc sống vật chất của gia đình và chuyên tâm vào công việc nghiên cứu.

2

cô bé Mê-ri thấy bố mang một cái xoong con đựng hồ dán từ dưới bếp lên thì sán lại gần và hỏi:

- Bố quấy hồ làm gì thế?

Pha-ra-đây cười, trả lời:

- Bố quấy hồ để vào bìa mấy quyển vở ghi chép của bố.

Cô bé mở to Đôi mắt đen láy ngạc nhiên:

- Bố cũng biết đóng sách à?

Bà Xa-ra từ ngoài bước vào phòng thấy thế liền nói:

- Nghề cũ của bồ mà lị! Nhưng tại sao anh không đưa ra ngoài hiệu người ta đóng cho có phải đỡ mất thì giờ hay không?

Nhà bác học vừa quết hồ vào bìa vừa trả lời:

- Nhân tiện hồi nãy bác sĩ khuyên anh nên xen kẽ công việc chân tay với công việc trí óc để tránh tình trạng làm việc căng thẳng. -Vả chăng anh cũng thích, thỉnh thoảng quay trở lại cái nghề cũ của mình.

Bà Xa-ra nói đùa:

- Nghề cũ đã phụ bạc rồi, lại còn nói là thích quay trở lại!

Pha-ra-đây mỉm cười, dừng tay và nói:

- Đâu có phải là phụ bạc. Nghề chân tay hay nghề trí óc cũng đều cao quí. Vấn đề không phải ở cái nghề mà là ở con người. Không thiếu gì những người thợ có tâm hồn đẹp đẽ. Anh Rô-bớc và chị Bét-xi chẳng đã hi sinh cho anh đấy ư! Và cũng chẳng thiếu gì những người gọi là trí thức mà cuộc sống thật là đê tiện!

Bà Xa-ra gật đầu đồng ý và nhân tiện hỏi chồng:

- À, thế anh đã trả lời ngài Vôn la-xtơn về việc đề nghị anh nhận chức chủ tịch Hội hoàng gia Luân Đôn hay chưa?

- Anh đã kiên quyết chối từ cái vinh dự quá lớn đó. Hôm qua Giôn Tin-đan, một học trò của anh, tỏ vẻ lấy làm lạ về việc đó. Anh có nói đùa với anh ấy rằng, anh không muốn nhận làm chủ tịch Hội hoàng gia bởi vì anh còn nhớ tới bức thư của chú thợ đóng sách Mai-ca gửi tới ngài chủ tịch Hội là Giô-dép Ban-xơ năm 1812!

Hai vợ chồng nhà bác học cùng nhìn nhau, cười thích thú. Bỗng bà Xa-ra hỏi:

- Thế còn ngài chủ tịch Hội Đê-vi thì anh nhận xét ra sao?

Pha-ra-đây yên lặng một chút rồi trang nghiêm nói:

- Đó là một người vĩ đại và một ân nhân suốt đời của anh. Không có ngài thì chưa hiểu cuộc đời anh ngày nay sẽ ra sao? Anh không thể nào quên được những buổi đầu tiên nói chuyện với ngài rồi được nhận vào làm phụ tá.

Nhà bác học ngậm ngùi hạ thấp giọng:

- Con người vĩ đại ấy cũng không có hạnh phúc, tuy lấy được một người vợ giàu có và được phong nam tước. Ngài chết một mình ở nước Ý, không người thân thích.

Bà Xa-ra biết chồng đang, xúc động.

Nhà bác học đi đi lại lại trong phòng, vẻ suy nghĩ. Một lúc lâu, ông dừng lại bên cạnh bà vợ và nói:

- Em có biết không, vì muốn làm một người hạnh phúc cho nên hôm qua anh đã chối từ chức chủ tịch Hội hoàng gia. Hôm nay các bạn anh lại khuyên anh đệ đơn lên nữ hoàng xin phong danh hiệu quí tộc, nhưng anh cũng sẽ không làm như vậy.

Bà Xa-ra mỉm cười hòi:

- Em không muốn làm bà quí tộc. Nhưng còn anh, tại sao anh không thích xin phong chức tước?

Pha-ra-đây chậm rãi nói:

- Nước Anh chỉ có hai ba chục nhà bác học lớn, nhưng có tới hàng ngàn nhà quí tộc. Lẽ nào mỗi nhà bác học lại cần phải đứng ngang hàng với những người đông gấp trăm lần kia mới có thể bày tỏ được sự vinh dự của mình? Đối với anh, không có gì cao quí hơn những kết quả nghiên cứu khoa học!

Cô bé Mê-ri tò mò mở một quyển vở dày vừa đóng xong. Cô trỏ tay vào những tấm bằng mà các viện khoa học tặng cho cha cô và hỏi.

- Thế còn những cái này thì sao, hả bố?

Nhà bác học bế cô con gái nuôi lên tay và trả lời:

- Những tờ giấy này chính là những tờ giấy chứng nhận rằng bố đã chăm chỉ học tập và học tập tốt. Chúng cũng chứng nhận rằng bố đã làm được một vài điều có ích cho mọi người. Đối với bố, như thế đã là đủ lắm rồi!

3

Tất cả mọi người ngồi trong phòng đều yên lặng, hối hộp chờ đợi. Họ lắng nghe tiếng kẹt cửa ở phòng bên, nơi đó bác sĩ La-tam đang thăm bệnh cho nhà bác học Mai-cơn Pha-ra-đây vừa ốm nặng. Thời gian dường như trôi đi quá chậm. Nhưng rồi cuối cùng tiếng động chờ đợi cũng vang lên. Bà Xa-ra đứng vội dậy, mở cửa ra đón bác sĩ.

Bác sĩ nhanh nhẹn bước vào phòng, cởi chiếc áo choàng màu trắng ra rồi ngồi xuống chiếc ghế. Ông đón lấy cốc nước cam từ tay bà Xa-ra uống một hơi dài rồi đặt cốc xuống bàn và thong thả nói:

- Bệnh tình tuy nặng nhưng không đáng lo ngại. Suy nhược nghiêm trọng, nhất là hệ thần kinh. Lại có dấu hiệu của trạng thái nhiễm độc vì thủy ngân. Cần phải nghĩ làm việc hoàn toàn một thời gian dài mới hy vọng bình phục được.

Bà Xa-ra lo lắng, thở dài:

- Làm sao có thể bất ông ấy nghỉ hoàn toàn được! Sau thời gian căng thẳng với hiện tượng cảm ứng điện từ lại tiếp đến thời kỳ miệt mài với các định luật điện phân. Rồi lại còn công việc ở Học viện hoàng gia...

Bác sĩ lấy giấy bút viết đơn thuốc trao cho bà Xa-ra và an ủi:

- Bà đừng quá lo lắng! Bây giờ thì ông nhà có muốn làm việc cũng không được đâu. Tôi cũng đã khuyên ông ấy rồi. Bà chỉ cần khéo tìm cách, thí dụ rủ ông nhà đi thăm bà con hoặc đi du lịch chẳng hạn, là có thể tạo điều kiện cho ông ấy nghĩ ngơi.

Tiễn chân bác sĩ ra về xong, bà Xa-ra vội vã bước vào phòng người bệnh. Nhà bác học nằm trên giường, nét mặt xanh xao mệt mỏi, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạc quan, phấn khích... Thầy bà vợ lại gần, ông mỉm cười khẽ nói:

- Anh muốn nghe một đoạn của sèch-xpia.

Bà Xa-ra lắc đầu:

- Bác sĩ La-tam khuyên anh nên nghỉ ngơi hoàn toàn.

Pha-ra-đây nắm lấy bàn tay vợ, khẩn khoản:

- không sao đâu, em ạ! Nghe đọc văn sếch-xpia không những không mệt óc mà còn thêm yêu đời. Anh còn nhớ, ngài Đê-vi đã có lần nói với anh rằng: thi ca vừa là bước đầu lại vừa là nơi kết thúc của mọi kiến thức và nó cũng bất tử như trái tim con người. Em cứ đọc đi. Anh muốn nghe một đoạn của sèch-xpia vĩ đại.

Bà Xa-ra đành chiều ý chồng, rút ở trên giá sách xuống một tập hài kịch của sếch-xpia. Pha-ra-đây nằm yên lắng nghe. Chẳng bao lâu nhà bác học đã bị lôi cuốn vào câu chuyện, chẳng khác gì cách đấy mấy chục năm, chú bé Mai-ca say mê nghe đọc những câu chuyện trong “Một nghìn một đêm lẻ”.

Bà Xa-ra đã đọc xong một vở hải kịch. Nhà bác học thốt lên, khoan khoái:

- Chà! Đúng là sèch-xpia đã vẽ ra trước mắt chúng ta một nước Anh vui vẻ với những đồng cỏ, những cánh rừng, với những con người bình thường nhưng thông minh và thật sự yêu đời! Trên một đất nước tươi đẹp như thế và với những con người thông minh như thế, chúng ta có thể làm nên bao sự việc phi thường. Chỉ cần chúng ta thiết tha yêu mến đất nước đó và những con người đó!

Ngoảnh ra, nhà bác học nói với Giôn Tin-đan lúc ấy đã vào ngồi ở trong phòng từ lúc nào:

- Anh bạn trẻ thân mến! cần phải đọc sềch-xpia, hành động như con người của sếch-xpia hành động và lúc cần có thể chết như con người của Sếch-xpia đã chết. Tôi yêu Sếch-xpia vì nhà văn vĩ đại ấy đã nói lên được nguyện vọng khao khát hạnh phúc của nhân dân Anh, muốn trở thành những con người thực sự tự đọ trong xã hội...

Bà Xa-ra sợ chồng quá xúc động liền khẽ nhắc:

- Kìa, anh! Anh nên tĩnh dưỡng thì hơn.

nhưng nhà bác học đường như không nghe thấy câu nói đó. Ông như nói với chính mình:

- Còn chúng ta, chúng ta đã làm gì cho những con người khát khao hạnh phúc đó?

Sau một hồi suy nghĩ, ông lại quay sang nói với Tin-đan:

- Học viện hoàng gia của chúng ta còn làm được ít qua, anh bạn trẻ ạ! vẫn chỉ là những buổi diễn giảng cho các tầng lớp thanh niên như thời Rum-pho sáng lập ra Học viện. Tôi nghĩ cần phải tổ chức những loại bài diễn giảng khai tâm cho trẻ thiếu niên nữa mới được. Mà là thiếu niên thuộc đủ mọi lứa tuổi! Chúng ta có thể tổ chức ngay buổi giảng đầu tiên vào ngày lễ Thiên chúa giáng sinh năm nay.

Tin-đan lễ phép trả lời:

- Chúng tôi sẽ bàn ngay để thực hiện ý kiến của giáo sư. Lễ giáng sinh năm nay sẽ có buổi diễn giảng đầu tiên cho thiếu niên.

Nhà bác học gật đầu:

- Trẻ con ít khi không hào hứng. Cứ xem chúng nó chơi đùa thì biết: có thể chơi suốt ngày không chán! Phải làm sao cho chúng cũng bào hứng trong việc nhận thức bí mật của giới tự nhiên như thế!

Ngừng một lát, ông lại nói với Tinrđan:

- Anh hãy ghi vào chương trình hoạt động: tôi sẽ đóng góp một bài diễn giảng xung quanh cây nến nhé.

Dường như khi nói câu đó, nhà bác học vĩ đại đã bắt đầu hình dung rõ rệt nội dung và cả hình thức trình bày những đề tài khoa học cho những công dân tương lai của đất nước. Ông yên tâm với những dự định của mình và ngủ đi lúc nào không biết.

4

Sức khỏe của Mai-Cơn Pha-ra-đây dần dần bình phục. Mùa xuân năm 1841, ông đã gần như đi lại được bình thường. Sáng sớm và chiều tối ông dẫn cô con gái nuôi Mẽ-ri ra vườn bách thú chơi. Ở nhà, bà vợ của ông cố ý nhờ chồng làm hết việc này việc nọ để ngăn cản không cho ông làm việc trí óc.

Nhưng mệt hôm, nhà bác học nhất định ngồi vào bàn viết, dự định bắt đầu viết lại một số suy nghĩ xung quanh vấn đề bản chất của các hiện tượng điện từ. Song ngồi mãi mà ông vẫn không sao sắp xếp lại ý nghĩ thành hệ thống được. Cứ nghĩ được ý nọ ông lại quên mất ý kia. Cuối cùng nhà bác học đành phải gác bút thất vọng.

Khi bà Xa-ra từ dưới bếp lên thì thấy nhà bác học Pha-ra-đây đang ôm đầu ngồi ủ rũ bên bàn viết. Bà sợ hãi chạy lại đặt tay lên trán chồng, vẻ dò hỏi. Ông chỉ xua tay và đau đớn thốt lên:

- Hình như tôi bắt đầu mất trí nhớ rồi! Chẳng lẽ mới năm mươi tuổi mà tôi đã phải vĩnh viễn ngừng nghiên cứu khoa học hay sao?

Bà Xa-ra ái ngại nhìn chồng. Suy nghĩ một lát rồi bà nhẹ nhàng bảo chồng:

- Hay chúng ta đi du lịch châu Âu một chuyến. Em cũng muốn tận mắt thăm cảnh hồ Giơ-ne-vơ thơ mộng mà có lần anh đã tả cho em nghe.

Thực ra bà Xa-ra chỉ hi vọng chuyến đi du lịch sẽ tạo điều kiện hồi phục sức khỏe và năng lực làm việc của người chồng thiết tha với khoa học. Và thế là cả gia đình nhà bác học đã lên đường sang châu Âu.

Lại con đường xe ngựa Luân Đôn - Pli-mút cát bụi mù mịt. Cũng những cuộc tiễn đưa, nhưng mẹ già năm nay không còn nữa, chỉ có anh Rô-bớc và chị Ê-li-da-bét thân yếu. Vẫn bến cảng Pli-mút năm xưa với những con tàu buồm vượt biển đồ sộ và những thuỷ thủ vạm vỡ dạn dày sóng gió.

Nhà bác học Mai-Cơn Pha-ra-đây bất giác nhớ lại cái cảnh người phụ tá kiêm quản gia của ngài Đê-vi năm nào cũng ở bến cảng này giữa đống đồ đạc ngổn ngang. Và trong óc ông lại thoáng hiện ra hình ảnh kiêu kỳ của bà Ê-pơ-rít Đê-vi với con chó Tổp-xi mà bà ta từng sai anh quản lý Mai-ca đi tắm cho nó.

Ông đứng tựa vào lan can boong tàu đón làn gió ấm từ biển thổi lên và mỉm cười. Của cải, tước hiệu, và cả bản thân con người cũng đều bị thời gian phũ phàng xỏa hết. Chỉ có những phát hiện của trí tuệ là không cái gì tiêu diệt được và tồn tại mãi với thời gian. Pha-ra-đây ngậm ngùi nhớ đến người thầy học và ân nhân của mình...

Ba tháng sống với thiên nhiên cùng lòng quyết tâm trở lại hoạt động khoa học đã giúp nhà bác học vượt qua được bệnh tật. Năm 1842, trở về Luân Đôn, Mai-Cơn Pha-ra-đây lại lao vào việc nghiên cứu và những bài diễn giảng. Cuối năm đó ông đã đặt xong nền móng cho một lý thuyết xuất sắc về điện từ mà sau này Giêm-xơ giéc Mắc-xoen đã phát triển lên thành lý thuyết về trường điện từ, một cơ sở không thể thiếu được của vật lý học hiện đại.

Pha-ra-đậy không chỉ quan tâm đến các vấn đề khoa học thuần túy. Mặc dầu tuổi đã cao, ông vẫn nhận làm cố vấn cho “Công ty điều khiển đèn biển” trong suốt mười ba năm. Mỗi tháng vài lần, ông lại đi xa ra bờ biển, chờ xuồng đón ra những hòn đảo nằm trơ ngoài khơi để quan sát những cây đèn biển hoạt động. Ông già ngoài năm mươi tuổi ấy vẫn nhanh nhẹn leo lên đỉnh cây đèn biển, thức suốt đêm nói chuyện với những người gác đèn và lắng nghe hơi thở của biển cả khi ngọt ngào, khi hung dữ. Kết quả những chuyến đi đó và những ngày đêm suy nghĩ tiếp theo đã làm Pha-ra-đây sáng chế ra một hệ thống thông khói cho các cây đèn biển thắp dầu hỏa thời đó, nhờ vậy đã tăng được độ sáng và tầm hoạt động của chúng.

Đánh máy :welcom1985
Nguồn: welcom1985
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 14 tháng 2 năm 2012