← Quay lại trang sách

- XVII -

Cô Mỹ nói với cô Gái:

- Chị cho cháu ở lại mấy ngày, em cho nó xuống bể. Cho nó đi chơi một thí, cho rộng tầm con mắt.

Bể đây tức là biển, gọi theo cách người quê tôi. Quê chồng cô Mỹ cách biển không xa. Nếu đi thuyền theo một con ngòi, mà người ta gọi phóng đại lên là sông, thời mất đúng một đêm. Khi có nước ròng đi còn mau hơn. Tôi thường theo anh Lịch ra bơi ở con ngòi này, nước đục ngầu phù sa và hai bên bờ chi chít lỗ cáy. Cá biển, tôm biển ngược con ngòi này lên chợ Cầu (chợ làng bác Mỹ) vẫn còn tươi. Nhìn những mẹt hải sản ê hề - những con cá thu béo lẳn, những con cá chim to bè nằm chen lấn với những con cá khoai trong như thạch, những đống tôm từ dưới thuyền đổ lên ngồn ngộn, cùng với những con mực trắng và không biết bao nhiêu loại cá loại tôm khác làm tôi hoa mắt. Tôi hình dung một biển giàu có, hào phóng với con người ở đó người ta không bao giờ coi một xâu cá rô ron là một niềm vui không bao giờ cảm thấy hạnh phúc nằm trong một bát canh sung nấu với vài con mương nhép.

- Xuống bể, tớ với mình đi tắm, khoái lắm - anh Lịch nói với tôi.

- Hai đứa không được đi tắm một mình - cô Mỹ ra lệnh - Đi đâu phải có người nhớn.

Người nhớn mà chúng tôi có trách nhiệm vâng lời là một ông lái buôn nồi đất, một ông hàng nồi. Ông cất hàng ở các lò xa, mãi gần tỉnh lỵ, bán hàng ở các chợ biển. Hết hàng ông quay về làm chuyến khác. Con đường ông đi, bằng chiếc thuyền gỗ cũ kỹ đã vá víu nhiều chỗ, chạy qua nhà cô tôi. Tôi phải chờ đợi cả tuần lễ mới gặp ông. Đó là một người đàn ông đã đứng tuổi, tóc đã lốm đốm sợi bạc, ít nói, cử chỉ chậm chạp nhưng chắc chắn. Ông cho thuyền đi bằng cách lao con sào xuống nước rồi tì vai vào đầu sào, cúi đầu xuống mà đi rất chậm từ mũi xuống lái. Không bao giờ ông lao sào hai lần.

Ông hàng nồi tới, ăn bữa cơm mời ở nhà cô tôi, lẳng lặng nghe lời cô tôi dặn dò rồi dẫn chúng tôi ra sông. ở đó ông kẹp chúng tôi mỗi đứa một bên nách bước xuống tấm ván bắc chênh vênh, và thả chúng tôi xuống thế giới nồi niêu và tiểu sành của ông.

Thuyền của chúng tôi đi giữa hai bên đồng lúa ngút tầm mắt, thỉnh thoảng lại gặp một thôn xóm sầm uất với những cây cầu tre bắc ngang. Mùa nước dâng, mui thuyền không chui qua được những cây luồng bắc giữa cầu, ông lái phải dừng thuyền, bà vợ nhảy lên bờ, nhấc một đầu luồng lên, thuyền qua rồi lại nhảy xuống. Công việc nhấc cây luồng ấy rất thú vị đối với chúng tôi bởi cái sự được nhảy lên nhảy xuống chứ không phải ngồi bó gối cả ngày dưới thuyền, nên chúng tôi tình nguyện làm thay bà vợ cũng ít lời của ông. Lúc đầu ông hàng nồi còn sợ chúng tôi ngã xuống ngòi, nhưng thấy chúng tôi nhanh nhẹn và nhảy nhót nhẹ nhàng như những con khỉ con, ông bằng lòng. ở đoạn đường đông làng mạc, ông cho phép chúng tôi đi bộ song song với thuyền.

Đi bộ cũng thích lắm. Chúng tôi gặp không biết bao nhiêu cái lạ mắt. Những người đàn ông mình trán trùng trục da đỏ như đồng hun, choãi hai chân, người ngửa hẳn về phía sau, chăm chú bện những sợi chão rất lớn một đầu cột vào cọc lim. Khi cuộn lại những sợi dây đã bện xong vào hai thanh gỗ bắt chéo, hai tay họ đánh vòng đuổi nhau như múa. Những người đàn bà chẻ những nan cót mỏng tang như giấy. Những tấm cót phơi mình trên cỏ trắng lên một màu trắng ngà, trông xa như một con đường nhỏ, sạch và đẹp kỳ lạ, chạy dài từ đầu xóm tới cuối xóm. Những cô gái se tơ để dệt lưới quay vè vè những cái sa đặc biệt không giống các loại sa tơ khác. Các cô nhích từng bước một, tay không lúc nào ngừng quay, cùng với những hàng sợi song hành mỗi lúc một xăn. Tiếng sáo diều đi theo chúng tôi ở mọi đoạn đường, những cánh diều nâu và. đen không ngừng chao đi chao lại nô rỡn với nhau trên bầu trời xanh ngắt. Diều lên rộn ràng nhất vào lúc trời chiều. Sáo vùng này đặc biệt đông đúc và nhiều loại, nhưng phần lớn là sáo ro, thứ sáo phổ cập trong trẻ nghèo. Cũng có những diều lớn hơn mang sáo bộ, tức là ba bốn sáo hoặc nhiều hơn trên một giá. Thành thử, tiếng sáo vi vu không tắt tới tận khuya. Khi trời tối hẳn, ông hàng nồi mời chúng tôi xuống thuyền ăn cơm.

Ông không chống sào nữa mà ngồi bên tay lái, cánh tay trái hờ hững đặt lên trên thanh gỗ đã lên nước bóng nhãy. Bên trên chúng tôi là bầu trời sâu thẳm, lấp lánh sao. Bữa cơm nhà thuyền gồm cá câu được trong ngòi, rau mua chợ bên đường, tất cả đều tươi, rất ngon miệng. Nhà thuyền không có chạn để thức ăn, người nhà thuyền không ăn món nào để lưa cữu. ăn xong thì sẩm tối. Ông hàng nồi thấy cần phải làm vui cho chúng tôi, ông sợ chúng tôi buồn:

- Các cậu có biết cách người ta nhìn trời xem sao mà biết được nước lên nước xuống hay không? Sao thì ở tít tắp trên kia, vậy mà nhìn nó lại biết con nước dưới đất, mới lạ. Các cậu nhìn lên kia, đấy, có thấy sao con vịt không?

- Đâu, con vịt đâu?

- Làm gì có con vịt. Là những ông sao kia kìa, đấy! Có giống con vịt không?

- Cháu chả thấy giống, có phải mấy ông sao gần nhau thành cái đường cong cong kia không, ông? - tôi chỉ tay, hỏi.

- Đúng đấy. Gọi là con vịt là do mình hình ra như vậy, là nói nó ang áng như vậy thôi, chứ đâu nó có giống con vịt thật. - Ông nói chậm, như thể khó nhọc vì tính ít nói của mình - Vậy, các cậu ạ, bao giờ cái đầu con vịt áp với sông Ngân, thức thị cái dải sao chi chít sang sáng kia kìa, như hôm nay, là nước lên. Nước lên thì vịt phải vào gần bờ môi kiếm được con tôm con tép. Nước mà xuống, sông cạn thì cái đầu nó xa ra khỏi dải Ngân hà, tựa nó phải kiếm cái ăn ở giữa sông. Nhìn quen, có quên ngày cũng biết được hôm nay mấy con nước.

- Con nước là con gì hả ông?

Ông giảng giải cho tôi thế nào là con nước. Giọng đều đều ông kể như lần giở từng trang sách. Giống bác Hai Thực, ông có một cuốn sách thú vị về bầu trời, về những chòm sao, những ngày nước lên nước xuống, những quầng những tán của trăng, từ đó ông có thể biết trước thời tiết và nhiều cái khác nữa.

- Tôi buôn nồi thế vầy đã lâu lắm. - Ông nhẩn nha kể về nghề mình, mắt ưu tư nhìn về phía mũi thuyền - Mà chỉ độc buôn nồi thôi, không buôn giống gì khác. Đi buôn, ai chả bảo để lấy lãi, phải không nào? Vậy mà không phải thế cả đâu. Tôi khác, tôi đi buôn là vì cái tính tôi thích đi đây đi đó, các cậu ạ. Ngồi một chỗ cuồng cẳng lắm. Lại nữa, tôi mê cái nghề gốm này. Cậu Thư tính tò mò, cậu mà được xem cậu cũng mê luôn. Tài lắm kia, cậu ạ. Từ hòn đất người ta vật đi vật lại cho thật nhuyễn, thật mịn, thật dẻo, đưa lên bàn xoay, thoắt cái hòn đất đã thành vại thành chĩnh, thành nồi thành chum. Bà nhà tinh lắm, đố có bịt được mắt bà. Gõ vào cái nồi một tiếng, nhiều là hai tiếng, bà phân biệt ngay tốt xấu. Cái tiếng nồi, nghe được nó phải là giỏi. Có nhiều khi đun vài bận mới biết nồi có vết nứt. Xem nồi cũng như xem tướng con người ta, y vậy. Chọn đúng cái nồi, dùng cả đời người không hỏng. Chọn sai, non.thì dễ bục, già thì dễ rạn, phí tiền thì ít, bực mình thì nhiều. Bà nhà mà cả cũng riết róng phải biết, nhưng tôi biết, bà mà cả cho phải phép, ai mua mà không cả, nhưng bà biết tôi buôn toàn loại tốt, giá có nhỉnh hơn hàng khác thật, cơ mà đáng đồng tiền. Lại nữa, biết cách dùng thì nồi đất chẳng kém gì nồi đồng, có khi còn hơn. Nấu cơm gạo tám mà nấu nồi đồng thì bì thế nào được với nồi đất, vầng cháy của nó nhai đã ròn thì chớ mà còn đáo để là ngon, ăn đến đâu khoái đến đó. Rim cá cũng phải nồi đất mới hay...

Ông say sưa với câu chuyện nồi của mình. Gió biển vuốt ve chúng tôi. Chúng tôi ngủ lúc nào không biết.

Gần sáng, ông hàng nồi đánh thức chúng tôi dậy. Đàng lái bập bùng ánh lửa, bà hàng nồi nấu cơm sáng.

Tôi nằm vắt mình qua mạn thuyền, vục nước lên rửa mặt. Những giọt nước rơi xuống cháy lên những đốm lửa xanh lục. Tôi té nước - hàng loạt đốm lửa như vậy lại hiện lên trong nước đêm, bên cạnh những vì sao bị vỡ vụn. Trò chơi cuốn hút tôi. Nhưng những đốm lửa nhạt dần. Chúng mất hẳn khi nước sông đã sóng sánh trong ánh bình minh nhợt nhạt. Cũng lúc đó tôi nghe thấy một âm thanh kỳ lạ, tường chừng rất nhiều thôn xóm quanh chúng tôi thức dậy cùng một lúc và đang hối hả xay thóc. Tôi quay mặt lại hỏi ông hàng nồi.

- Cái gì vậy ông?

- Bể đấy?

Ông nói, giọng tự hào như khoe một vật quí, của riêng mình.

Lát sau, tiếng ầm ì to dần lên, nghe trong đó như có tiếng cả một đàn chó lớn gầm gừ.

- Bể nó kêu, hả ông? - tôi hỏi.

- Không phải, sóng đấy!

Anh Lịch tôi vẫn ngủ say sau khi chuyển chỗ. Anh ngủ nhiều. Những người ngủ nhiều thường ngủ qua mất nhiều điều thú vị.

Những vì sao cuối cùng đã tắt ngấm trong màu xanh mỗi lúc một sáng thêm. Những đám mây lớn bùng cháy trên bầu trời và ở đôi nơi, chúng giống như những mảng xà cừ khổng lồ. Gió biển mát đến rùng mình. Sương đêm làm cho ván thuyền sẫm lại. Ngoài tiếng biển ra, không còn tiếng gì khác.

Thuyền của ông hàng nồi cập bến chợ biển. Sau khi gánh nồi lên cho vợ bán, ông dẫn chúng tôi ra gặp biển.

Trước mặt tôi, qua những mô đất và cồn cát lơ thơ cỏ gai, đột khởi một bức tường vĩ đại màu hung đỏ, trên đó giăng hàng loạt dải bông tơ màu trắng.

- Bể này gọi là bể Bạch Long, - Ông hàng nồi giới thiệu - vì sóng nhiều, trông tựa vảy một con rồng trắng. Cậu thấy có giống không?

Tôi có trí tưởng tượng nghèo nàn, tôi không thấy con rồng trắng ở đâu.

Anh Lịch không có ý kiến. Nói chung, anh ít quan tâm tới mọi cái. Lớn hơn tôi một hoặc hai tuổi, anh biết nhiều hơn tôi, nhưng đối với cái gì anh cũng dửng dưng, không có gì làm anh chú ý, cũng chẳng có gì làm anh ngạc nhiên, y như thể anh đang sống lần thứ hai trên mặt đất.

Càng đến gần biển thì bức tường càng thấp xuống, nằm nghiêng nghiêng như một đồng chiêm bao la ngập nước không thấy đâu bờ bến. Tôi lặng đi trước cảnh tượng hùng vĩ. Những cảm xúc hỗn độn, không có tên, tràn ngập tâm hồn bé bỏng của tôi. Trong lòng tôi mang mang nỗi bồi hồi của sự chờ đợi một cái gì, cái gì ấy sẽ đến với tôi, không phải ngay hôm nay hay ngày mai, nhưng nó sẽ đến, nhất định sẽ đến. Dường như biển đang nói với tôi lời tiên đoán về cuộc đời tôi, mà tôi thì lại không hiểu.

Tôi cởi quần áo, đi những bước rụt rè về phía những con sóng đang chạy đuổi nhau vào bờ. Biển giang cánh tay mát rượi đón tôi vào lòng, vuốt ve tôi, tung tôi lên rồi nghịch ngợm đưa tôi ra xa.

- Vào ngay, chết giờ? - anh Lịch hét lên.

Từ trên bờ, ông hàng nồi cứ để nguyên quần áo hấp tấp chạy xuống. Tôi nhìn thấy ông đung đưa trên mặt nước biển đúng vào lúc một con sóng lớn ập tới, đẩy tôi ngã xuống rồi cắp lấy tôi mang đi. Tôi uống một lúc mấy ngụm nước chát, sặc sụa.

Ông hàng nồi đã túm được tóc tôi, rồi quắp lấy tôi, giằng tôi ra khỏi tay biển và đưa tôi lên bờ. Tô lử lả ngồi bệt trên cát. Ông hàng nồi cởi quần áo cho tôi, vắt kiệt nước rồi bắt tôi mặc vào. Vừa làm việc đó ông vừa cằn nhằn:

- Đã bảo cậu không được tắm, mà cậu cứ tắm. Lại còn giỡn sóng nữa chứ. May mà tôi vớt kịp...

Cuộc gặp gỡ không êm dịu với biển, tuy nhiên, không làm tôi sợ nó. Ngược lại, cuộc gặp gỡ ấy đã đem lại cho tôi một tình yêu suốt cuộc đời đối với biển, cũng như với những khoảng không bao la.

Nhưng cuộc gặp gỡ với biển đồng thời cũng làm tan vỡ trong tôi hình dung về cuộc sống no đủ và sung sướng ở những người sống bên biển.

Chúng tôi theo thuyền của ông hàng nồi đi tới bốn năm chợ biển. ở đâu cũng tôm cá ê hề, đủ loại, nhưng ở đâu tôi cũng gặp những con người rách rưới, với nét mặt cam chịu, ủ ê, chẳng khác gì ở quê tôi.

- Cái số con người ta nó vậy. - Ông hàng nồi trả lời khi tôi hỏi - Người số sướng thì vẫn sướng, người số khổ thì vẫn khổ ở đây cũng khối người giàu đấy, cậu ạ. Người nghèo đi biển kiếm được con tôm con cá về phải bán ngay tại bãi cho người giàu. Họ trường vốn mà, cậu. Đã giàu lại càng giàu thêm. Còn người nghèo thì làm sao giàu lên được khi vớ được cái gì cũng phải bán tống bán tháo ngay để đong gạo. Biển lặng thì chớ, biển động mấy ngày liền là đói. Lại còn cái tang ra khơi rồi gặp bão, khối người không về... ở ven biển, những người đàn bà chít khăn trắng cũng nhiều chẳng kém gì ở quê tôi. Thì ra, biển cũng chẳng hào phóng. Để giành giật miếng ăn từ lòng biển, cũng như từ lòng rừng, người ta phải trả giá không thấp, có khi bằng cả tính mạng.

Ngày cuối cùng trong chuyến đi biển của tôi, tôi đã thấy biển trong cơn thịnh nộ. Những đợt sóng cao như những bức tường thành khổng lồ dâng lên ở chân trời. Sóng đập vào bờ làm thành những tiếng nổ rền. Tôi chỉ dám đứng từ xa mà nhìn. Bầu trời thấp và nhiều mây, những đám mây xám, cau có, ảm đạm; chúng biến dạng nhanh chóng với những đường viền rách rưới.

Anh Lịch kéo tôi về ngôi nhà tranh nhỏ bé, nơi chúng tôi ngủ đỗ. Ông lái không để cho chúng tôi ở dưới thuyền trong cơn bão. Con thuyền đã hết hàng vật vã trên mặt nước xám đục. Nó được cột chặt bằng mấy sợi dây chão lớn. Ông hàng nồi vẫn chưa yên tâm. Chốc chốc ông lại chạy ra xem con thuyền của mình, lo lắng cho nó như thể nó là một sinh vật yếu đuối, cần được ông che chở. - Nước lên quá thể. - Ông chủ nhà ngồi xếp bằng tròn trên phản, đứa con chốc đầu ngủ nghẹo trong lòng, ngao ngán nhìn ra ngoài trời, nơi hàng tre xơ xác vặn mình, rạp hẳn xuống đất - Cứ thế này thì chẳng còn nề muối nào nguyên vẹn, cơ khổ.

- Năm nay bão sớm. - Ông hàng nồi nói.

- Mà dữ quá. - Ông chủ nhà nói thêm.

- Thật vậy - Ông hàng nồi đồng ý - Quái, ai đi ngoài kia thế đang cơn bão?

- Có cái kho tạm mới cất bị bung vách, mấy người đi kiếm hạt muối đấy. Gặp Tây Đoan thì chết.

- Chúng nó ác quá. Người làm ra muối mà mang vài nắm về cũng bắt, cũng đánh.

- Vậy đấy, chẳng bao giờ hết khổ đâu. Tối đến, tôi ngồi đọc kinh với nhà chủ. Gió rú rít bên ngoài ngôi nhà chốt chặt mọi cửa.

"Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu...", tiếng đọc kinh đều đều, buồn bã đắm chìm trong tiếng gió. Trong bóng đêm, biển vẫn lồng lộn, gào thét.