- 3 -
Ánh ra đi thật, ông Ngọc Minh cũng không ngờ. Mặc dầu Ánh đã cho ông biết trước ý định ấy, ông vẫn tưởng Ánh chưa cần phải đi vội. Chính ông cũng đã cho Ánh biết ông sẽ dọn nhà đi ở riêng, chắc sẽ không phiền hà gì cho Ánh nữa. Vả lại, suốt tuần lễ vừa qua, trong gia đình được êm ấm, không nghe Minh Tú nói gì về việc Ánh xin thôi việc.
12 giờ khuya đi coi chớp bóng về,- Ông Ngọc Minh thích đi chơi một mình, không muốn rủ ai - ông bấm chuông gọi cửa, ngạc nhiên thấy một đứa ở khác ra mở. Cũng lại là một đứa ở gái! Con nhỏ nào đây mới lạ, có lẽ đã được Minh Tú dặn trước rồi, nên lễ phép cúi đầu chào lúc ông Giáo bước vào: ‘‘ Thưa ông!’’. Nó cũng chạc 19, 20 tuổi. Ông Giáo ngạc nhiên, nhưng không hỏi han gì cả, đi thẳng lên lầu. Sự thay đổi bất ngờ xẩy ra tối nay trong lúc ông đi coi xi nê, khiến ông buồn rầu, hoang mang. Té ra Ánh đã đi thật rồi ư? Sao Ánh không đợi sáng ngày mai có mặt ông ở nhà, để từ giã ông? Hay là lúc nãy Ánh có bị Minh Tú chửi mắng sao đó chăng? Ánh đi đâu? Ánh sẽ ở đâu? Ánh sẽ làm gì? Đời Ánh sẽ ra sao? Ông Ngọc Minh cứ tự hỏi lần vần mấy câu thắc mắc ấy, và tự trách mình sao mấy hôm nay không hỏi Ánh, lại thằm trách Ánh sao không nói gì cho ông biết trước rõ ràng.
Minh Tú cũng tuyệt nhiên không nói gì cho ông biết.
Sáng dậy, lúc ăn điểm tâm và uống cà phê có đông đủ cả nhà, Ngọc Minh hỏi cô em gái:
- Ánh xin thôi rồi hả, em?
- Dạ,
Minh Tú chỉ trả lời gọn lỏn có bấy nhiêu, Ngọc Minh cũng không hỏi gì hơn.
Chúa nhựt tuần ấy, ông dọn đi ở riêng. Trước đó mấy hôm, ông đã bảo với vợ chồng Minh Tú về ý định của ông và có cho biết ông đã sang một căn nhà mát mẻ, xinh xắn, có tiện nghi ở một khu phố yên tĩnh ngoài châu thành Sàigòn, có sân ở vườn khá rộng, có cả ga ra để xe. Ông bảo Minh Tú:
- Ánh để chiếc xe hơi của anh cho em và dượng Năm dùng.
- Còn anh Hai?
- Anh mua chiếc xe khác. Cũng một chiếc traction của một người quen bán lại. Tất cả đồ đạc trong nhà, anh để lại hết cho vợ chồng em. Anh chỉ đem đi vài ba món cần thiết thôi.
- Nhưng tại sao anh Hai cứ nhứt định dọn đi ở riêng? Nhà này là nhà của anh, sao anh không ở?
Vợ chồng em có điều gì khiến anh bất mãn chăng? Các cháu làm ồn ào hay phá phách chăng? Hay anh Hai giận em về chuyện chi?
- Không. Tại tính anh thích ở riêng biệt một mình, em cũng biết.
- Em biết tính anh. Nhưng anh cứ ở đây có được không? Để chúng em dọn đi vậy.
- Anh muốn ở một nơi mát mẻ yên tịnh hơn.
Mặc dù vợ chồng Minh Tú năn nỉ hết lời, Ngọc Minh cũng nhất định dọn đi, và sáng chủ nhật ấy vợ chồng Minh Tú và hai đứa con cùng đi với ông Ngọc Minh đến nhà mới của ông, ở tận bên Thị Nghè.
Tại đây, ông Giáo Sư Văn chương và Triết học tự sắp đặt một cuộc đời giản dị hợp theo sở thích của ông. Ngày hai buổi ông đi dạy học, và ăn cơm tiệm tại một nhà hàng lớn ở Đakao. Ông nuôi một đứa con trai chạc 14 tuổi con nhà nghèo, bà con xa gọi ông bằng anh. Thằng bé coi bộ rất hiền lành, sạch sẽ, lễ phép, do ông xuống tận quê nó ở Bến Tre đem về nuôi để giữ nhà cho ông. Mỗi tháng ông cho nó 800 đồng, tự nó nấu cơm lấy ăn một mình và tiêu xài gì tùy thích. Ông may sắm áo quần cho nó. Công việc của nó là giữ nhà, quét dọn, làm các việc lặt vặt, nhẹ nhàng, tưới nước cho mấy bồn hoa trước sân và trong vườn với một ống cao su. Thỉnh thoảng ông sai đi chỗ nầy chỗ nọ.
Ông nuôi chim bồ câu, một bầy gà năm sáu con, một cặp ngỗng và một con chó Nhật rất dễ thương.
Mỗi tuần lễ, ông để dành một buổi chiều thứ bảy tiếp các bạn hữu. Ngoài ra, ông thích sống yên tĩnh một mình, ông xem sách báo Việt nam và ngoại ngữ, và ông viết văn.
Nhưng ông không quên Ánh. Thật thế, ông đã yêu, yêu rất nhiều cô nữ sinh nghèo khổ kia vì hoàn cảnh gia đình mà phải đi ở mướn, làm thuê. Ông yêu rất nhiều cô nữ sinh thủy mị diễm kiều của ‘‘giai cấp’’ lao động, thông minh không kém một thiếu nữ nào khác, hiền dịu và đứng đắn hơn nhiều cô tiểu thư trưởng giả, quý phái của tầng lớp được gọi là thượng lưu. Ông yêu rất nhiều cô gái ‘‘hèn hạ’’ nhưng tính tình trong trắng thanh cao, đã không may sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, đem tấm thân côi cút đi làm tôi tớ cho người, chịu số kiếp đày đọa, ôm duyên phận hẩm hiu, bị mọi người khinh rẽ.
Ông muốn gặp Ánh, ông muốn Ánh về chung sống với ông, để ông đem hết cả mối tình tha thiết an ủi tâm hồn đau khổ ấy. Hơn nữa, ông muốn giúp Ánh đủ phương tiện để phát triển và trở nên một bậc nữ lưu gương mẫu của Việt Nam.
Trong số trăm nghìn cô thiếu nữ mà ông đã quen biết, ông muốn lựa chọn một người nào vừa đẹp, vừa dịu hiền, vừa đã đau khổ nhiều, để làm bạn trăm năm với ông. Vì ông cho rằng chỉ có người nào đã đau khổ mới biết đánh giá được tình yêu và cuộc đời đúng theo giá trị của nó. Chỉ có người bị hất hủi khinh khi, mới có lòng thương sâu rộng đối với người và vạn vật. Chỉ có hạng người ấy mới hiểu đời với tấm lòng nhân đạo chân chính và lòng bác ái vô biên, với những đức tính quý báu nhất của tâm hồn cao thượng.
Ngọc Minh thuộc vào hạng đàn ông coi thường những lòe loẹt bên ngoài, có lẽ vì ông đã giao thiệp rộng rãi, thường tiếp xúc với đủ hạng người và đã nhận xét chân giá trị đáng khinh hay đáng trọng của mọi từng lớp, và mọi cả nhân.
Cho nên sánh với một thiếu nữ nghèo nàn như Ánh cùng một tiểu thư khuê các, như Thanh Kiều, con gái ông Bộ trưởng, ông nhận thấy đứng về cấp bậc gỉa tạo của thành kiến sai lầm thì có phân biệt người sang kẻ hèn, nhưng đứng về phương diện chân giá trị của cá nhân thì Ánh cao quý hơn Thanh Kiều nhiều lắm.
Bỏ lớp vỏ lòe loẹt sơn quét bên ngoài, chỉ nhìn vào bẩm chất tinh thần và tâm trạng của người thiếu nữ, thì Ánh đáng được chú ý hơn Thanh Kiều, và đáng yêu hơn.
Không phải ông giáo sư Ngọc Minh có thành kiến không tốt đối với các thiếu nữ quý phái đâu, vì chính ông cũng là người của giai cấp quý phái, ông là con một vị cựu Đốc Phủ Sứ có uy danh lừng lẫy ở Lục tỉnh, có nhiều vàng bạc ruộng đất, nhà lầu, xe hơi. Chính ông lại là bậc trí thức thượng lưu ở Sàigòn, đã sống trong giới trưởng giả giàu sang hơn là các giới cần lao hạ cấp.
Nhưng có lẽ vì ông đã có sẵn một tâm hồn thanh cao, lại được hấp thụ nhiều các tư tưởng hiền triết nhân đạo của Đông Tây kim cổ, đã mục kích bao nhiêu trò giả dối bất công của xã hội, nên chi ông Giáo sư văn chương và triết học của chúng ta đã tìm thấy được lý tưởng tốt đẹp của nhân sinh mà ông muốn áp dụng trong đời sống của ông.
Trong khi ông đang tìm một thiếu nữ hợp với lý tưởng hạnh phúc và quan niệm ái tình của ông, ông đã gặp cô Thanh Kiều, con gái ông Bộ trưởng, loè loẹt xa hoa nhưng tính nết không đẹp, tâm hồn rỗng không rồi ông lại gặp Ánh, một nữ sinh nghèo đi làm thuê ở mướn, con gái một gia đình lao động, tự nhiên ông so sánh hai người...
Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy giáo sư Trần ngọc Minh thương xót cô Ánh rồi dần dần yêu cô, không quản ngại đến địa vị hèn hạ thấp kém của người thiếu nữ ấy.
Dọn về căn nhà riêng biệt nầy, và tự do thong thả sống theo lý tưởng của ông, ông giáo sư Ngọc Minh muốn có Ánh ở bên cạnh. Ông muốn dắt dẫn Ánh lên một địa vị xã hội xứng đáng hơn đối với tư cách và chân giá trị của cô. Ông muốn huấn luyện Ánh đến một trình độ văn hóa thích hợp hơn với phẩm giá tinh thần của cô. Ông muốn thử một cuộc luân lý và xã hội, thực hiện lý tưởng nhân đạo công bằng của ông, để nêu một gương sáng cho thế hệ thanh niên hiện đại, và đánh đổ thành kiến giai cấp, nguồn gốc của bao nhiêu bất công và bao nhiêu tranh đấu nguy hại hơn nữa.
Ông thành thật yêu Ánh, đối với ông là người đàn bà lý tưởng, ông cương quyết khinh thường mọi trở lực của xã hội, mọi phản đối của gia đình, nhất là của em gái ông.
Nhưng ông rất tiếc Ánh không hiểu như thế. Ánh vẫn có mặc cảm về giai cấp thấp hèn.
Ánh vẫn tự cho thân phận thấp kém của mình không xứng đáng với tình yêu quá tốt đẹp mà không bao giờ Ánh dám mơ tưởng đến. Sự Ánh âm thầm ra đi, càng khiến ông Ngọc Minh mến phục cô nữ sinh nghèo khổ, biết tự trọng và bùi ngùi thương nhớ cô.
Ông muốn gặp Ánh. Nhưng làm sao? ông không biết chỗ ở của Ánh. Hiện nay Ánh là một cô gái lạc loài, một, chiếc bóng đìu hiu đơn độc, không biết vất vưởng nơi nào... Một cánh bèo mong manh trôi giạt đi đâu trên biển đời giông tố.
Ông Ngọc Minh không ngờ tình yêu lý tưởng của ông đối với cô nữ sinh nghèo kia đã gây ra bao nhiêu sóng gió trong tâm hồn ông. Ông không ngờ nó có mãnh lực xáo động say mê đến thế. Ánh càng dè dặt xa cách, ông càng muốn gần Ánh. Ánh càng tự hạ xuống thấp hèn, ông càng muốn nâng đỡ Ánh lên cao. Ông nhớ Ánh, thương Ánh, buồn bã âu sầu vì không còn cách nào tìm Ánh lại được nữa. Ông đã tỏ với Ánh lòng mong ước sẽ còn gặp nhau, nhưng hình như cố tình Ánh muốn trốn tránh sự gặp gỡ ấy. Dù sao, ông đã nhất quyết, ông còn hy vọng...
Một hôm, ông Ngọc Minh ngồi trong văn phòng ông Hiệu trưởng một tư thục lớn ở Sàigòn, quen thân với ông, một nữ sinh ôm cặp bước vào. Ông Hiệu trưởng đang nói chuyện vui vẻ với ông Ngọc Minh, vừa trông thấy cô học trò, liền chau mày gắt gỏng:
- Cô muốn gì nữa cô Toàn?
Nữ sinh rưng rưng nước mắt, đáp:
- Thưa thầy em còn bốn tháng nữa đi thi, em xin thầy rộng lượng cho em được tiếp tục học cho đến kỳ thi. May ra em đỗ, em sẽ rán kiếm việc làm, em xin cam đoan sẽ trả tiền học phí, em mắc nợ nhà trường... Nay, thầy đuổi em, tội nghiệp em...
Ông Hiệu trưởng trừng mắt ngó cô:
- Cô thiếu nhà trường 3 tháng tiền học rồi, chưa trả được xu nào. Nay cô muốn học cho tới kỳ thi nữa sao? Hừ!... Đâu có được! Cô muốn tiếp tục học cho đến kỳ thi cô về nói với ba má cô phải đóng đủ 3 tháng tiền cũ cho nhà trường đã. Tôi đã tử tế cho cô thiếu ba tháng, nay tôi không thể nào cho cô thiếu được nữa. Nếu cô không có tiền thanh toán dứt khoát ba tháng nợ cũ, buộc lòng tôi phải đuỗi cô ra khỏi trường sáng nay, cho đến khi nào cô trả đủ sẽ được trở lại học. Chỉ có thế thôi.
- Thưa thầy, em xin thầy cứ cho em học, rồi cuối tháng nầy má em hốt được hụi, má em sẽ đến trả thầy.
- Không được. Cô thiếu ba tháng là 900đ. Chừng nào má cô hốt hụi trả đủ số tiền đó cho nhà trường thì tôi cho cô học lại. Nếu trò nào cũng không trả học phí như cô thì tiền đâu tôi trả lương cho các giáo sư?
Cô nữ sinh khóc lóc, van xin:
- Thưa thầy...
Ông Hiệu trưởng cắt ngang:
- Không có thưa gởi gì hết ráo. Cô đừng có năn nỉ khóc lóc vô ích. Cô không có tiền đóng tiền trường thì cô đừng đi học, chớ có gì mà khóc lóc? Thôi, đi về biểu ba má cô vay mượn làm sao cho có tiền trả học phí, thì tôi cho học lại. Còn không thì thôi!
Cô nữ sinh không còn biết năn nỉ cách nào được nữa, đành chào ông Hiệu trưởng và ông khách lạ, rồi xách nón ra về. Ông Hiệu trưởng quay lại ông Ngọc Minh:
- Đó, anh coi. Ba tháng nay không đóng học phí mà muốn trây cho đến kỳ thi nữa, để quịt cho dễ.
Ông Ngọc Minh bảo:
- Kể cũng tội nghiệp, tại nhà người ta nghèo.
- Nghèo thì ai biểu đi học? Trường mình có phải mở ra để dạy bố thí cho nhà nghèo đâu? Tháng nầy tôi đã đuổi ba đứa như thế rồi.
- Cô ấy học có khá không?
Hình như ông chủ trường nầy không có theo dõi tình hình học tập của học sinh, nên ông không trả lời được. Ông chỉ nhún vai:
- Tụi nó học khá hay không, cái đó không quan hệ gì đến nhà trường cả. Tôi chỉ cần đến tháng chúng nó đóng đủ tiền học cho tôi thôi. Đứa nào chăm học thì thi đỗ. Lười biếng thì thi rớt, mặc kệ chúng nó, hơi đâu mình quan tâm anh!
- Nhưng tôi tưởng mình cũng nên săn sóc và cổ võ sự học của các em học sinh. Nhà trường có nhiều em thi đậu thì mới có danh tiếng chớ. Đó là một quảng cáo có lợi cho anh.
- Tống cổ năm ba đứa cũng không hại gì đâu, anh à.
Ông Chủ trường gọi thầy thư ký:
- Con nhỏ đó học lớp nào?
Thầy ký lấy sổ ra coi:
- Dạ thưa Đệ tứ A, tháng 6 nầy thi.
- Tên là gì?
- Dạ, Phạm thị Toàn.
- Mấy tuổi?
- Dạ, mười tám tuổi.
- Nhà nó ở đâu?
- Dạ, ở 158/28/6D đường Nguyễn bĩnh Khiêm.
- Nó học có khá không?
Thầy ký lấy quyển sổ khác lật qua lật lại vài trang, dò các danh sách, rồi chậm rãi đáp:
- Dạ tháng chín cô ấy đứng thứ 4, tháng 12 tây đứng thứ 3, tháng 3 vừa rồi cũng đứng thứ 3... Pháp văn và Anh văn cô ấy giỏi, Toán, Lý hóa, cô cũng được vào hạng khá...
- Nó còn thiếu tiền học từ tháng nào?
- Dạ... từ tháng giêng.
Ông chủ trường lắc đầu ngó ông Ngọc Minh:
- Đó, anh coi!
Rồi ông đếm trên lóng tay: Janvier, Février, Mars... Avril... 4 tháng.
Quay lại thư ký, ông trợn mắt bảo:
- Thế là 4 tháng, sao nó bảo có 3 tháng?
- Dạ, tháng Avril mới bắt đầu.
- Anh này thật lẩm cẩm! Tiền học trả đầu tháng à? Nay là 10 Avril, phải tính cả tháng chớ? Nghĩa là nó còn thiếu 4 tháng học phí, 1200$. Phải không?
- Dạ, phải.
- Chiều nay cậu tìm đến nhà nó đòi món nợ đó cho tôi nghe? Biểu ba má nó phải trả đủ tiền nhà trường mới có thể để nó tiếp tục học cho đủ chương trình để đi thi: 1 tháng 300, là vị chi 1200 đồng!
- Dạ thưa ông, cháu đánh mấy cái thư để ông ký, rồi chiều nay cháu mang thư đến nhà cô ấy.
- Không cần thư từ gì cả cậu cầm 4 cái biên lai đến đòi tiền, là đủ rồi. Nghe?
- Dạ.
Ông Ngọc Minh đứng dậy, bắt tay ông Hiệu trưởng:
- Thôi xin phép anh nhé.
- Anh ngồi chơi đã.
- Hôm khác. Gần đến giờ tôi phải về trường Đại học kẻo trễ.
Ông Ngọc Minh ra xe, mở cửa xe vào ngồi chỗ tay lái. Nhưng trước khi lái xe đi, ông móc túi lấy một quyển sổ con và cây bút máy, chăm chỉ ghi mấy dòng sau đây:
Phạm thị Toàn
158/28/6D. Nguyễn bĩnh Khiêm.
Trưa về nhà, ông liền lấy giấy viết bức thư sau đây:
Thị Nghè, 10 – 4 -1965
Cô Phạm thị Toàn
Mời cô vui lòng quá bộ đến nhà tôi vào khoảng 2 giờ chiều nay về vụ tiền học phí cô thiếu trường Đạo Đức. Cô có thể đi với cậu nhỏ này để khỏi mất thì giờ kiếm nhà.
Thành thật chào cô
NGỌC-MINH
Giáo sư Đại Học
T.B.- Giấy này xem xong yêu cầu cô xé đốt ngay đừng để ai coi, bất cứ ai.
Ông bỏ thư vào phong bì, đề tên và địa chỉ, xong gọi cậu em nuôi 14 tuổi:
- Chút ơi!
Chút đang ngồi giỡn với con chó Nhật ở ngoài sân, lên tiếng:
- Dạ.
Chút vào. Ông đưa thư:
- Em ra Dakao, tìm địa chỉ nầy, đưa thư cho cô nầy.
- Dạ.
- Cô sẽ hỏi em: ‘‘Ông Ngọc Minh là ai, mà tôi không
Biết’’, thì em nói sáng nay lúc cô vào Văn phòng ông Hiệu trưởng trường Đạo Đức, để nói về tiền học phí, thì có anh đang ngồi nói chuyện với ông Hiệu trưởng, Anh quen với ông Hiệu trưởng.
- Dạ,
- Cô xem thư xong, nếu cô muốn đến ngay thì em bảo cô đi với em.
- Dạ.
- Em đi lẹ, về kịp 2 giờ, để 2 giờ 30 anh còn đi dạy học nhé.
- Dạ.
Ông đưa 20 đồng cho Chút đi taxi hai chuyến.
Ông Ngọc Minh có tính quen buổi trưa không ngủ. Ông nằm võng - ông thích nằm võng lắm - hoặc nằm ghế xích đu bằng mây, đọc báo.
Đọc hết 3 tờ báo hằng ngày, Việt, Anh, Pháp, ông ngó lên đồng hồ vừa đúng 2 giờ. Như thường lệ, ông đi tắm 15 phút sau ông trở vào phòng thay đồ để sửa soạn đến trường. Ông sốt ruột vì Chút chưa về. Mãi đến gần 2 giờ rưỡi ông mới nghe tiếng xe taxi đổ trước ngõ, rồi Chút chạy vào:
- Thưa anh, em kiếm không được nhà cô ấy, Ern có tìm thấy đường Nguyễn bĩnh Khiêm. Nơi số nhà 158 có cái ngõ hẻm, em vô trong nhưng tìm hết một dãy nhà lụp xụp ở đó người ta để số lung tung beng, mà không có số 28. Rồi vô trong một khúc nữa lại có hai ba đường hẻm khác, có số nhà 28 là tiệm thợ giặt nhưng không có số 28/6D.
- Em đã đi hết các đường hẻm đó chưa?
- Dạ chưa, vì em ngó đồng hồ trong nhà người ta, thấy đã hai giờ em lật đật trở về.
- Thôi được. Đưa cái thư lại, anh sửa một chữ.
Chút rút thư trong túi ra đưa ông Ngọc Minh. Ông lấy bút sửa lại con số 2,(2 giờ chiều), thành ra 5 giờ, rồi bảo Chút:
- Anh đi dạy học, em khóa cửa ngõ thật kỹ, rồi đi tìm lại nhà cô Toàn; Mời cô 5 giờ đến. Thế nào em cũng phải tìm ra.
Gần 4 giờ, Chút tìm thấy trong một xó kẹt, sau một dẫy nhà không số, có một căn nhà thấp lè tè lợp tôn vách ván, trên vách có viết nguệch ngoạc bằng hắc ín mấy con số 158/28/6D. Nó dò từng con số, đúng y như trên bao thư. Nhưng nó còn do dự, không hiểu tại sao căn nhà nầy lại ghi con số dài lê thê và rắc rối như vậy?
Chút đi qua đi lại hai ba vòng, dòm vào nhà hơi tối tăm, không thấy ai. Chút đánh bạo bước vào, gõ trên bàn hai tiếng nho nhỏ. Không nghe ai trả lời. Sau bàn có treo một bức mành mành cũ rích lại còn che thêm một màn vãi, ngăn cách nhà sau.
Chút sợ sệt, rón rén bước vào nhà sau. Nó trông thấy hai đứa nhỏ, một đứa chị chừng 8 tuổi và một đứa em mới sanh chừng sáu bảy tháng, nằm ngủ ngon lành trong một chiếc võng treo giữa nhà.
Chiếc võng đã rách hai ba nơi, lại lót một mớ tả rớt lòng thòng và ướt nhẹp, cạnh một vũng nước đái ngay dưới đáy võng.
Chút bịt mũi vì mùi nước đái của con nít xông lên khai ngòm. Bên cạnh võng, sát vào vách ván hở những đường dài từ trên xuống dưới, và dán một lớp giấy nhựt trình cũ đã rách tét nhiều nơi, kê một chiếc giường và một cái bàn để đầy sách vở. Trên giường một cô thiếu nữ mặc áo cánh trắng, quần đen đang nằm xây mặt vô vách, khóc thút thít.
Chút đứng từ nãy giờ nơi cạnh đầu võng mà cô không hay biết gì cả. Chút không biết có phải cô học trò tên là Phạm thị Toàn đó không? Nghe tiếng cô khóc, Chút không dám gọi. Nhưng thấy lâu quá, Chút gọi đại:
- Chị ơi, chị!
Thiếu nữ giựt mình quay mặt ra. Thấy cậu nhỏ nào lại lật đật ngồi dậy lấy khăn lau nước mắt hỏi:
- Em là ai?
Chút ngượng nghịu đáp:
- Em tên là thằng Chút.
Thiếu nữ ngơ ngác, hỏi:
- Em hỏi ai?
- Dạ, chị có phải là chị Phạm thị Toàn không?
- Nhưng em ở đâu? Hỏi tôi có việc chi?
- Dạ có cái thư.
- Cái thư của ai?
Nhìn thấy cậu nhỏ cầm một cái thư trong tay, thiếu nữ liền đứng xuống đất, đi chưn không, đến gần cậu. Cậu đưa thư, những mắt ngó cô trân trân:
- Chị có phải là chị Phạm thị Toàn không?
- Phải.
Thiếu nữ cầm thư, xé ra coi. Coi xong, cô rất ngạc nhiên, hỏi:
- Ông Ngọc Minh nào đây?
- Anh của tui. Anh làm Giáo sư dạy trường Đại học.
- Tôi đâu có quen biết ông?
- Anh tui nói hồi sáng này chị vô trong văn phòng ông chủ trường Đạo Đức nói về tiền học phí, thì có anh tui ngồi với ông Đốc. Anh tui có thấy chị.
Cô Toàn đứng tần ngần một lúc lâu. Cô nhớ lại lúc sáng, trong văn phòng Hiệu trưởng cô có thấy ruột người khách lạ. Có phải đó là ông giáo sư Ngọc Minh, người viết bức thư này chăng? Nhưng ông giáo sư Ngọc Minh mời cô 5 giờ chiều nay đến nhà ông có chuyện chi? Sao lại nói về tiền học phí? Thật là một chuyện lạ, cô không hiểu. Cô hỏi cậu bé:
- Sao ông biết nhà tôi ở đây mà gửi thư?
- Em đâu có hiểu chuyện đó. Em cứ theo địa chỉ đi kiếm nhà chị từ hồi trưa đến giờ.
- Ông giáo có dặn gì em nữa không?
- Dạ không. Anh giáo em biểu nếu chị đi liền bây giờ thì em đưa chị đi.
Toàn suy nghĩ một lúc khá lâu. Xong, cô ngó đồng hồ, chiếc đồng hồ cũ kỹ để trên bàn, tiếng kêu cạch cạch thật to. Đã 4 giờ 25.
Cô hỏi cậu bé:
- Nhà ông Giáo sư ở xa không em?
- Dạ, ở Thị Nghè.
- Nhà ổng có ai không?
- Dạ không có một mình em.
- Chớ bà Giáo ở đâu?
Chút lắc đầu:
- Anh Giáo chưa có vợ mà.
Cô Toàn lại do dự, không muốn đi. Ai lại mình là con gái mà bỗng dưng đến nhà một người đàn ông lạ và chưa có vợ?
Cô thật không hiểu ông giáo sư Ngọc Minh này là ai và ông mời cô đến làm gì? Chắc là ông biết cô thiếu bốn tháng tiền học của trường Đạo Đức, vì nếu đích là ông ngồi trong văn phòng ông Đốc trường sáng nay thì ông đã nghe rõ hết câu chuyện rồi. Hay là... ông thấy mình khóc lóc năn nỉ ông Đốc, rồi ông thương hại, xin giùm cho mình được học đến kỳ thi? Có lẽ vậy chăng? Nhưng nếu ông có lòng tốt, sao hồi sáng ông không xin giùm, để bây giờ ông kêu mình tới nhà ông?
Toàn đọc đi đọc lại bức thư năm bảy lần. Cô nhận thấy lời thư rất là nhã nhặn, đứng đắn. Giọng nói thành thật, cô có thể tin được. Vả chăng ông là một ông giáo sư Đại học theo lời cậu em này nói, thì tức nhiên là một người đàng hoàng, cũng như bậc thầy của minh, chẳng lẽ ông phỉnh gạt mình điều chi?
Với tin tưởng ấy, và ở trong hoàn cảnh của cô, Phạm thị Toàn nhất định đi thử coi ông giáo sư Ngọc Minh nói chuyện chi. Biết đâu ông xin giùm cho cô được tiếp tục đi học cho đến kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp thì may phước cho cô biết mấy! Cô bảo cậu bé:
- Em chờ tôi mặc áo rồi tôi đi với em.
- Dạ.
Cô Phạm thị Toàn ra sân sau rửa mặt, trở vào chải tóc lại đàng hoàng, kéo tấm màn che giữa bàn học và chiếc giường của cô, để thay áo xong. Một lúc, cô vén màn bước ra.
Cô mặc quần vải trắng, áo dài trắng, đơn sơ, sạch sẽ. Mái tóc huyền uốn gọn gàng, không kiểu cách, khuôn mặt trái xoan, diễm kiều thùy mị, đôi má ửng hồng và một làn sóng mũi dọc dừa đều đặn. Đôi mắt hơi buồn, đẹp lạ lùng. Ngực nở tròn trịa, vun vén, dưới làn áo tinh khiết ôm dịu dàng vào thân mình với những đường cong điều hòa tuyệt mỹ. Cô khẽ cúi xuống giường lấy ra đôi guốc mà cô cất riêng để mang đi học, vì ở nhà cô đi chưn không.
Cô xỏ vào đôi guốc hai bàn chân mũm mỉm. Cô đặt năm ngón tay búp măng nõn nà và dịu dàng trên đầu võng, gọi em:
- Mùi ơi! Mùi!
Em bé 8 tuổi giựt mình, tỉnh dậy. Cô bảo:
- Dậy coi nhà, chị đi đây, em. Chút nữa má vồ, em nói chị đến trường, nghe em?
- Dạ.
Cô Toàn lấy chiếc nón lá treo trên vách ván, nhưng thấy nắng ngoài đường đã dịu, cô treo nón lại, đi đầu trần.
Ra đường lớn vừa có taxi. Chút vẫy gọi Cô Toàn không ngờ từ nhà cô đến nhà ông Giáo ở Thị Nghè, chỉ có 6 đồng bạc xe không đầy 5 phút. Chút móc túi lấy ra chìa khóa mở ngõ, hai cánh cửa sắt quấn lại ba vòng, với một ổ khóa bự móc chặt vào mối dây. Cặp ngỗng đang đi đủng đỉnh kiếm ăn trong vườn, cất tiếng oác oác. Con chó Nhật bổn trong nhà cũng sủa lên gâu gấu, Chút đưa cô Toàn vào sân, rồi lấy chìa khóa khác mở cửa, mời cô vào phòng khách.
Cô Toàn do dự không vào. Cô khẽ hỏi nó:
- Ông Giáo đâu?
- Dạ, anh Giáo dạy họa, 5 giờ mới về,
Tò mò, cô Phạm thị Toàn đứng ngoài hè ngó vào nhà thấy bộ xa lông bằng mây kiểu tối tân, giản dị nhưng có mỹ thuật, trang hoàng. Vách tường phòng được quét vôi xanh nhạt, một màu xanh mát dịu, treo hai bức hình lớn lồng kiến, đóng khung vàng. Cô ngó dòng chữ để dưới mỗi bức là chân dung vua Duy Tân và cụ Phan Bội Châu.
Một bình hoa lay dơn trắng độ mười cành xoè ra trên mặt một chiếc tủ thấp kê sát vách tường trong. Một tấm màn nhung xanh, che cửa thông ra phòng sau.
Chút để cô Toàn đứng đấy. Nó đi tưới hoa. Đứng một lúc buồn, và lo lắng hoang mang, cô Toàn bước ra sân, lân la gần cậu bé tưới nước, coi bộ cậu ấy lanh lợi, và hiền lành dễ thương. Cô hỏi:
- Em có bà con gì với ông giáo sư không?
- Em là em của ảnh.
- Em ruột hay em thế nào?
- Em con bà cô.
- Sao em không đi học?
- Em ở Bến Tre lên ở nhà coi nhà cho ảnh.
- Em còn nhỏ tuổi, sao ông giáo sư không cho em đi học?
- Anh dạy em học ở nhà, em cũng biết chữ vậy chớ bộ!
- Ông Giáo sư ở đây một mình với em, hay có ai nữa không?
- Dạ, không.
- Ông không có gia đình sao?
- Ông có em gái lấy chồng ở trên Sàigòn,
- Ai nấu cơm cho ổng ăn?
- Anh giáo em ăn cơm tháng ngoài tiệm. Em cũng ăn với ảnh...
Một lúc sau, có tiếng xe hơi bóp còi. Chút bỏ ống cao su xuống, khóa vòi nước, chạy ra mở rộng hai cánh cửa ngỏ để xe ông Ngọc Minh lái vào thẳng ga ra. Cô Toàn thấy đúng là ông khách lạ ngồi trong văn phòng ông Đốc trường của cô ban sáng.
Ông Ngọc Minh cho xe vào ga-ra, tắt máy xong, mở cửa xe thong thả ra sân. Ông tiến đến cô nữ sinh đứng khép nép dưới dàn hoa antigone, cạnh một bụi hoa sim gần bực tam cấp lên cửa, Cô khẽ cúi đầu chào, bẽn lẽn, sợ sệt. Với giọng nói lúc nào cũng dịu dàng và chậm rãi, ông hỏi cô:
- Chào cô Toàn. Cô đến đấy đã lâu chưa?
Toàn ngượng nghịu:
- Dạ thưa ông, em mới đến.
- Mời cô vào.
Rất nhã nhặn, theo phép lịch sự Âu Mỹ, ông nhường bước để cô đi trước. Nhưng cô Toàn, một nữ sinh 18 tuổi ít giao thiệp với người lớn, nên chưa quen với phép xã giao ấy. Cô tưởng ông giáo đứng lại nhìn cô. Mắc cỡ, cô cúi mặt xuống. Ông Ngọc Minh bảo:
- Mời cô đi trước.
Toàn sợ mình đi trước như thế thì vô lễ. Ông Ngọc Minh đành nhã nhặn nói:
- Xin lỗi cô...
Ông bước lên bực tam cấp, vào phòng khách. Cô Toàn rụt rè đi theo sau. Ông mời cô ngồi ghế.
Ông vào ngay câu chuyện:
- Xin lỗi cô, tôi mời cô đến đây e làm phiền cô.. Nhưng vì sáng nay, ngẫu nhiên tôi thấy cô là một nữ sinh chăm học, lỡ thiếu mấy tháng tiền trường mà bị đuổi... Cô học ở trường Đạo Đức đã lâu chưa?
- Dạ thưa ông, em học từ lớp đệ thất đến năm nay là đệ tứ.
- Bốn năm, cô vẫn trả đủ tiền học phí?
- Dạ, thưa ông, nhà ba má em nghèo, nhưng ba má em cũng rán cho em đi học cho hết Đệ nhứt cấp. Nhưng bây giờ em phải thôi,
- Ba má cô làm nghề gì?
- Dạ thưa ông, Ba em làm phu xe cyclo máy. Má em bán cháo lòng ở chợ Đakao. Mấy tháng nay ba em hay đau ốm hoài, má em không đi làm được nên nhà em túng tiền.
- Bao nhiêu công lao đèn sách nay đã sắp đến kỳ thi không lẽ cô đành bỏ dở dang việc học?
Toàn cúi mặt làm thinh, hai ngón tay mân mê tà áo trắng,
Ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Sáng nay, do sự ngẫu nhiên, tôi có dịp thấy rõ hoàn cảnh của cô như thế, tôi muốn nói với ông Hiệu trưởng để cô tiếp tục việc học cho đến ngày thi. Nhưng... rất tiếc, tôi không thể nói được, vì ông Hiệu trưởng với tôi chỉ là bạn sơ giao, chưa quen nhau nhiều. Vì thế nên tôi rất ái ngại cho cô... Tôi thấy cô chăm học lắm, và theo sổ sách nhà trường như tôi được biết sáng nay, thì cô rất thông minh, cô thuộc hạng học giỏi nhất trong lớp. Chỉ tại cô thiếu mấy tháng tiền học phí... Nay tôi mời cô đến để tôi giúp cô. Sáng ngày mai cô đến trả cho nhà trường 4 tháng tiền cô còn thiếu, và cô cứ tiếp tục học. Tôi giúp cô mỗi tháng các tiền phí tổn để cô yên trí mà đeo đuổi việc học cho đến ngày cô đi thi Trung học. Cô khỏi phải bận tâm đến chuyện tiền nong nữa.
Toàn ngồi lặng lẽ, cứ cúi mặt xuống, Nhưng cô không nén được cơn bùi ngùi xúc động, bỗng dưng hai ngấn lệ rưng rưng trên mi mắt cô, từ từ rơi xuống má.
Thấy thế ông Ngọc Minh đứng dậy, vào nhà trong, Ông muốn tránh đi, cho cô Toàn khỏi ngượng.
Toàn ngồi một mình, lấy khăn mu soa khẽ lau mấy dòng nước mắt. Nhưng cô không nén được lòng cô bâng khuâng xao xuyến. Cô không ngờ ông giáo sư Ngọc Minh mà cô chưa hề quen biết, có lòng nhân từ độ lượng, giúp đỡ cô như thế.
Cô trầm ngâm suy nghĩ. Thật trong thâm tâm cô rất vui mừng vì đã có người giúp cô ăn học đến nơi đến chốn, trong lúc sáng nay bị đuổi ở trường về, cô đã thối chí, tuyệt vọng rồi. Cô đã khóc gần suốt ngày hôm nay từ sáng đến chiều, buồn bực, chán nản, bỏ cả buổi cơm trưa! Bỗng dưng sao lại có một người tử tế, hiền lành, gọi cô đến để giúp cô! Nghe những lời nói thương xót thành thật, và xét cử chỉ khiêm tốn tao nhã của ông giáo sư Ngọc Minh, cô cảm động lắm. Nhớ lại thái độ của ông chủ
Trường Đạo Đức lúc sáng nầy, cô lại càng tủi nhục đau đớn.
Cô đã lau mấy ngấn lệ, nhưng ở đâu trong đôi mắt sầu mơ nọ lại trào ra, chảy trên đôi má, một giọt, hai giọt, lặng lẽ từng dòng rơi xuống áo.
Cô Phạm thị Toàn không còn ngượng nữa. Ông giáo sư Ngọc Minh tuy mới biết cô chưa đầy một tiếng đồng hồ, nhưng đã hiểu rõ nỗi lòng cô rồi. Cô còn che giấu sao đựợc nữa?
Bây giờ đây cô coi ông Ngọc Minh như một bậc ân nhân ngẫu nhiên mà gặp, cô không biết nói một lời gì để tỏ hết nỗi lòng biết ơn sâu xa thành kính của cô. Không nén được cơn xúc động quá mạnh, Toàn gục đầu xuống thành ghế, khóc nức nở...
Nghe tiếng giày của ông giáo sư từ nhà trong bước ra, cô Toàn lau nước mắt. Ông Ngọc Minh đến gần, trao cô một bức thư:
- Có cầm lấy, và sáng ngày mai cô cứ vui vẻ đi học lại như thường. Tôi chỉ yêu cầu cô có một điều thôi. Việc tôi giúp đỡ cô không cô gì lợi dụng cả, và tôi mong cô đừng cho một người nào hay biết. Số tiền trong bao thư nầy, đủ để cô trả hết 4 tháng học phí mà cô còn nợ nhà trường, thêm chút ít để cô mua sắm sách vở hoặc các món chi tiêu cần thiết hằng ngày. Từ nay cho đến kỳ thi, cứ mỗi tháng tôi sẽ gởi giúp cô đủ số tiền cô cần dùng để đi học. Nếu cô ngại đến đây, thì tôi gởi em nhỏ của tôi cầm đến nhà cô...
Cô nữ sinh Phạm thị Toàn không dám cầm bao thư. Cô ái ngại, vì sự giúp đỡ của ông Ngọc Minh là một việc cô thật không ngờ. Cô không biết cô có nên nhận lãnh, hay không, và nếu nhận lãnh thì sao?
Toàn cúi mặt xuống, suy nghĩ rất lâu. Ông Ngọc Minh, nói tiếp:
- Nếu cô có thắc mắc điều chi, cô cứ nói thiệt tôi nghe. Cô sợ tôi sẽ lợi dụng cô về phương diện nào chăng?
Toàn khẽ đáp:
- Dạ, thưa ông, không.
- Có ngại rằng tôi sẽ đòi lại số tiền nầy chăng?
- Dạ không.
- Hay là cô sợ mang ơn tôi, rồi sau nầy cô khó xử cách nào với tôi chăng?
Toàn làm thinh, ông Ngọc Minh nói tiếp:
- Số tiền nầy không có là bao. Cô đừng nghĩ rằng đây là một ân huệ. Chỉ là một sự giúp đỡ rất thường, không có chi đáng để cô phải ái ngại. Tôi không đòi hỏi hoặc bắt buộc cô phải hứa hẹn hay cam kết một điều chi. Sự giúp đỡ của tôi hoàn toàn vô điều kiện. Đến tháng sáu cô thi đỗ, ấy là tôi vui mừng. Cô thi đỗ ấy là cô sẽ trả ơn cho tôi đó. Nói cho cùng, dù cô sẽ thi rớt chăng nữa, tôi cũng không buồn, vì cô đã cố gắng học hành, đó là xứng đáng với sự giúp đỡ của tôi rồi. Cô nên tin rằng tôi không bao giờ tiếc sự giúp đỡ của tôi đâu.
Toàn ngửng mặt lên nhìn ông Ngọc Minh. Ông hơi bối rối, vì đôi mắt còn rớm lệ của cô trông như hai viên ngọc huyền lóng lánh. Nỗi buồn và đau đớn của cô càng làm tăng thêm vẻ đẹp thùy mị diễm kiều của cô nữ sinh 18 tuổi. Ông Ngọc Minh muốn tránh những cảm xúc mạnh trong phút hội kiến, ông quay lại bàn xa lông lấy gói thuốc, rút ra một điếu chăm hút. Ông quay lại cô nữ sinh đưa cô bao thư. Toàn vẫn chưa dám cầm và lễ phép nói:
- Thưa ông, ông có lòng cao thượng giúp đỡ em, em xin cảm tạ lòng ông... Nhưng em ngại...
- Cô ngại điều chi?
- Ông chưa biết em... Em cũng lần đầu tiên được hân hạnh đến đây, em không dám đường đột...làm phiền ông,
- Cô không làm phiền gì tôi cả. Miễn là cô đừng nghi ngờ lòng thành thật của tôi thôi.
- Dạ em dâu dám nghi ngờ... Ông quá tốt với em như thế nầy, em chỉ ngại là không xứng đáng với tấm lòng nhơn từ cao quý của ông thôi.
- Cô đừng ngại gì hết. Cô nghe lời tôi, cầm bao thư nầy, rồi cứ vui vẻ tiếp tục việc học.
Ông Ngọc Minh trao bao thư tận tay cô Toàn, cô không thể từ chối được nữa, Cô bẽn lẽn cầm lấy:
- Dạ thưa ông, em xin cảm tạ tấm lòng độ lượng của ông. Em tiếp tục đi học được là nhờ ơn của ông, em không bao giờ dám quên.
- Cô cố gắng học tập, thế là tôi mừng.
Phạm thị Toàn tay cầm bao thư, cúi đầu từ giã ông Ngọc Minh, ông nhã nhặn và vui vẻ đưa cô ra đến tận cổng.
Đi bộ từ Thị Nghè về, cô Phạm thị Toàn, suy nghĩ lung lắm. Lên cầu Thị Nghè, cô vừa đi vừa mở bao thư ra coi: hai ghim giấy hai ngàn đồng và một xấp lẻ năm trăm đồng. Cô cất lại trong bao thư, bỏ vào túi. Cô mừng như trúng số độc đắc. Từ trước đến giờ, chưa lần nào tự nhiên cô đuợc số tiền lớn lao như thế. Cô tính thầm: 4 tháng tiền học còn thiếu là 1.2008$ Dư 1300$, cô mua mấy quyển sách đang cần. Vẫn còn dư hơn 1000$. Cô may vài áo trắng để đi học vì áo cô đã cũ hết. Lòng thơ lai láng bồi hồi, cô nữ sinh mong về mau đến nhà để viết bức thư tỏ hết cả nỗi lòng tri ân sâu xa của cô mà lúc nãy trước mặt ông Ngọc Minh, cô quá xúc cảm nghẹn ngào không nói được nên lời. Cô vẫn miên man nghĩ ngợi không hiểu sao ông Ngọc Minh lại rất tử tế với cô như thế. Cô cho rằng trên đời không làm gì có được hai người như ông giáo sư Ngọc Minh. Thật ra, ông không biết cô là ai, gia đình của có, ông cũng hoàn toàn không biết một tí gì. Ông chỉ mới thấy cô lần đầu tiên trong văn phòng ông Hiệu trưởng trường Đạo Đức và cũng lần đầu tiên ông biết cô là con gái nhà nghèo thiếu trường bốn tháng tiền học. Thế thôi. Còn đối với ông cô cũng chẳng biết gì hơn!
Dù sao, cô không một chút nghi ngờ lòng thương người của ông. Tiếp xúc với ông đầu tiên, cô đã nhận thấy nơi cử chỉ của ông hoàn toàn là một người đứng đắn, và cao thượng. Nhớ lại đôi mắt của ông nhìn cô với một vẻ hiền lành và giọng nói của ông rất dịu dàng, chân thật, cô nữ sinh thấy lòng mình hồi hộp nao nao...
Cô tin rằng sự gặp gỡ ngẫu nhiên nầy là một may mắn, đẹp đẽ nhất đời cô... Không có gì khiến cô phải lo ngại nó bất ngờ quá, nên cô bồi hồi tấc dạ. Cô vui sướng không siết kể. Trong tuổi thiếu nữ bần hàn khổ nhục của cô, chưa có lần nào cô cảm thấy đời sống vui tươi tưng bừng như bây giờ, cô hân hoan lắm.
Về đến nhà, cô vội viết bức thư sau đây:
Đakao, ngày 10-5-1956,
Kính thưa ông Ngọc Minh,
Giáo sư Đại học, Saigon.
Em rất cảm động về sự giúp đỡ vô cùng quí báu của ông. Em xin nguyện với ông rằng em sẽ hết sức cố gắng học hỏi mong thi đậu T. H. Đ.N.C. kỳ nầy, để xứng đáng với lòng thương xót cao thượng của Ông. Sự nâng đỡ của Ông là một an ủi lớn lao không siết kể cho kẻ nữ sinh gần tuyệt vọng. Em không biết nói gì hơn để tỏ lòng tri ân sâu rộng của em đối với bậc ân nhân cao quí, nhưng em sẽ chăm lo trau dồi học vấn và tính nết, để không phụ lòng quảng đại của Ông.
Kính xin Ông nhận nơi đây chút lòng tôn kính chơn thành và, vô cùng cảm kíck của em.
Kính thư
Phạm Thị Toàn