← Quay lại trang sách

Chương 2 KAZ

Số tiền lão Hertzoon để lại cho Kaz và Jordie cạn sạch trong tuần lễ tiếp theo. Jordie tìm cách trả lại chiếc áo khoác mới mua, nhưng cửa hàng từ chối nhận, còn đôi giày của Kaz thì rõ ràng đã không còn như mới.

Khi hai anh em đem tờ giấy vay nợ của Hertzoon tới ngân hàng, họ phát hiện ra nó chỉ là một tài liệu vô giá trị, bất chấp các dấu niêm có vẻ hợp pháp. Không ai biết Hertzoon cũng như đối tác kinh doanh của lão ta là ai.

Họ bị tống khỏi nhà trọ sau đó hai ngày, và phải chui xuống gầm cầu ngủ qua đêm, nhưng nhanh chóng bị thị tuần đuổi đi. Sau đó, họ lang thang vô định cho tới khi trời sáng. Jordie nhất quyết quay lại quán cà phê. Hai anh em ngồi thật lâu ở công viên bên kia đường, nhưng khi đêm xuống, khi đội tuần tra bắt đầu xuất hiện, Kaz và Jordie rút xuống phía nam, về phía những con phố của khu Barrel, nơi chẳng ai buồn ngó ngàng đi tuần.

Kaz và Jordie ngủ dưới gầm cầu thang trong ngõ hẻm phía sau một tửu quán, co ro giữa mấy cái bếp lò bị vứt bỏ và các túi rác.

Không ai quấy rầy họ đêm đó, nhưng đêm sau, họ bị một nhóm mấy thằng con trai tới hỏi chuyện, nói đó là địa bàn của băng Chim Cắt. Chúng đánh Jordie và đá Kaz xuống kênh sau khi cướp đôi giày của cậu.

Jordie lôi Kaz lên bờ rồi khoác cho cậu cái áo khô của anh.

“Em đói,” Kaz nói.

“Anh thì không,” Jordie đáp. Không hiểu sao Kaz lại cảm thấy buồn cười, và hai anh em bắt đầu cười sằng sặc. Jordie quàng tay qua vai Kaz và nói: “Cuộc sống này đang thắng thế. Nhưng để xem cuối cùng chúng ta hay nó mới là kẻ chiến thắng.”

Sáng hôm sau, Jordie thức giấc và lên cơn sốt.

Nhiều năm về sau, người ta gọi dịch hoả đậu đã bùng phát tại Ketterdam là dịch bệnh Thị Nữ, theo tên của con tàu đã đem mầm bệnh tới đây. Nó hoành hành mạnh nhất trong các khu ổ chuột đông đúc của Barrel. Thi thể chất thành đống trên đường phố, và những con tàu phòng dịch phải len lỏi qua các dòng kênh, dùng câu liêm để lôi xác chết lên tàu đem ra đảo Tử Thần thiêu huỷ.

Kaz bắt đầu sốt hai ngày sau cơn sốt của Jordie. Không có tiền để đi bác sĩ hay thầy lang, hai anh em đành rúc vào nhau trong đống thùng gỗ hỏng được họ gọi là Tổ.

Không ai tới đuổi họ đi. Các băng nhóm đều bị suy yếu vì dịch bệnh.

Lúc cơn sốt lên đến đỉnh điểm, Kaz mơ thấy mình quay về nông trại. Khi gõ cửa, cậu thấy Jordie và Kaz trong mơ đang ngồi bên bàn bếp. Họ nhìn cậu qua cửa sổ nhưng không cho cậu vào trong nhà. Thế là cậu đi lang thang ngoài cánh đồng, sợ rằng mình sẽ phải nằm ngủ giữa đám cỏ cao.

Lúc tỉnh lại, Kaz không hề ngửi thấy mùi cỏ khô, cỏ ba lá hay mùi táo, mà chỉ toàn mùi khói và mùi rác phân huỷ. Jordie nằm cạnh em trai, mắt nhìn lên trời. “Đừng bỏ em,” Kaz muốn nói như vậy, nhưng không đủ sức. Cậu đành gối đầu lên ngực anh. Nó lạnh và cứng một cách khác thường.

Kaz ngỡ mình đang mơ khi những người dọn xác khiêng cậu lên tàu phòng dịch. Cậu cảm thấy mình rơi tự do trước khi kẹt lại trong một đống thi thể. Cậu muốn hét lên, nhưng quá yếu sức. Họ ở khắp mọi nơi, những cái chân, cái tay, cái bụng cứng đờ, những khuôn mặt xanh lét đầy vết hoả đậu. Kaz lúc tỉnh lúc mê, không biết đâu là thực đâu là mơ, trong khi con tàu tiến ra biển. Lúc họ hất cậu xuống vùng nước nông của đảo Tử Thần, không hiểu sao cậu có đủ sức để hét lên.

“Tôi còn sống,” cậu gào, lớn hết mức có thể. Nhưng cậu quá nhỏ bé, và con tàu đã bắt đầu quay trở về cảng.

Kaz cố kéo Jordie lên khỏi mặt nước. Cơ thể anh đầy những nốt mụn mủ, làn da trắng bệch và thâm tím. Kaz nhớ tới con chó vặn dây cót và món sôcôla nóng trên cầu ngày ấy. Cậu cho rằng thiên đường sẽ giống như căn bếp của ngôi nhà trên phố Zelverstraat, và có mùi hutspot mà bà Hertzoon đã nấu cho họ. Cậu vẫn còn giữ dải ruy băng đỏ của Saskia. Cậu có thể đưa lại nó cho cô bé. Họ sẽ làm nến từ bột mộc qua, bà Margit chơi piano, và cậu có thể ngủ thiếp đi bên cạnh lò sưởi, cậu nhắm mắt chờ chết.

Kaz tưởng đâu mình sẽ thức dậy ở thế giới bên kia, ấm áp, an toàn và no nê, với Jordie bên cạnh. Nhưng thay vào đó, cậu vẫn ở giữa đống xác chết, cậu nằm trong vùng nước nông, quần áo ướt sũng, da nhăn nheo vì ngâm nước quá lâu. Thi thể Jordie nằm bên cạnh cậu, gần như không thể nhận ra được vì đã trắng bệch và trương phình, nổi dập dềnh trên mặt nước như một con cá gớm ghiếc.

Kaz nhìn rõ trở lại, các vết ban đỏ đã biến mất. Cơn sốt đã chấm dứt. Cậu đã quên cơn đói, nhưng khát nước điên cuồng.

Suốt một ngày đêm, cậu chờ đợi giữa đống xác người, mắt trông về phía cảng, hi vọng con tàu phòng dịch quay lại. Họ phải tới để nổi lửa đốt xác chứ, nhưng là bao giờ? Họ có thu dọn xác hằng ngày không? Hay là hai ngày một lần? Cậu kiệt sức và mất nước. Cậu biết mình sẽ không thể cầm cự lâu được nữa. Bờ biển dường như ở rất xa, và cậu biết mình không đủ sức để bơi hết khoảng cách đó. Cậu đã vượt qua cơn sốt, nhưng có thể sẽ nằm chết ở đây. Mà cũng có sao đâu? Chẳng có gì đợi cậu trong thành, ngoài những cơn đói, các ngõ hẻm tăm tối và sự ẩm ướt của mấy con kênh. Nhưng nghĩ tới nó, cậu biết sự thật không phải vậy. Việc báo thù đang chờ đợi. Báo thù cho Jordie, và có thể là cho cả chính cậu. Nhưng cậu sẽ phải đi gặp nó.

Khi đêm xuống, thuỷ triều đổi hướng, Kaz ép mình bám vào thi thể của Jordie. Cậu không đủ sức để tự bơi, nhưng với sự trợ giúp của Jordie, cậu có thể thả nổi. Cậu bám chặt vào người anh trai và đạp chân, hướng về phía những ánh đèn của Ketterdam. Cùng nhau, họ trôi dập dềnh trên biển cả, với cơ thể trương phình của Jordie là một chiếc bè. Kaz tiếp tục đạp chân, cố không nghĩ tới anh trai mình, tới lớp da thịt căng cứng của Jordie dưới bàn tay cậu. Cậu cố không nghĩ gì hết, ngoại trừ nhịp chân đạp, trong lúc di chuyển trên biển. Cậu nghe nói vùng biển này có cá mập, nhưng cậu biết chúng sẽ không đụng tới mình. Giờ cậu cũng là một con quái vật rồi.

Kaz tiếp tục đạp chân, và khi bình minh ló dạng, cậu ngước mặt lên, thấy mình đã ở cực đông của Lid. Hải cảng gần như vắng lặng; trận dịch đã làm đình trệ việc giao thương của Kerch.

Những mét cuối cùng cực kì gian khó. Thuỷ triều một lần nữa thay đổi, và lúc này nó đang chống lại Kaz. Nhưng giờ cậu đã có hi vọng, hi vọng và giận dữ, hai ngọn lửa song đôi bùng cháy trong cậu. Chúng dẫn dắt cậu tới cầu tàu, trèo lên thang. Khi lên đến nơi, cậu nằm vật ra trên lớp ván gỗ, trước khi cố gắng lật người lại. Thi thể của Jordie bị sóng đánh đập vào những trụ cầu bên dưới. Mắt anh vẫn mở, và trong một thoáng, Kaz tưởng như anh trai đang nhìn mình. Nhưng Jordie không nói, cũng không chớp mắt. Ánh mắt anh không đổi hướng khi bị thuỷ triều lôi khỏi trụ cầu và cuốn ra xa.

Mình nên vuốt mắt cho anh, Kaz tự nhủ. Nhưng cậu biết nếu trèo xuống thang và bơi ra biển lúc này, cậu sẽ không bao giờ quay vào bờ được nữa. Cậu sẽ để mình bị sóng biển nhấn chìm, và điều đó là không thể được. Cậu phải sống. Ai đó phải trả giá.

***

Trong cỗ xe tù, Kaz choàng tỉnh khi bị một cú chọc mạnh vào đùi. Người anh lạnh ngắt, xung quanh anh là bóng tối. Nhiều người đẩy anh từ sau lưng, hai bên sườn. Anh đang chết đuối giữa những thân người.

“Kaz.” Một tiếng thì thầm cất lên.

Anh rùng mình.

Lại một cú chọc vào đùi nữa.

“Kaz.” Giọng nói của Inej. Anh hít một hơi thật sâu bằng mũi, và cảm thấy cô dịch ra xa. Không hiểu sao, trong không gian chật chội của thùng xe, cô vẫn thu xếp cho anh có chỗ xoay trở. Tim anh đập thình thịch.

“Nói chuyện tiếp đi,” anh thì thào.

“Gì cơ?”

“Cứ nói tiếp đi.”

“Chúng ta đang đi qua cổng nhà tù. Ta đã qua hai chốt kiểm soát đầu tiên.”

Câu nói của cô khiến anh bừng tỉnh. Họ đã qua được hai chốt kiểm soát. Tức là họ đã được đếm. Ai đó đã mở cánh cửa thùng xe, không chỉ một, mà những hai lần, thậm chí có thế còn đặt tay lên người anh, nhưng anh không tỉnh dậy. Anh có thể đã bị giết. Anh từng hình dung ra cái chết của mình hàng ngàn lần, nhưng chưa bao giờ nghĩ tới cái chết trong lúc ngủ.

Anh ép mình hít thở sâu, bất chấp mùi hơi người. Anh vẫn đeo găng tay, điều mà đám lính áp giải lẽ ra có thể dễ dàng nhận ra. Đó là một nhượng bộ đối với sự yếu đuối của anh, nhưng nếu không làm thế, gần như chắc chắn anh sẽ phát điên.

Phía sau lưng, anh có thể nghe thấy đám tù nhân xì xầm bằng những ngôn ngữ khác nhau. Bất chấp nỗi sợ bóng tối trỗi dậy trong lòng, anh thấy biết ơn nó. Anh chỉ hi vọng rằng những người còn lại trong nhóm, bị trùm đầu và trong lòng nặng trĩu lo âu, không ghi nhận được sự lạ lùng trong thái độ của anh. Anh đã chần chừ khi đánh úp cỗ xe, nhưng chỉ có vậy, và anh có thể bịa ra một cái cớ nào đó để bào chữa cho chuyện đó.

Anh không thích bị Inej nhìn thấy như thế này, nhưng mặt khác, anh lại thấy thà là cô còn hơn. Trong tâm khảm, anh biết cô sẽ không bao giờ kể nó với bất kì ai, cô sẽ không bao giờ dùng nó chống lại anh. Cô trông cậy vào tiếng tăm của anh. Cô sẽ không muốn làm hình ảnh của anh trở nên yếu đuối. Nhưng còn có gì đó nữa, đúng không? Inej sẽ không bao giờ phản bội anh, anh biết. Nhưng anh không lấy đó làm mừng. Mặc dù đã tin tưởng cô không biết bao nhiêu lần trong đời, anh cảm thấy sợ hơn nhiều nếu phải thú thực với cô về lần nhục nhã này.

Cỗ xe dừng lại. Then cửa được kéo, và cánh cửa mở ra.

Các giọng nói bằng tiếng Fjerda cất lên, theo sau là những tiếng lạch cạch, cổ anh được tháo xích, và người ta giải anh từ trên xe xuống một cầu dẫn cùng với những tù nhân khác. Anh nghe thấy âm thanh giống như tiếng ken két khi một cánh cổng mở ra, rồi họ được lùa đi tới trước, loạng choạng trên đôi chân bị xiềng.

Kaz nheo mắt lại khi mũ trùm đầu của anh đột ngột bị lột bỏ. Họ đang đứng trong một khoảng sân rộng, cái cổng đồ sộ của thành tròn đang được từ từ hạ xuống để đóng lại, gây ra những tiếng loảng xoảng và ken két rợn người khi chạm vào nền đá. Lúc Kaz nhìn lên, anh thấy các lính canh đã đứng đầy trên mái nhà, súng trường chĩa xuống đám tù nhân. Đám lính bên dưới thì đang đối chiếu tù nhân với hồ sơ được người đánh xe cung cấp, bằng tên hoặc nhân dạng.

Matthias đã mô tả cách bố trí của Lâu Đài Băng một cách chi tiết, nhưng không nói gì nhiều về hình ảnh thực tế của nó. Kaz đã chờ đợi một thứ gì đó cũ kĩ và ẩm thấp, xây dựng bằng những tảng đá xám xịt vững chãi. Thay vào đó, quanh anh là lớp đá cẩm thạch trắng đến nỗi gần như xanh. Có cảm giác như anh đã lạc bước vào một phiên bản trong mơ của vùng đất khắc nghiệt phương bắc này. Thật khó mà nói được đâu là kính, đâu là băng, là đá.

“Nếu đây không phải là công trình của một sáng Chế Gia thì tôi đi đầu xuống đất,” Nina thì thầm bằng tiếng Kerch.

“Tig!” Một tên lính cất tiếng. Hắn giáng khẩu súng trường vào bụng Nina, khiến cô gập người lại vì đau đớn. Matthias vẫn quay mặt đi chỗ khác, nhưng Kaz kịp nhận thấy người anh chàng gồng lên.

Đám lính gác đang xem xét chỗ giấy tờ của họ, cố gắng khớp số tù và nhân dạng với nhóm người trước mặt. Đây là khoảnh khắc lộ diện đầu tiên, một thứ mà Kaz không thể kiểm soát được. Sẽ rất mất thời gian và nguy hiểm nếu họ chọn lựa những người tù mà mình sẽ đóng giả. Đó là một rủi ro có tính toán, nhưng lúc này Kaz chỉ có thể chờ đợi và hi vọng sự lười biếng, quan liêu của đám lính gác sẽ giúp anh.

Khi đám lính đi xuống cuối hàng, Inej giúp Nina đứng dậy.

“Chị có sao không?” Inej hỏi, và Kaz cảm thấy mình bị hút về phía giọng nói của cô như nước chảy xuống chỗ trũng.

Nina chậm rãi đứng thẳng người lại. “Chị ổn,” cô thì thào. “Nhưng chị không nghĩ chúng ta cần phải lo ngại về nhóm của Pekka Rollins nữa.”

Kaz nhìn theo ánh mắt hướng lên của Nina, và thấy trên đỉnh tường thành có năm người đàn ông bị xiên vào cọc nhọn, lưng còng xuống, tay chân thõng thượt. Kaz phải nheo mắt nhìn nhưng anh nhận ra Eroll Aerts, thợ phá khoá giỏi nhất của Rollins. Những vết bầm dập và đòn roi hắn phải hứng chịu trước khi chết đã tím lại dưới ánh nắng ban mai. Kaz chỉ có thế nhìn thấy hình xăm Kim Sư của hắn như một vết đen trên cánh tay.

Anh xem xét những gương mặt còn lại. Một số sưng tấy và biến dạng đến nỗi không thể nhận diện. Có thể nào một trong số đó là Rollins không? Kaz biết anh nên mừng khi một trong những đối thủ cạnh tranh bị loại bỏ, nhưng Rollins không phải là đồ ngu, và việc nhóm của lão ta không thể vượt qua cổng Lâu Đài Băng là một dấu hiệu đáng lo ngại. Ngoài ra, nếu Rollins phải chết trên một cái cọc ở Fjerda thì… Không, Kaz từ chối chấp nhận khả năng đó. Pekka Rollins thuộc về anh.

Lúc này đám lính gác đang cãi cọ với người đánh xe, và một trong số bọn họ chỉ tay về phía Inej.

“Có chuyện gì vậy?” Anh thì thào hỏi Nina.

“Họ bảo là có nhầm lẫn trong giấy tờ, rằng họ nhận được một đứa con gái người Suli thay vì một thằng bé người Shu.”

“Thế tay đánh xe bảo sao?” Inej hỏi.

“Hắn cứ khăng khăng bảo rằng đó không phải là vấn đề của hắn.”

“Vậy càng hay,” Kaz thì thầm khích lệ.

Anh quan sát bọn chúng đi tới đi lui. Đây chính là điểm hay ho của những biện pháp dự phòng và các lớp bảo vệ mà chúng đã bố trí. Đám lính gác luôn cho rằng chúng có thể dựa vào người khác để sửa sai. Sự lười biếng không đáng tin cậy bằng lòng tham, nhưng vẫn là một đòn bẩy đáng kể. Họ chỉ là những tù nhân bị xiềng xích, bao vây tứ phía bởi lính gác, và sắp sửa bị tống vào buồng giam. Vô hại.

Cuối cùng, một cai tù thở dài và ra lệnh cho quân của mình: “peskemen.”

“Đi thôi,” Nina phiên dịch, rồi hạ giọng dịch tiếp trong lúc hắn nói. “Tống chúng vào khu phía đông rồi để cho kíp trực sau giải quyết.”

Kaz tự cho phép mình thở phào khe khẽ.

Đúng như dự tính, đám lính gác tách các tù nhân nam và nữ riêng ra, sau đó dẫn cả hai hàng đi qua cửa vòm có hình thù một miệng sói đang mở.

Họ đi vào gian phòng có một người phụ nữ lớn tuổi đang ngồi với đôi tay bị xích, lính gác kè hai bên. Đôi mắt bà ta trống rỗng. Khi các tù nhân tiến đến, bà ta nắm lấy cổ tay từng người một.

Một người khuếch đại. Kaz biết Nina từng làm việc với những người như vậy khi cô đi tìm kiếm các Grisha trên đảo Wandering để bổ sung lực lượng cho Hạ Quân. Chỉ bằng xúc giác, họ có thể cảm nhận được năng lực của một Grisha, và Kaz từng thấy họ được thuê vào làm trong các ván bài lớn để bảo đảm không ai trong số các người chơi là Grisha. Khả năng làm thay đổi nhịp tim của đối thủ hoặc thậm chí thay đổi nhiệt độ phòng là một ưu thế cạnh tranh không công bằng. Nhưng người Fjerda sử dụng họ vì một mục đích khác - để bảo đảm không Grisha nào lọt được vào trong các bức tường của họ mà không bị nhận diện.

Kaz quan sát Nina bước tới. Anh có thể thấy cô run lên khi giơ tay ra. Những ngón tay của bà già khép lại quanh cổ tay của cô. Mi mắt bà ta nhắm lại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi bà ta buông tay Nina và phẩy tay ra hiệu cho cô đi tiếp.

Bà ta biết nhưng không thèm nói? Hay lớp parafin mà họ dùng để phủ lên cẳng tay của Nina đã phát huy hiệu quả?

Trong lúc họ được dẫn đi qua một vòm cửa phía bên trái, Kaz thoáng thấy Inej khuất dạng sau vòm cửa bên phải, cùng với các nữ tù nhân khác. Anh cảm thấy nhói trong ngực, và bàng hoàng nhận ra đó là sự sợ hãi. Cô là người đã đánh thức anh trên xe. Giọng nói của cô là thứ đã đưa anh trở về từ bóng tối, là sợi dây mà anh bám vào để tự đưa mình trở lại một sự lành mạnh giả hiệu.

Các tù nhân nam được dẫn lên cầu thang tăm tối tới một cầu treo bằng sắt. Bên tay trái họ là tường thành tròn bằng đá trắng nhẵn thín. Bên tay phải cầu treo nhìn xuống một nhà kính dài gần bốn trăm mét và đủ cao để chứa nổi một tàu buôn. Nó được chiếu sáng bằng ngọn đèn lồng lớn treo trên trần, giống như một cái kén phát sáng. Phía bên dưới, Kaz trông thấy những dãy xe bọc thép có tháp pháo hình tròn trên nóc. Chúng có các bánh xe rất lớn, liên kết với nhau bằng xích. Trên mỗi cỗ xe có một nòng súng cỡ lớn chĩa về phía trước, nơi lẽ ra được dùng để buộc ngựa kéo.

“Chúng là cái gì vậy?” Kaz hỏi khẽ.

“Torvegen,” Matthias thì thào đáp. “Chúng không cần ngựa kéo. Họ vẫn còn hoàn thiện bản thiết kế lúc tôi đi khỏi đây.”

“Không cần ngựa sao?”

“Xe tăng đấy,” Jesper lẩm bẩm. “Tôi đã trông thấy mẫu xe này hồi còn làm với một thợ quân khí ở Novyi Zem. Tháp pháo có nhiều loại súng khác nhau, còn cái nòng to uỵch chĩa thẳng phía trước kia á? Hoả lực khủng đấy.”

Trong nhà kính còn có những khẩu pháo hạng nặng, nhiều giá chất đầy súng trường, đạn dược, và những quả bom nhỏ được người Ravka gọi là grenatye. Trưng bày trên những bức tường phía sau lớp kính là các món vũ khí cổ hơn: rìu, giáo mác, cung tên. Phía trên chúng là một tấm biển hai màu bạc - trắng với dòng chữ: STRYMAKT FJERDAN.

Khi Kaz liếc nhìn Matthias, anh ta lẩm bẩm: “Sức mạnh Fjerda.”

Kaz nhìn qua lớp kính dày. Anh nhận ra Nina đã nói đúng, nhà kính này là một công trình khác của Sáng Chế Gia - kính chống đạn và không thể vượt qua. Những tù nhân đến và đi khỏi nhà tù sẽ trông thấy các món vũ khí, quân trang, máy móc chiến tranh – tất cả là một sự nhắc nhở về sức mạnh của nhà nước Fjerda.

Thư giãn nào, Kaz nhủ thầm. Súng to cũng chẳng có nghĩa lí gì nếu họ không biết phải chĩa vào đâu.

Phía bên kia của nhà kính, anh trông thấy một cầu treo khác, trên đó các tù nhân nữ đang bước đi.

Inej sẽ ổn thôi mà. Anh cần phải tỉnh táo. Giờ họ đang ở trên đất của kẻ thù, một nơi vô cùng nguy hiểm, một tình thế mà bạn không thể thoát ra được nếu không sáng suốt. Nhóm của Pekka Rollins có đi xa được đến mức này trước khi bị phát hiện không? Hiện giờ lão đang ở đâu? Lão bình an vô sự tại Kerch, hay đã bị người Fjerda cầm tù?

Những chuyện đó không quan trọng. Lúc này, Kaz cần phải tập trung vào kế hoạch của mình và tìm kiếm Bo Yul-Bayur. Anh liếc nhìn những người còn lại. Wylan trông như sắp sửa tè ra quần đến nơi. Helvar lầm lì như thường lệ. Còn Jesper chỉ nhăn nhở và thì thào: “Này, chúng ta vừa thành công trong việc vào bóc lịch ở nhà tù an ninh nhất thế giới đấy. Hoặc chúng ta là thiên tài, hoặc là những thằng con hoang ngu nhất từng hiện diện trên đời.”

“Chúng ta sẽ sớm được biết thôi.”

Họ được dẫn vào một căn phòng trắng khác, được trang bị nhiều chậu tắm và vòi nước.

Tên lính nói gì đó bằng tiếng Fjerda, và Kaz trông thấy Matthias cùng một số người khác bắt đầu cởi quần áo. Anh cố nén cơn buồn nôn dâng lên tận cổ.

Anh có thể làm chuyện này. Anh phải làm chuyện này. Anh nghĩ tới Jordie. Anh trai anh sẽ nói gì nếu đứa em trai mình đánh mất cơ hội đòi lại công lí chỉ vì không thể vượt qua cảm giác ghê tởm ngu ngốc trong đầu? Nhưng chuyện này chỉ gợi lại kí ức về cơ thể lạnh toát của Jordie, cái cách mà nó trương phình lên dưới nước, và những thi thể chồng chất quanh anh trên con tầu phòng dịch. Mắt anh bắt đầu hoa lên.

Bình tĩnh đi nào, Brekker, anh nghiêm khắc tự chỉnh đốn. Nhưng vô ích. Anh sắp ngất một lần nữa, và toàn bộ chuyện này sẽ kết thúc. Inej từng đề nghị dạy anh cách ngã. “Bí quyết nằm ở chỗ không để mình bị đánh ngã,” anh đã vừa cười vừa bảo cô như thế. “Không phải đâu,” cô đáp, “bí quyết nằm ở chỗ biết đứng lên trở lại.” Lại là một ngạn ngữ Suli khác, nhưng bằng cách nào đó, nó giúp anh bình tĩnh lại. Anh đâu có yếu đuối như thế này. Anh phải mạnh mẽ. Không chỉ vì Jordie, mà còn vì cả nhóm. Anh đã đưa những người này tới đây. Anh đã đưa Inej tới đây. Việc của anh là đưa họ thoát ra ngoài.

Bí quyết nằm ở chỗ biết đứng lên trở lại. Anh giữ giọng nói của Inej trong đầu, nhắc đi nhắc lại câu nói đó, trong lúc tuột giày, cởi quần áo, và tháo găng tay.

Anh nhận ra Jesper đang chăm chăm nhìn bàn tay của mình. “Cậu chờ đợi cái gì vậy?” Kaz lầu bầu hỏi.

“Móng vuốt. Ít ra là thế,” Jesper đáp và cụp mắt nhìn đôi bàn chân xương xẩu của chính mình. “Hoặc là một ngón cái đầy gai nhọn.”

Tên lính đã quay lại sau khi đem quần áo của họ bỏ vào một cái sọt, chắc chắn là để đưa đi đốt. Hắn ngửa đầu Kaz ra sau và vạch miệng anh ra, ngoáy một vòng bên trong bằng những ngón tay chuối mắn. Mắt Kaz hoa lên khi anh cố gắng giữ cho mình tỉnh táo. Những ngón tay của tên lính lướt qua chỗ mấy cái răng mà anh đã nhét miếng bóng biển vào, trước khi bóp và chọc vào mặt trong má của anh.

“Ondetäjrn!” Tên lính la lên. “Fellenjuret!” Hắn lôi ra hai mẩu kim loại mảnh từ trong miệng của Kaz. Dụng cụ phá khoá của anh bị ném thẳng xuống mặt sàn bằng đá. Tên lính quát tháo gì đó với Kaz bằng tiếng Fjerda, rồi tát vào mặt anh một cú trời giáng. Kaz khuỵu xuống, nhưng cố gắng gượng đứng lên trở lại. Anh ghi nhận vẻ mặt hoảng sợ của Wylan trong lúc bị tên lính đẩy vào hàng để chuẩn bị tắm.

Khi anh đã tắm xong, lạnh ngắt và run lẩy bẩy, một tên lính khác đưa cho anh cái quần tù bạc thếch cùng áo thụng xếp trên giá phía sau hắn. Kaz mặc chúng vào, rồi cà nhắc tiến tới khu vực chờ cùng các tù nhân còn lại. Ngay lúc này, anh sẵn sàng bớt một nửa số tiền thưởng của mình để được cầm cây gậy chống quen thuộc.

Các buồng giam ở khu vực chờ trông khá giống với những gì anh đã tiên liệu - không có tường đá trắng hay khu trưng bày vũ khí, chỉ có lớp đá xám ẩm ướt và các song sắt.

Bọn họ được lùa vào một phòng giam vốn đã đông đúc sẵn. Helvar ngồi quay lưng vào tường, quan sát những người còn lại với đôi mắt nheo lại. Kaz đứng cạnh song sắt, nhìn những tên lính canh bỏ đi. Anh có thể cảm thấy sự chuyển động của những cơ thể phía sau lưng mình. Phòng giam đủ rộng, nhưng họ vẫn cảm thấy quá chật chội. Kiên nhẫn thêm một chút nữa thôi, Kaz tự nhủ. Anh cảm thấy bàn tay mình trần trụi một cách không thể chịu đựng nổi.

Kaz chờ đợi. Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra. Anh đã dò xét những người khác ngay khi họ bước vào phòng giam, và anh biết ngay gã người Kaelish vạm vỡ có vết bớt kia sẽ tới gây sự với mình. Gã bực dọc, căng thẳng, và rõ ràng cái chân yếu của Kaz đã bị gã để ý.

“Ê, thằng què,” gã nói bằng tiếng Fjerda, trước khi lặp lại bằng tiếng Kerch. “Ê, thằng thọt.” Gã không cần phải nhọc công. Kaz biết từ què của đủ loại ngôn ngữ.

Chỉ một tích tắc sau, Kaz đã cảm thấy không khí xáo động khi gã người Kaelish lao vào anh. Anh bước sang trái, làm gã chúi tới trước theo quán tính. Kaz vừa đẩy, vừa tóm lấy cánh tay gã và nhét nó vào khe hở giữa hai chấn song sắt, kéo đến tận vai. Gã hộc lên khi bị đập mặt vào song sắt.

Kaz kẹp chặt tay gã đồng thời giáng mạnh cơ thể mình vào đối phương. Một tiếng rắc vang lên khi cánh tay của gã bị trật ra khỏi khớp vai. Khi há miệng để hét lên, gã bị Kaz dùng một tay bịt miệng, tay kia kẹp mũi. Cảm giác của da thịt trần trụi nơi ngón tay anh khiến Kaz buồn nôn.

“Suỵttt,” anh nói, đồng thời dùng bàn tay kẹp mũi lái tên tù tới chỗ băng ghế sát tường. Các tù nhân khác vội vàng tránh đường.

Gã ngồi xuống với đôi mắt ngấn lệ vì bị ngạt thở. Kaz tiếp tục kẹp chặt mũi và bịt miệng gã. Gã ta run rẩy dưới cái ghì của anh.

“Mày có muốn tao lắp nó lại không?” Kaz hỏi.

Gã ta rên lên.

“Có muốn không?”

Gã càng rên dữ trước ánh mắt quan sát của những tù nhân còn lại.

“Mày mà hét lên, thì tao sẽ làm cho cánh tay mày có cũng như không, hiểu chưa?”

Anh thả bàn tay bịt miệng ra, rồi giật mạnh cho cánh tay gã vào đúng ổ khớp vai trở lại. Gã ta co người lại, nằm trên băng ghế, và bắt đầu thút thít khóc.

Kaz chùi tay vào quần rồi trở lại vị trí đứng cạnh song sắt ban nãy. Anh có thể cảm thấy những người khác đang nhìn, nhưng lúc này anh biết mình sẽ được yên thân.

Helvar tiến đến đứng bên cạnh anh. “Có cần thiết phải như thế không?”

“Không.” Nhưng thực ra là có. Anh cần bảo đảm mình được yên thân để làm việc cần làm, và để gợi nhắc bản thân rằng anh không bất lực.