Chương 1 .
Đó là mùa hè năm con người lần đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Quãng thời gian ấy tôi còn rất trẻ, nhưng không có chút niềm tin nào vào tương lai. Tôi muốn sống liều lĩnh, tự đẩy mình đi xa nhất có thể, và thử xem điều gì sẽ xảy ra với mình khi đến đó. Trên thực tế suýt nữa tôi đã không làm được điều này. Tiền của tôi cạn dần; tôi mất căn hộ; tôi bị tống cổ ra đường. Nếu không có cô gái tên là Kitty Wu, hẳn tôi đã chết đói. Tôi tình cờ gặp cô không lâu trước đó, nhưng rồi tôi nghĩ ra sự tình cờ ấy chính là một hình thức của thiện ý, một lối tự cứu mình thông qua ý thức của người khác. Đó là phần đầu của câu chuyện. Kể từ bấy, nhiều điều kỳ lạ đã xảy đến. Tôi tìm được việc làm ở chỗ ông già ngồi xe lăn. Tôi phát hiện bố tôi là ai. Tôi đi qua sa mạc từ Utah đến California. Những chuyện này dĩ nhiên đã diễn ra từ lâu, nhưng tôi vẫn nhớ rõ giai đoạn đó, tôi vẫn nhớ đến nó như sự khởi đầu của cuộc đời mình.
Tôi đến New York vào mùa thu năm 1965. Khi ấy tôi mười tám tuổi, và trong chín tháng đầu tôi ở trong một ký túc xá đại học. Tại Columbia, tất cả sinh viên năm thứ nhất không phải người New York đều bị buộc phải ở trong khuôn viên trường, nhưng ngay khi năm đầu tiên kết thúc, tôi chuyển đến ở trong một căn hộ phố 112 Tây. Tôi sống ba năm tiếp theo ở đó, cho đến khi thực sự rơi xuống đến sự bần cùng. Nhìn lại những khó khăn từng phải đối mặt, thật kỳ diệu là tôi đã trụ được ngần ấy thời gian.
Tôi sống trong căn hộ đó với hơn một nghìn quyển sách. Trước đây, chúng thuộc về bác Victor của tôi, được ông thu thập dần dần trong vòng khoảng ba mươi năm. Ngay trước khi tôi đi học đại học, bỗng nhiên ông tặng chúng cho tôi làm quà tạm biệt. Tôi đã tìm hết cách để từ chối, nhưng bác Victor là một người tình cảm và hào phóng, ông nhất định không cho tôi làm theo ý mình. “Bác không có tiền cho cháu”, ông nói, “và cũng chẳng có lời khuyên nào, cầm sách cho bác vui lòng đi.” Tôi đã lấy sách, nhưng trong vòng một năm rưỡi tôi không mở thùng nào hết. Tôi có dự định thuyết phục bác tôi nhận lại chúng và, trong khi chờ đợi, tôi không muốn có điều gì xảy đến với chúng.
Để nguyên như vậy, những cái thùng hóa ra lại hết sức hữu ích. Căn hộ phố 112 không có đồ đạc, và thay vì lãng phí tiền bạc mua những thứ tôi không hề muốn và cũng không thể mua nổi, tôi biến những cái thùng thành nhiều mảnh của “đồ đạc tưởng tượng.” Hơi giống chơi trò ghép hình: cần phải tập hợp chúng lại theo các dạng hình có tính chức năng khác nhau, xếp thành hàng, xếp chồng lên nhau, xếp đi xếp lại cho đến khi rốt cuộc chúng cũng giống được với những thứ đồ vật trong nhà. Một bộ gồm mười sáu thùng trở thành khung đỡ cho cái đệm của tôi, một bộ mười hai cái khác biến thành bàn, xếp theo con số bảy chúng thành ghế, theo con số hai thì thành bàn đầu giường, và cứ như vậy. Hiệu ứng tổng thể có tính chất khá đơn sắc với cái màu nâu nhạt u tối ở khắp mọi nơi, nhưng tôi không thể ngăn mình cảm thấy tự hào trước sự khéo léo của chính tôi. Bạn bè tôi thấy điều này khá kỳ cục, nhưng đến khi ấy họ đã bắt đầu quen với những sự kỳ cục của tôi. Hãy nghĩ đến sự thỏa mãn, tôi giải thích cho họ, khi cậu chui vào chăn với ý nghĩ những giấc mơ của cậu sẽ diễn ra phía trên văn chương Mỹ thế kỷ mười chín. Hãy tưởng tượng sự khoan khoái khi cậu ngồi vào bàn với toàn bộ thời Phục hưng nằm ngoan ngoãn bên dưới các món ăn. Nói cho đúng thì tôi hoàn toàn không biết thùng nào chứa sách nào, nhưng thời đó tôi rất giỏi bịa chuyện, và tôi thích âm hưởng của những câu nói ấy, ngay cả khi chúng không hề chính xác.
Đồ đạc tưởng tượng của tôi được nguyên vẹn trong vòng gần một năm. Rồi, vào mùa xuân năm 1967, bác Victor mất. Cái chết của ông là một đòn chí tử giáng lên tôi; xét về nhiều mặt, đó là cú đánh tồi tệ nhất mà tôi từng phải chịu đựng. Bác Victor không chỉ là người tôi yêu quý nhất trên đời, mà còn là người thân duy nhất của tôi, mối dây liên hệ duy nhất nối tôi với cái gì đó lớn hơn bản thân tôi. Không có ông, tôi cảm thấy mất trắng, bị số phận hạ sát tàn độc. Nếu từng chuẩn bị chờ đợi sự ra đi của ông theo một cách nào đó, hẳn tôi đã cảm thấy dễ dàng hơn. Nhưng làm sao có thể chờ đợi cái chết của một người mới năm mươi hai tuổi sức khỏe lúc nào cũng tốt? Chỉ đơn giản là bác tôi quỵ ngã vào một buổi chiều đẹp trời giữa tháng Tư, và vào thời điểm ấy cuộc đời tôi bắt đầu chao đảo, tôi bắt đầu tan biến vào một thế giới khác.
Về gia đình tôi không có nhiều điều để nói. Danh sách nhân vật rất ngắn, và phần lớn không hiện diện lâu dài. Tôi sống với mẹ đến năm mười một tuổi, nhưng rồi bà chết trong một tai nạn giao thông, bị một cái xe bus mất lái trong màn tuyết Boston đâm vào. Không có ông bố nào trong bức tranh, chỉ có hai chúng tôi, mẹ và tôi. Việc bà vẫn giữ họ của gia đình chứng tỏ bà chưa bao giờ kết hôn, nhưng phải đến sau khi bà mất tôi mới biết mình là con ngoài giá thú. Khi còn nhỏ, tôi chưa bao giờ nảy ra ý định hỏi về những vấn đề đó. Tôi là Marco Fogg, mẹ tôi là Emily Fogg, và ông bác Chicago của tôi là Victor Fogg. Chúng tôi đều mang họ Fogg và tôi thấy hoàn toàn lôgic khi cả nhà cùng mang một họ. Sau này, bác Victor kể cho tôi thoạt đầu họ của bố ông là Fogelman, nhưng ai đó tại văn phòng quản lý người nhập cư đóng trên Ellis Island đã cắt bớt đi thành Fog, với một chữ g, và Fog trở thành cái họ Mỹ của gia đình cho đến khi chữ g thứ hai được ghép thêm vào năm 1907. Fogel nghĩa là con chim, bác tôi giải thích, và tôi khoái cái ý nghĩ nguồn gốc của mình có liên quan đến loài vật ấy. Tôi tự tưởng tượng ra một vị tổ tiên anh dũng từng thực sự biết bay. Một con chim bay trong sương mù[1], tôi thường nghĩ vậy, một con chim khổng lồ bay qua đại dương, không ngưng cánh cho đến khi tới được nước Mỹ.
Tôi không có bức ảnh nào của mẹ và thấy rất khó hình dung được khuôn mặt bà. Mỗi khi nghĩ đến bà, tôi lại nhìn thấy một người phụ nữ nhỏ bé tóc sẫm, cổ tay nhỏ như cổ tay trẻ con và những ngón tay trắng thanh mảnh, và đột nhiên, lần nào cũng vậy, tôi nhớ thật là dễ chịu khi được những ngón tay đó chạm vào. Bà luôn luôn trẻ trung và xinh đẹp trong trí nhớ của tôi, và hẳn đó là sự thật, vì bà qua đời khi mới hai mươi chín tuổi. Chúng tôi từng sống trong nhiều căn hộ nhỏ ở Boston và Cambridge, và tôi nghĩ bà làm việc cho một nhà xuất bản chuyên in sách học sinh, nhưng tôi quá nhỏ nên không thể biết bà làm gì ở đó. Điều mà tôi nhớ rõ nhất là những lần chúng tôi cùng nhau đi xem phim (những bộ phim cao bồi có tài tử Randolph Scott, Chiến tranh giữa các thế giới, Pinocchio), ngồi trong bóng tối của phòng chiếu phim, ăn pop-corn và cầm tay nhau. Bà có khả năng kể những câu chuyện buồn cười làm tôi ngặt nghẽo đến đứt hơi, nhưng rất hiếm khi bà làm vậy, chỉ khi các hành tinh ở vào một vị trí thuận lợi mà thôi. Phần lớn thời gian, bà rất lơ đãng, u buồn, và nhiều lúc tôi cảm thấy một nỗi buồn thực thụ toát ra từ con người bà, cảm giác như thể bà đang phải chiến đấu chống lại một sự hoảng loạn mênh mông của nội tâm. Dần dần khi tôi lớn lên, bà hay để tôi một mình ở nhà với người trông trẻ, nhưng mãi sau này tôi mới hiểu được ý nghĩa những lần vắng mặt bí ẩn của bà, nhiều năm sau khi bà mất. Tuy nhiên, về bố tôi, không có gì hết, cả thời gian đó lẫn sau này. Đó là chủ đề duy nhất mẹ tôi từ chối nói chuyện với tôi, và mỗi lần tôi hỏi bà, bà đều tỏ ra cứng rắn. “Ông ấy mất lâu rồi”, bà nói, “trước khi con ra đời.” Trong nhà không còn dấu vết nào của ông. Không có ảnh, thậm chí một cái tên cũng không. Để có chỗ mà bấu víu, tôi tưởng tượng ông giống như Buck Rogers tóc sẫm, một nhà du hành vũ trụ đi lạc vào chiều không gian thứ tư và không tìm được đường về.
Mẹ tôi được chôn cất gần ông bà tôi trong nghĩa trang Westlawn, và sau đó tôi đến ở với bác Victor tại phía Bắc Chicago. Tôi không còn giữ được nhiều kỷ niệm về thời kỳ xa xôi ấy nhưng có vẻ như là tôi chỉ suốt ngày ủ rũ sầu thảm, tối đến thì khóc nức nở cho đến khi ngủ thiếp đi như một đứa trẻ mồ côi đáng thương trong một cuốn tiểu thuyết thế kỷ mười chín. Một hôm, một người đàn bà thuộc dạng phổi bò người quen của bác Victor gặp chúng tôi trên đường và òa lên khóc khi được bác tôi giới thiệu với tôi, bà ta lấy khăn tay chùi mắt và nghẹn ngào nói hẳn tôi là đứa con của tình yêu của Emily tội nghiệp. Tôi chưa bao giờ nghe thấy thành ngữ đó, nhưng tôi đoán nó ám chỉ những điều kinh khủng và xấu xa. Khi tôi nhờ bác Victor giải thích, ông đã nghĩ ra một câu trả lời mà tôi vẫn luôn nhớ: “Tất cả trẻ con đều là con của tình yêu,” ông nói với tôi, “nhưng chỉ những đứa trẻ khá nhất mới được gọi như vậy thôi.”
Người anh của mẹ tôi là một ông trung niên không vợ bốn mươi ba tuổi, cao lênh khênh, có cái mũi khoằm như mỏ chim, kiếm sống bằng nghề thổi kèn clarinet. Cũng như tất cả những người thuộc họ Fogg khác, ông có khuynh hướng lơ đãng và mơ màng, với những cơn điên rồ đột ngột và những quãng ngơ ngẩn kéo dài. Sau bước khởi đầu đầy hứa hẹn với tư cách thành viên Dàn nhạc Cleveland, cuối cùng những nét tính cách kể trên đã làm hại bác. Bác vẫn nằm trên giường khi giờ tập đến, không đeo cà vạt vào các dịp biểu diễn, và một hôm còn cả gan thì thầm kể một chuyện cười bậy bạ vào tai chỉ huy dàn nhạc người Bungari. Sau khi bị đuổi, Victor chơi quanh quẩn cho các dàn nhạc kém uy tín hơn, mỗi dàn nhạc sau lại xập xệ hơn dàn nhạc trước một chút, và khi quay trở về Chicago vào năm 1953, ông đã học được cách chấp nhận sự tầm thường của sự nghiệp cá nhân. Khi tôi đến sống với ông hồi tháng Hai năm 1958, ông dạy clarinet cho những người mới học và chơi cho nhóm Moonlight Moods của Howie Dunn, một ban nhỏ hay chơi tại các đám cưới, lễ lạt và tiệc ra trường. Victor biết là mình quá thiếu tham vọng, nhưng ông cũng biết rằng trên đời còn có những thứ hấp dẫn khác ngoài âm nhạc. Trên thực tế chúng rất nhiều, đến mức ông thường xuyên bị chúng lấn lướt. Thuộc dạng người khi đang phải lo chuyện gì đó lại luôn mơ mộng đến một chuyện khác, ông không có khả năng ngồi tập đi tập lại một bản nhạc mà không ngừng lại giữa chừng để suy nghĩ một thế cờ, không thể chơi cờ mà không nghĩ đến các điểm yếu của đội Chicago Cubs, không thể đến sân vận động mà không suy tư về một nhân vật phụ trong kịch Shakespeare, và rồi khi đã về đến nhà, không thể cầm cuốn sách được quá hai mươi phút mà không cảm thấy ham muốn khẩn cấp là được thổi kèn clarinet. Dù có ở đâu, dù có đi đâu, dấu vết mà ông để lại sau lưng luôn được điểm xuyết bằng những nước cờ vụng, những dự đoán tỉ số sai và những cuốn sách đọc dở dang.
Tuy nhiên không khó để mà yêu bác Victor. Đồ ăn thức uống có kém hơn so với hồi còn mẹ tôi, những căn hộ mà chúng tôi ở thảm hại và bừa bộn hơn, nhưng xét cho cùng đó chỉ là các tiểu tiết. Victor không vờ tỏ ra là người mà ông không phải là. Ông biết không thể với tới được tình cha con, thành thử ông đối xử với tôi như một người bạn, một người tâm giao kích cỡ thu gọn và đáng yêu hơn là như một đứa trẻ con. Cách dàn xếp đó thích hợp cho cả hai chúng tôi. Vào tháng đầu tiên tôi đến ở với ông, chúng tôi cùng chơi trò sáng tạo ra những đất nước, những thế giới tưởng tượng đi ngược lại các quy luật của tự nhiên. Có khi phải mất hàng tuần để hoàn thiện những gì khá nhất, và những tấm bản đồ mà tôi vẽ được treo ở vị trí danh dự phía trên bàn bếp. Chẳng hạn như Miền đất Ánh sáng Tản mát, hoặc Vương quốc Người một mắt. Nhìn vào những khó khăn mà cả hai chúng tôi gặp phải trong thế giới thực, rõ ràng là rất lôgic khi chúng tôi tìm cách thoát khỏi nó một cách thường xuyên nhất có thể.
Không lâu sau khi tôi đến Chicago, bác Victor dẫn tôi đi xem bộ phim Vòng quanh thế giới trong tám mươi ngày. Họ của nhân vật chính trong câu chuyện này là Fogg, dĩ nhiên, và kể từ hôm ấy bác Victor gọi tôi là Phileas để thể hiện sự trìu mến - một cách gợi ý ngầm đến khoảnh khắc lạ kỳ khi, theo cách nói của ông, “chúng ta phải đối mặt với chính chúng ta trên màn ảnh.” Bác Victor rất thích nghĩ ra các lý thuyết phức tạp và phi lý về tất cả mọi thứ, và ông không bao giờ mệt mỏi trong việc tìm ra những vinh quang ẩn chứa trong cái tên của tôi. Marco Stanley Fogg. Theo ông, cái tên cho thấy du hành đã ăn vào máu tôi, và cuộc đời sẽ mang tôi đến những nơi chưa từng đặt dấu chân người. Marco, một cách hoàn toàn tự nhiên, gọi đến Marco Polo, người châu u đầu tiên đến Trung Quốc; Stanley là phóng viên người Mỹ tìm được dấu vết bác sĩ Livingstone “ở giữa châu Phi tăm tối nhất”; và Fogg, đó là Phileas, người trở thành ngọn gió bay quanh địa cầu trong vòng chưa tới ba tháng. Không có gì quan trọng khi mẹ tôi chọn cái tên Marco chỉ vì bà thích nó, còn Stanley là tên ông ngoại tôi, và Fogg là một cách đọc sai, ý thích thất thường của một tay công chức người Mỹ kém hiểu biết. Bác Victor tìm được ý nghĩa ở những nơi chưa ai từng nhìn thấy, rồi sau đó, một cách tinh tế, biến chúng thành một dạng khích lệ ngầm ẩn. Sự thực là tôi thích thú với toàn bộ sự quan tâm mà ông dành cho tôi, và ngay cả khi tôi biết rằng những lời của ông chỉ như gió thoảng qua, thì một phần con người tôi vẫn tin vào từng từ ông nói. Xét về ngắn hạn, thứ chủ nghĩa duy danh của Victor đã giúp tôi vượt qua thử thách của những tuần đầu tiên ở trường mới. Không có gì dễ bị tấn công hơn là những cái tên, và “Fogg” nhanh chóng trở thành hàng đống những cắt xén bột phát: chẳng hạn như Fag và Frog[2], đi kèm với hằng hà sa số các ám chỉ liên quan đến môn thời tiết: Đầu Người tuyết, Người Bùn, Miệng Mưa phùn. Sau khi đã khai thác đến cạn kiệt họ của tôi, lũ bạn quay sang chú ý đến cái tên. Chữ o nằm cuối Marco dĩ nhiên là đủ sức gọi lên các tính từ như Dumbo, Jerko và Mumbo Jumbo, nhưng ngoài đó ra những gì chúng tìm được còn vượt xa mọi trông đợi. Marco đã trở thành Marco Polo; Marco Polo trở thành Polo Shirt; Polo Shirt trở thành Shirt Face; và Shirt Face trở thành Shit Face[3] - một biểu hiện sáng lòa của sự độc ác từng làm tôi kinh hoàng khi lần đầu tiên nghe thấy. Rốt cuộc thì tôi đã sống qua được cuộc nhập học, nhưng vẫn còn sót lại cái cảm giác về sự mong manh vô hạn của cái tên tôi. Cái tên ấy gắn chặt với ý thức về cá nhân tính của tôi đến mức kể từ đó tôi đã muốn bảo vệ nó chống lại mọi sự gây hấn. Mười lăm tuổi, tôi bắt đầu ký tên dưới các bài tập là M. S. Fogg, một tiếng vọng đầy ngạo nghễ của các vị thần văn chương hiện đại, ngoài ra còn gây thích thú to lớn bởi chúng chính là viết tắt của từ bản thảo[4]. Bác Victor vui sướng ủng hộ thay đổi đó. “Ai cũng đều là tác giả cuộc đời mình,” ông nói. “Quyển sách mà cháu đang viết còn chưa kết thúc. Cho nên nó là một bản thảo. Còn có gì thích hợp hơn thế nữa?” Dần dà, Marco biến mất khỏi địa hạt công cộng. Với bác tôi, tôi là Phileas, và khi đi học đại học, tôi là M. S. Với tất cả những người khác. Một vài đầu óc mẫn tiệp từng nhận xét rằng những chữ đó cũng là viết tắt của một thứ bệnh[5], nhưng thời gian ấy tôi vui sướng đón nhận tất cả các kết hợp hay châm biếm có thể gắn vào với tôi. Khi tôi gặp Kitty Wu, cô tặng tôi nhiều cái tên, nhưng chúng là tài sản riêng của cô, có thể nói vậy, và thêm vào đó tôi rất thích chúng: chẳng hạn như Foggy, chỉ để dùng cho những dịp đặc biệt, và Cyrano, được tiếp nhận vì những lý do sau này sẽ trở nên hiển nhiên. Nếu bác Victor sống thêm để gặp được cô, tôi chắc ông sẽ tán thành rằng cuối cùng Marco, theo cách thức khiêm tốn của mình, ít nhất cũng đã đặt chân đến Trung Quốc.
Những buổi học kèn clarinet không suôn sẻ lắm (hơi tôi quá ngắn, môi thì quá thiếu kiên nhẫn), và tôi nhanh chóng tìm cách tự giải thoát mình khỏi chúng. Bóng chày lôi cuốn tôi nhiều hơn, và ngay ở tuổi mười một tôi đã thuộc vào một trong số những thằng nhóc Mỹ gầy giơ xương đi đâu cũng đeo găng, mỗi ngày thọc tay phải vào túi hàng nghìn lần. Không nghi ngờ gì nữa, ở trường bóng chày đã giúp tôi vượt qua một số trở ngại, và khi tôi được nhận vào Little League địa phương hồi mùa xuân đầu tiên đó, bác Victor đã đến xem gần như tất cả các trận đấu để cổ vũ tôi. Tuy nhiên, vào tháng Bảy năm 1958, đột nhiên chúng tôi chuyển đến ở Saint Paul, bang Minnesota (“một cơ hội hiếm có,” Victor nói, hàm ý một chân giáo viên âm nhạc mà người ta đề nghị với ông), nhưng năm sau đó chúng tôi lại trở về Chicago. Tháng Mười, Victor mua một cái vô tuyến, và ông cho phép tôi trốn học để xem đội White Sox thua trong World Series sau sáu trận. Đó là năm của Early Wynn và của điệu go-go Sox, của Wally Moon người có các pha vụt bóng lên đến mặt trăng rồi chạy về chốt cuối ghi điểm. Chúng tôi ủng hộ Chicago, dĩ nhiên, nhưng cả hai đều cảm thấy một sự hài lòng ngấm ngầm khi anh chàng có bộ lông mày rậm rì đánh được một cú ra ngoài sân trong trận cuối cùng. Ngay khi mùa giải mới bắt đầu, chúng tôi trở lại là những cổ động viên nhiệt tình của Cubs - những anh chàng vụng về tội nghiệp của Cubs - đội bóng chiếm giữ tâm hồn chúng tôi[6]. Victor là một trạng sư lão luyện cho việc chơi bóng chày vào ban ngày, và ông coi việc ông vua kẹo chewing gum[7] không gục ngã trước ánh đèn nhân tạo xấu xa là một ân điển của luân lý. “Khi đi xem một trận đấu,” ông nói, “bác không muốn nhìn thấy ngôi sao nào khác ngoài những ngôi sao trên sân. Đó là một môn thể thao được tạo ra cho mặt trời và vải len đẫm mồ hôi. Cỗ xe của Apollo bay trên thiên đỉnh! Quả bóng vĩ đại rực cháy trên bầu trời Mỹ!” Trong những năm đó chúng tôi nhiều lần tranh luận rất lâu về những người như Ernie Banks, George Altman và Glen Hobbie. Hobbie là một trong những cầu thủ mà ông thích nhất nhưng, trung thành với thế giới quan của mình, bác tôi khẳng định tay ném này sẽ không bao giờ thành công vì tên anh ta hàm nghĩa nghiệp dư. Những trò chơi chữ đó rất điển hình cho kiểu hài hước của Victor. Thời ấy, tôi thực sự trìu mến những câu nói đùa của ông, và tôi hiểu vì sao chúng phải được phát ra với một bộ mặt phớt tỉnh như thế.
Không lâu sau khi tôi được mười bốn tuổi, trong nhà chúng tôi có thêm một người thứ ba. Dora Shamsky, họ thời thiếu nữ là Katz, là một bà góa mập mạp trạc tứ tuần, với mái tóc vàng kỳ cục và bộ mông bó thật chặt. Kể từ khi ông Shamsky qua đời vào sáu năm trước, bà làm thư ký cho bộ phận thống kê của hãng bảo hiểm Mid-American Life. Bác Victor gặp bà tại phòng khiêu vũ khách sạn Featherstone, nơi ban Moonlight Moods được thuê để đảm nhận phần âm nhạc cho bữa tiệc hàng năm, ngay trước ngày năm mới. Sau một màn tán tỉnh chớp nhoáng, hai người lấy nhau vào tháng Ba. Tôi không thấy có gì phải phản đối tự thân tất cả những việc đó và kiêu hãnh trở thành phù rể cho đám cưới. Nhưng một khi màn bụi đã bắt đầu rơi xuống, tôi buồn bã nhận ra bà bác mới của tôi không nhanh nhảu cười trước những câu nói đùa của Victor, và tôi tự hỏi không biết ở bà điều đó có phải là biểu hiện của ngốc nghếch hay thiếu vắng trí óc linh hoạt có hại cho tương lai cuộc sống chung của họ. Tôi nhanh chóng biết được là có hai Dora. Người đầu tiên, vô cùng hoạt bát và được việc, là một nhân vật thô ráp, hơi đàn ông tính, di chuyển trong nhà như một cơn lốc với thứ năng lượng của một viên thượng sĩ thông qua một tâm trạng đầy hào hứng, một người biết tuốt, một ông chủ. Dora thứ hai, một người đàn bà ưa làm điệu thích uống rượu, một con người nhạy cảm quá đà, hay khóc lóc và than thở, mặc váy ngủ màu hồng đi lại lờ đờ và nôn ra thảm phòng khách khi quá chén. Trong hai người, tôi thích người thứ hai hơn, rất có thể là vì sự trìu mến khi đó bà dành cho tôi. Nhưng chuyện Dora uống rượu nêu lên một câu đố mà tôi thấy không dễ đoán được lời giải, vì những lần suy sụp của bà khiến cho Victor buồn rầu và bất hạnh, và hơn mọi thứ trên đời, tôi ghét nhìn thấy bác tôi phải đau khổ. Victor có thể quen được với Dora tỉnh táo và hay gây chuyện, nhưng sự say sưa của bà gợi lên trong lòng ông một sự nghiêm khắc và thiếu kiên nhẫn mà tôi thấy không được tự nhiên lắm, một sự tha hóa ở bản chất đích thực của ông. Cái tốt và cái xấu lao vào một trận chiến triền miên. Khi Dora tỏ ra dễ chịu, Victor không được như vậy. Khi Dora tỏ ra khó chịu, Victor liền trở nên thoải mái. Dora tốt dẫn theo một Victor xấu, và Victor tốt chỉ trở lại khi Dora không đáng yêu. Tôi trở thành tù nhân trong hoàn cảnh tồi tệ ấy suốt hơn một năm.
Thật may mắn, công ty xe bus Boston đã chi một khoản bồi thường rộng rãi. Theo những tính toán của Victor, số tiền đủ để trả cho bốn năm học đại học của tôi nếu chi tiêu hợp lý, cộng thêm một khoản dư nhỏ để giúp tôi xâm nhập cái gọi là cuộc sống thực. Trong những năm đầu tiên, ông ra sức gìn giữ món tiền nguyên vẹn. Ông nuôi tôi bằng tiền của mình và sung sướng với điều đó, kiêu hãnh vì trách nhiệm và không có chút ý định chạm vào dù chỉ một phần nhỏ số tiền. Tuy nhiên, với Dora thêm vào bức tranh, ông phải thay đổi kế hoạch. Ông rút hết tiền lãi tích cóp được, cộng với một phần khoản dư nhỏ và ghi tên cho tôi vào một trường ở New Hampshire, nghĩ rằng bằng cách ấy có thể làm đảo ngược những hậu quả từ sai lầm của ông. Bởi vì khi Dora không trở thành được người mẹ mà ông hy vọng trao tặng cho tôi, ông thấy chẳng có lý gì lại không tìm một giải pháp khác. Thật tiếc cho khoản dư nhỏ, tất nhiên, nhưng còn làm gì được nữa đây. Đối mặt với một lựa chọn giữa bây giờ và sau này, Victor luôn ngả sang bên của bây giờ, và vì cả cuộc đời ông được hướng lối bởi cái lôgic của thiên hướng ấy, thật tự nhiên khi ông lại chọn lựa cái bây giờ.
Tôi trải qua ba năm ở Anselm Academy dành cho học sinh nam. Khi tôi về nhà vào năm thứ hai, Victor và Dora đã chia đôi ngả đường, nhưng có vẻ như ông không có ý định đổi trường cho tôi một lần nữa, nên tôi lại quay về New Hampshire sau khi kỳ nghỉ hè kết thúc. Những gì Victor kể về vụ ly dị khá là rối rắm, và tôi chưa bao giờ chắc chắn được về những chuyện đã thực sự xảy ra. Tôi nghe nói đến những tài khoản nhà băng thâm hụt và bát đĩa vỡ, cũng như một người tên là George, mà tôi tự hỏi không biết vai trò là gì ở trong đó. Tuy nhiên, tôi không gặng hỏi bác tôi về các chi tiết, vì khi việc ấy đã được giải quyết xong xuôi, ông có vẻ nhẹ nhõm hơn là sợ hãi vì sẽ phải quay lại sống một mình. Victor sống sót được qua những trận chiến của hôn nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là ông thoát ra một cách lành lặn. Dáng vẻ của ông trở nên nhàu nát đến đáng buồn (cúc áo rụng, cổ áo bẩn, gấu quần sờn), và cả đến những câu nói đùa của ông cũng khoác màu buồn bã, gần như là đau đớn. Các dấu hiệu đó đã là nghiêm trọng lắm rồi, nhưng tôi còn lo lắng hơn vì những xuống dốc về sức khỏe của ông. Nhiều khi ông đang đi thì trượt chân ngã (một chỗ yếu bí ẩn của đầu gối), va phải những đồ vật quen thuộc, có vẻ quên mình đang ở đâu. Tôi biết đó chính là khoản tiền chuộc trả cho cuộc sống với Dora, song tuy thế hẳn là phải còn điều gì đó nữa. Không muốn làm gia tăng sự hoảng hốt, tôi gắng sức tự thuyết phục mình rằng những rối loạn ấy liên quan đến tinh thần nhiều hơn là sức khỏe. Có thể là tôi có lý, nhưng với độ lùi thời gian, tôi khó mà tin được rằng những triệu chứng mà tôi bắt gặp vào mùa hè năm đó lại không có quan hệ với cơn đau tim thủ phạm gây ra cái chết của ông hai năm sau. Ngay cả khi Victor không nói gì, cơ thể của ông vẫn chuyển cho tôi một thông điệp mã hóa, và khi ấy tôi không có đủ khả năng cũng như trí tuệ để giải mã.
Khi tôi quay về Chicago trong kỳ nghỉ Giáng sinh, cơn khủng hoảng dường như đã qua. Victor gần như tìm lại được toàn bộ sức sống và đột nhiên những sự kiện lớn lao dần lộ diện. Tháng Chín, ông và Howie Dunn giải tán ban Moonlight Moods và lập ra một ban khác cùng với ba nhạc công trẻ chơi trống, piano và saxophone. Giờ đây họ tên là Moon Men, và phần lớn bài hát của họ đều rất độc đáo. Victor viết lời, Howie viết nhạc, và cả năm người cùng hát, theo cách của mình. “Không còn những bài cũ nữa,” Victor thông báo khi tôi về đến nơi. “Không còn những điệu nhạc nhảy nữa. Không còn những bữa tiệc đám cưới say khướt nữa. Bọn bác thôi diễn cho những bữa tiệc và bữa chè chén tệ hại rồi, bọn bác chuyển sang chơi nhạc cao cấp.” Không thể chối cãi rằng họ đã nghĩ được một công thức độc đáo, và khi buổi tối hôm sau đến nghe họ hát, những bài hát ấy mang lại cho tôi cả một phát hiện lớn - đầy hài hước và trí tuệ, một hình thức lộn xộn đầy dữ dội chế giễu mọi thứ, từ chính trị cho đến tình yêu. Lời các bài hát mà Victor viết mang hương vị nhẹ nhõm của những khúc nhạc cổ, nhưng có độ nhấn ẩn sâu với các hiệu ứng gần như mang tính Swift. Cuộc gặp gỡ giữa Spike Jones và Schopenhauer, nếu có thể tưởng tượng được một điều tương tự. Howie đã kiếm được cho Moon Men một hợp đồng tại một câu lạc bộ ở trung tâm thành phố, và họ tiếp tục chơi ở đó các cuối tuần, từ lễ Tạ ơn cho đến ngày Valentine. Thời điểm tôi trở về Chicago sau khi học xong trung học, một cuộc lưu diễn đang được lên kế hoạch và thậm chí họ còn nói đến chuyện thu âm một đĩa nhạc cho một công ty ở Los Angeles. Chính vào lúc đó những cuốn sách của bác Victor bước vào cuộc đời tôi. Ông lên đường vào giữa tháng Chín và không biết bao giờ mới quay về.
Đó là một đêm rất muộn, chưa đầy một tuần trước ngày tôi đi New York. Victor ngồi trong ghế phôtơi gần cửa sổ, ông hút cả bao thuốc Raleighs và uống rượu mạnh trong một cái cốc nhựa mua ở siêu thị. Nằm ngửa bụng trên đi văng, tôi sung sướng trôi nổi trong cái đờ đẫn gây từ rượu whisky và thuốc lá. Chúng tôi nói về đủ thứ chuyện trong suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ, nhưng rồi có một khoảng lặng vụt đến và mỗi người chúng tôi im lặng rẽ hướng sang những suy nghĩ riêng tư. Nhìn xéo đám khói đang bay xoáy lên dọc theo má, bác Victor nhả hơi thuốc cuối cùng rồi dập mẩu thuốc vào cái gạt tàn mà ông thích nhất, một kỷ niệm của kỳ Triển lãm toàn cầu năm 1939. Quan sát tôi vẻ quan tâm trìu mến, ông uống nốt ngụm rượu cuối cùng, chép miệng và buông một tiếng thở thật dài. “Bây giờ chúng ta đã đi đến chỗ khó khăn nhất rồi đây,” ông tuyên bố. “Những kết luận, những lời tạm biệt, những lời cuối cùng. Nhổ neo, hình như người ta nói thế trong phim cao bồi thì phải. Nếu cháu không thường xuyên nhận được tin của bác, Phileas ạ, cháu hãy nhớ là bác luôn nghĩ đến cháu. Bác rất muốn có thể nói là bác biết mình sẽ ở đâu, nhưng đột nhiên những thế giới mới lên tiếng gọi cả hai chúng ta, và bác sợ rằng chúng ta sẽ không có nhiều dịp để viết thư cho nhau đâu.” Ông ngừng lời để châm một điếu thuốc mới, và tôi thấy bàn tay cầm diêm của ông run lên. “Không ai biết được chuyện đó sẽ kéo dài bao nhiêu lâu,” ông tiếp tục, “nhưng Howie rất lạc quan. Bọn bác đã có nhiều hợp đồng lắm rồi, và chắc chắn sẽ có thêm nhiều nữa. Colorado, Arizona, Nevada, California. Bọn bác sẽ thẳng hướng Tây mà đi vào những vùng hoang dã. Dù thế nào đi nữa, bác nghĩ hẳn sẽ thú vị lắm. Một đàn chuột thành phố giữa đám cao bồi và da đỏ. Nhưng bác thích thú khi nghĩ tới những khoảng không gian rộng lớn ấy, với ý nghĩ được chơi nhạc dưới bầu trời sa mạc. Ai biết, nhỡ đâu sẽ có một chân lý mới mẻ nào đó hé lộ cho bác?”
Bác Victor cười, như để giảm bớt độ nghiêm trang của những câu nói. “Điều chính yếu,” bác nói tiếp, “là để đi được hết những khoảng cách đó thì cần phải mang theo thật ít đồ. Bác sẽ phải bỏ lại một số thứ, cho đi, vứt đi. Vì triển vọng chúng biến mất hoàn toàn làm bác rất buồn, bác đã quyết định chuyển chúng lại cho cháu. Mà còn ai khác bác có thể tin cậy được nữa đây? Ai khác sẽ tiếp nối truyền thống đây? Bác sẽ bắt đầu bằng những cuốn sách. Đúng, đúng đấy, tất cả những cuốn sách, về phần bác, lúc này là thích hợp nhất trên đời. Chiều nay bác đã đếm rồi, có một nghìn bốn trăm chín mươi hai quyển. Một con số tốt đẹp, theo bác nghĩ, vì nó gợi nhớ đến việc Colombus phát hiện ra châu Mỹ, mà tên trường cháu sắp đến học lại được đặt để vinh danh Colombus. Có một số sách to, những quyển khác nhỏ, có những quyển dày và những quyển mỏng - nhưng tất cả đều chứa đựng từ ngữ. Nếu cháu đọc những từ đó, chúng có thể sẽ có ích cho việc học của cháu. Không, không, bác không muốn nghe gì hết. Không được phép phản đối. Ngay khi cháu ổn định xong ở New York, bác sẽ gửi chúng lên. Bác sẽ giữ lại bản trùng cuốn sách của Dante, nhưng ngoài đó ra tất cả thuộc về cháu. Sau đó còn có bộ cờ vua bằng gỗ. Bác giữ bộ nam châm, nhưng cháu phải lấy bộ bằng gỗ. Và rồi hộp xì gà với chữ ký của các cầu thủ bóng chày. Chúng ta có chữ ký của gần hết các cầu thủ Cubs của hai thập niên vừa rồi, một vài ngôi sao và nhiều cầu thủ không nổi danh bằng ở cả giải vô địch. Matt Batts, Memo Luna, Rip Repulski, Putsy Caballero, Dick Drott. Ngay cả sự thiếu nổi tiếng của những cái tên này cũng sẽ đảm bảo sự bất tử cho họ. Sau đó bác muốn nói đến nhiều thứ đồ lặt vặt và nhỏ nhặt. Những chiếc gạt tàn đồ lưu niệm New York và Alamo của bác, những cái đĩa Haydn và Mozart mà bác thu với Dàn nhạc Cleveland, album ảnh gia đình, tấm huy chương mà bác giành được khi còn nhỏ, vì được giải nhất một cuộc thi âm nhạc toàn bang. Năm 1924, cháu có tin không - đã lâu, lâu lắm rồi! Cuối cùng bác muốn cháu lấy bộ com lê vải tuýt mà bác mua ở Loop cách đây vài mùa đông. Bác không cần đến nó ở nơi bác sắp đến nữa, và nó được làm từ thứ len hảo hạng nhất của Scotland đấy. Bác mới chỉ mặc nó hai lần, và nếu bác mang nó cho Đội quân Cứu tế thì cuối cùng nó sẽ nằm trên lưng một thằng cha ngu ngốc nào đó ở Skid Row. Cho cháu sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều đó sẽ nâng vẻ ngoài của cháu lên, và làm đẹp thì không có gì xấu, phải không nào?
Ngày mai chúng ta sẽ đến chỗ thợ may để sửa lại một chút cho vừa với cháu.
“Vậy thôi. Bác nghĩ đó là tất cả rồi. Những cuốn sách, bộ cờ vua, những chữ ký, những thứ vụn vặt, bộ quần áo. Giờ bác đã trao đi được vương quốc của bác, bác thỏa mãn lắm rồi. Cháu không cần nhìn bác như vậy. Bác biết điều bác làm, và bác hài lòng vì đã làm điều đó. Cháu là một chàng trai tốt, Phileas, và cháu sẽ luôn ở cùng bác, dù bác ở đâu đi nữa. Hiện tại, chúng ta đi theo hai hướng ngược nhau. Nhưng sớm hay muộn chúng ta sẽ tìm lại được nhau, bác chắc chắn đấy. Cuối cùng tất cả sẽ ổn, cháu sẽ thấy, tất cả sẽ kết nối lại với nhau. Chín vòng tròn. Chín hành tinh. Chín lượt đánh bóng chày. Chín cuộc đời của chúng ta. Cứ thử nghĩ mà xem. Những sự tương ứng thì vô tận. Nhưng tối nay như thế là đủ độ. Muộn lắm rồi, giấc ngủ đang chờ đợi cả hai chúng ta. Nào, đưa tay cho bác. Đúng rồi, tốt đấy, nắm rất chặt. Như thế. Và giờ thì siết mạnh vào. Đúng đấy, một cái bắt tay từ biệt. Một cái bắt tay kéo dài đến tận cùng thời gian.”
Cứ khoảng một hoặc hai tuần bác Victor lại gửi cho tôi một tấm bưu ảnh. Thường là các bưu ảnh cho khách du lịch, màu sắc sặc sỡ: mặt trời lặn trên rặng Rocky Mountain, ảnh quảng cáo khách sạn bên đường, xương rồng, các chàng cao bồi cưỡi ngựa quăng dây, trang trại cho khách du lịch, những thành phố ma, toàn cảnh sa mạc. Đôi khi có những lời chào viết bên trong hình cái thòng lọng, và thậm chí một lần có cả một con la đang nói, phía trên đầu là một vòng tròn cho lời thoại trong truyện tranh: Lời chào từ Silver Gulch. Những câu viết đằng sau ngắn gọn, những dòng chữ nguệch ngoạc không sao hiểu nổi, nhưng tôi không thèm khát tin tức của bác tôi bằng một dấu hiệu của sự sống. Sự thích thú nằm ngay trong bản thân những chiếc bưu ảnh, và chúng càng thô lỗ ngớ ngẩn và kệch cỡm, tôi lại càng sung sướng khi nhận được. Tôi thấy như chúng tôi đồng lõa chia sẻ một câu chuyện cười mỗi lần tôi tìm thấy một cái bưu ảnh trong hòm thư, và thậm chí tôi còn dán những cái đẹp nhất (ảnh chụp một quán ăn trống không ở Reno, một người đàn bà to béo trên ngựa ở Cheyenne) lên tường phía trên giường ngủ. Người bạn cùng phòng của tôi hiểu được vì sao có quán ăn trống không, nhưng không hiểu được nữ kỵ sĩ. Tôi giải thích cho anh rằng trông bà ta giống một cách lạ thường với Dora, vợ cũ của bác tôi. Nhìn vào cách những sự việc trên thế giới này diễn ra, có rất nhiều cơ may người đàn bà đó chính là Dora.
Vì Victor không bao giờ ở lại đâu quá lâu, tôi rất khó trả lời ông. Cuối tháng Mười, tôi viết cho ông một bức thư dài chín trang kể về vụ mất điện ở New York (tôi bị kẹt trong thang máy cùng hai người bạn), nhưng mãi đến tháng Giêng tôi mới gửi được, khi ban Moon Men bắt đầu hợp đồng ba tuần ở Tahoe. Tuy không thể viết thư được thường xuyên, nhưng tôi luôn tìm cách giữ liên lạc với ông qua ngả tinh thần bằng cách mặc bộ com lê của ông. Thời gian đó với sinh viên mốt không phải là com lê, nhưng khi mặc nó tôi cảm thấy mình được ở chỗ của mình, và vì nhìn đi nhìn lại tôi không có chỗ của mình nào khác, tôi tiếp tục mặc nó vào mọi ngày, từ đầu năm đến cuối năm. Trong những thời điểm khó khăn hoặc buồn bã nhất, tôi tìm được một nguồn hỗ trợ đặc biệt khi cảm thấy mình được sự ấm áp của bộ quần áo của bác tôi bao bọc, và có lúc tôi cảm thấy bộ quần áo quả thực giữ cho tôi đứng vững, và nếu không mặc nó người tôi sẽ tan rã. Nó có chức năng giống như một lớp màng bảo vệ, một lớp da thứ hai che chở cho tôi khỏi những cú đánh của cuộc đời. Giờ đây xa xôi nhìn lại, tôi nhận ra rằng hẳn là mình từng có một dáng vẻ kỳ dị lắm: hốc hác, rũ rượi, căng thẳng, một chàng trai trẻ hiển nhiên là lạc lõng với những gì còn lại của thế giới. Nhưng vấn đề là tôi không hề muốn mình vừa khít vào đó. Nếu các bạn cùng lớp nhìn tôi như một sinh thể kỳ lạ, thì đó không phải là vấn đề của tôi. Tôi là trí thức trác tuyệt, thiên tài tương lai hay gây gổ và đầy ý tưởng, Malevole thích tránh né đứng tách biệt khỏi đàn. Ký ức về những thứ lố bịch mà tôi tự khoác lên mình dạo ấy làm tôi gần như phải đỏ mặt vì xấu hổ. Tôi từng là một hỗn hợp thô kệch của sự rụt rè và cao ngạo, những cơn quậy phá đáng sợ xen lẫn với những im lặng kéo dài đầy bối rối. Khi cao hứng, tôi ngồi hàng đêm trong những quán bar để uống rượu và hút thuốc lá như thể muốn tự giết mình, và đọc những câu thơ của các nhà thơ thế kỷ mười sáu ít tiếng tăm, tung ra bằng tiếng Latinh những trích dẫn lạ hoắc từ các triết gia thời Trung cổ, và làm tất cả những gì có thể để gây ấn tượng cho các bạn tôi. Mười tám tuổi là một cái tuổi khủng khiếp, và trong khi quanh quẩn khắp nơi với niềm tin rằng theo một cách nào đó mình chín chắn hơn các bạn đồng lứa, thì trên thực tế tôi lại chỉ tìm ra một cách khác cho thấy mình còn rất trẻ con. Hơn tất cả, bộ quần áo là dấu hiệu bản ngã của tôi, biểu tượng hình ảnh của tôi mà tôi muốn người khác nhìn thấy. Khách quan mà nói, không thể nói điều gì xấu về bộ com lê. Nó được may bằng thứ vải tuýt màu xanh lá cây đậm, với những ô kẻ ca rô nhỏ và mấy cái ve áo hẹp - một bộ com lê chắc chắn may rất khéo - nhưng sau khi được mặc không ngừng trong suốt nhiều tháng trông nó đã hơi tã, nó treo lủng lẳng trên bộ xương gầy guộc của tôi giống như một ý kiến muộn màng biết kêu sột soạt, một sự náo loạn chùng rão của vải len. Điều mà các bạn tôi không biết, tất nhiên, là tôi mặc nó vì những lý do thuộc về tình cảm. Dưới cái vẻ phản kháng vờ vịt đó, tôi thỏa mãn cái ham muốn được có bác tôi ở bên cạnh mình, và sự khéo léo về may cắt của bộ quần áo gần như không có chút ý nghĩa nào ở đây. Nếu Victor cho tôi bộ quần áo kiểu cổ lỗ sĩ áo dài đến đầu gối, chắc chắn tôi cũng sẽ mặc nó với cùng trạng thái tinh thần như khi mặc bộ tuýt này.
Khi kỳ học kết thúc vào mùa xuân, tôi từ chối lời gợi ý của người bạn ở chung phòng đề xuất tiếp tục sống cùng nhau vào năm sắp tới. Tôi rất thích Zimmer (quả thực đó là người bạn thân nhất của tôi), nhưng sau bốn năm sống trong những căn phòng chung và ký túc xá sinh viên, tôi không thể cưỡng lại được ý định sống một mình. Tôi tìm được một căn hộ ở phố 112 Tây, và chuyển đến đó vào ngày 15 tháng Sáu, cùng với hai chiếc vali ngay trước khi hai anh chàng hộ pháp chuyển đến cho tôi bảy mươi sáu thùng cactông sách của bác Victor, đã phải nằm chờ suốt chín tháng trong một nhà kho. Đó là một căn phòng ở tầng sáu một tòa nhà lớn có thang máy: một phòng rộng trung bình, có một góc bếp về phía Đông Nam, một cái tủ tường, một phòng tắm, và hai cửa sổ nhìn xuống một phố nhỏ. Những con chim bồ câu đập cánh và kêu gù gù trên bậu cửa, và phía dưới là sáu cái thùng rác nham nhở trên vỉa hè. Bên trong phòng khá tối, không khí như được nhuộm màu ghi, và ngay cả vào những ngày nhiều nắng nhất cũng chỉ lọc được thứ ánh sáng nhờ nhờ. Sau vài hoảng hốt lúc ban đầu, những bụm nhỏ sợ hãi với ý nghĩ phải sống một mình, tôi có một phát hiện đặc biệt, điều cho phép tôi sưởi ấm căn phòng và ở được trong đó. Đó là vào đêm thứ hai hoặc đêm thứ ba, hoàn toàn tình cờ, tôi đứng giữa hai cái cửa sổ, hơi chếch một chút so với cửa sổ bên trái. Quay mặt một chút về hướng này, đột nhiên tôi nhìn thấy một khoảng không, một không gian giữa hai tòa nhà ở phía góc. Tôi nhìn thấy Broadway, một mảnh nhỏ bé nhất, rút gọn nhất của Broadway, và điều đáng kể là toàn bộ vùng mà tôi có thể nhìn thấy được án ngữ bởi một bảng hiệu bằng đèn nê ông, một khoảng sáng chói nhấp nháy những chữ màu hồng và xanh nước biển tạo thành cụm từ MOON PALACE. Tôi nhận ra đó là bảng hiệu một quán ăn Trung Quốc ở góc phố, nhưng sự mãnh liệt mà những từ đó đập vào tôi loại trừ toàn bộ dẫn chiếu, toàn bộ những kết hợp thực tế. Treo lơ lửng ở đó, trong bóng tối, như một bức thông điệp từ trên trời rơi xuống, những từ đó thật thần diệu. MOON PALACE. Tôi nghĩ ngay đến bác Victor và ban nhạc nhỏ bé của bác, và trong khoảnh khắc không lý trí đầu tiên ấy những nỗi sợ hãi hoàn toàn không còn tác động lên tôi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy điều gì đột ngột đến vậy, tuyệt đối đến vậy. Một căn phòng trần trụi và bẩn thỉu đã chuyển hóa thành một chốn nội tâm, điểm giao nhau của những điềm báo kỳ lạ và những sự kiện huyền bí, võ đoán. Tôi tiếp tục ngắm nhìn dấu hiệu Moon Palace, và dần dần tôi hiểu rằng mình đã đến được đúng nơi cần đến, rằng căn phòng nhỏ này đúng là nơi tôi phải sống.
Cả mùa hè tôi làm việc bán thời gian cho một hiệu sách, đi xem phim, yêu rồi lại thôi yêu một cô gái tên là Cynthia mà khuôn mặt từ lâu đã biến mất khỏi trí nhớ của tôi. Càng lúc tôi càng cảm thấy thoải mái trong căn phòng mới này, và khi đi học lại vào mùa thu, tôi lao vào một cơn lốc đầy nhiệt hứng những cuộc chè chén ban đêm cùng Zimmer và những người bạn của tôi, những cuộc chinh phục tình yêu, và những khoảng dài hoàn toàn im lặng dành cho đọc sách và học tập. Mãi sau này, khi nhìn tất cả những cái đó với độ lùi của nhiều năm, tôi mới hiểu được khoảng thời gian ấy với tôi màu mỡ đến thế nào.
Rồi tôi hai mươi tuổi, và vài tuần sau đó tôi nhận được từ bác Victor một lá thư dài gần như không thể hiểu nổi, viết bằng bút chì ở mặt sau một tờ phiếu đặt mua bách khoa toàn thư Humboldt. Theo những gì tôi giải mã được, ban Moon Men đang gặp khó khăn, và sau một thời kỳ đen đủi kéo dài (hợp đồng bị cắt, lốp xe nổ, một gã say rượu đấm vào mũi anh chàng chơi saxophone), các thành viên của ban quyết định chia tay nhau. Từ tháng Mười một, bác Victor sống ở Boise, bang Idaho, nơi ông tìm được một công việc tạm thời, làm người bán từ điển bách khoa tại nhà. Nhưng công việc không chạy, và lần đầu tiên kể từ bao nhiêu năm biết ông, tôi nhận ra âm điệu thất bại trong những lời của Victor. “Kèn clarinet của bác treo trên tường,” bức thư viết, “tài khoản ngân hàng của bác trống không, và những người dân ở Boise không quan tâm đến bách khoa toàn thư.”
Tôi gửi tiền cho ông, rồi sau đó bằng điện tín nằn nì ông đến New York. Vài ngày sau Victor trả lời, cảm ơn tôi vì lời mời. Ông sẽ gói ghém đồ đạc vào cuối tuần, ông viết, và sẽ đi chuyến xe bus đầu tiên. Tôi tính là ông sẽ đến nơi vào thứ Ba, chậm nhất là thứ Tư. Nhưng thứ Tư đã tới và trôi qua, mà Victor vẫn chưa tới. Tôi gửi một bức điện khác, nhưng không có hồi âm. Những khả năng tai họa liên tiếp hiện ra trong đầu tôi. Tôi tưởng tượng ra tất cả những gì có thể xảy đến cho một người ở giữa Boise và New York, và lục địa Mỹ bỗng trở thành một vùng đất rộng lớn nguy hiểm đầy rẫy cạm bẫy và mê cung, một cơn ác mộng hiểm trở. Tôi cố xoay xở tìm tung tích chủ nhà nơi Victor thuê phòng, nhưng không có kết quả, và khi đó, đã tuyệt vọng, tôi gọi điện cho cảnh sát Boise. Tôi giải thích chi tiết vấn đề của tôi cho viên thượng sĩ ở bên kia đầu dây, một người tên là Neil Armstrong. Ngày hôm sau, thượng sĩ Armstrong gọi lại cho tôi để báo tin. Bác Victor được tìm thấy trong căn phòng của ông ở phố Mười hai Bắc, đã chết - ngồi thu lu trong ghế phôtơi, trên người mặc pacđơxuy, một chiếc kèn clarinet mới lắp một nửa ở tay phải. Hai chiếc vali đầy đồ đặt cạnh cửa. Người ta đã kiểm tra toàn bộ căn phòng, nhưng nhà chức trách không phát hiện được điều gì có thể gọi lên một sự bức hại. Theo báo cáo sơ bộ của bác sĩ pháp y, khả năng nguyên nhân cái chết là một cơn đau tim. “Không may rồi, cậu bé ạ,” viên thượng sĩ nói thêm, “tôi thực sự lấy làm tiếc.”
Tôi đi máy bay về phía Tây ngay buổi sáng ngày hôm sau để tiến hành các thủ tục cần thiết. Tôi nhận dạng Victor ở nhà xác, trả các món nợ, ký các giấy tờ và biên bản, chuẩn bị để đưa thi thể bác về Chicago. Người chủ dịch vụ mai táng Boise tuyệt vọng vì tình trạng cái xác. Sau gần một tuần chờ đợi chẳng ai đoái hoài trong căn phòng, không còn nhiều việc để làm với cái xác nữa. “Nếu tôi là cậu,” ông ta nói với tôi, “tôi sẽ không chờ đợi điều kỳ diệu đâu.”
Tôi tổ chức lễ tang qua điện thoại, báo tin cho vài người bạn của Victor (Howie Dunn, người chơi saxophone gãy mũi, một số học trò cũ của ông), tìm cách liên lạc với Dora dù không mấy mặn mà (không thể tìm được bà), rồi đi cùng quan tài đến Chicago. Victor được chôn cạnh mẹ tôi và bầu trời rạch mưa xuống đầu chúng tôi trong khi chúng tôi nhìn người bạn chung biến mất vào lòng đất. Sau đó chúng tôi về nhà Dunn, ở Khu Bắc, tại đó bà Dunn đã chuẩn bị sẵn một bữa ăn giản dị gồm thịt nguội và xúp nóng. Tôi khóc liền bốn tiếng đồng hồ, và trong nhà tôi vừa ăn vừa tống vào bụng năm hay sáu ly whisky đúp. Chúng gây ra cho tinh thần tôi một hiệu ứng đáng kể, và sau một hay hai tiếng tôi bắt đầu hát rất to. Howie đệm đàn piano cho tôi, và trong một lúc cuộc tụ tập trở nên khá ồn ào. Rồi tôi nôn ra thảm, và phép lạ tan biến. Sáu giờ, tôi tạm biệt và lao ra dưới trời mưa. Tôi đi lang thang vô định trong vòng hai hay ba tiếng, tiếp tục nôn xuống một bậu cửa, rồi tìm được một cô gái điếm gầy gò mắt màu ghi cầm ô đứng trên phố, trong ánh sáng đèn nê ông. Tôi đi theo cô vào một căn phòng của khách sạn Eldorado, nói chuyện qua loa với cô về những bài thơ của Sir Walter Raleigh, và hát cho cô những bài hát ru trong khi cô cởi quần áo và giạng chân ra. Cô gọi tôi là thằng điên, nhưng tôi cho cô một trăm đô la và cô chấp nhận qua đêm với tôi. Dù vậy tôi ngủ không ngon giấc và lúc bốn giờ sáng tôi ra khỏi giường, mặc quần áo ướt và đi taxi ra sân bay. Mười giờ tôi về đến New York.
Xét cho cùng, vấn đề của tôi không phải là nỗi buồn. Nỗi buồn có thể nằm ở nguồn gốc, nhưng nó nhanh chóng nhường chỗ cho một thứ khác hẳn - một thứ hiện hữu hơn, dễ đo đếm hơn về hiệu ứng, dữ dội hơn về hậu quả mà nó gây ra. Toàn bộ một chuỗi xung lực được kích hoạt, và đến một lúc tôi bắt đầu chao đảo, bắt đầu bay quanh chính mình thành những vòng tròn ngày một rộng thêm, cho đến khi cuối cùng bị hất khỏi quỹ đạo.
Thực tế là tình hình tài chính của tôi đã sa sút. Tôi đã nhận ra điều đó từ lâu nay, nhưng cho đến khi ấy mối đe dọa vẫn còn ở khá xa, và tôi chưa bao giờ suy nghĩ đến điều đó một cách nghiêm túc. Nhưng sau cái chết của bác Victor, và sau khi tiêu hàng nghìn đô la cho những ngày khủng khiếp đó, ngân quỹ được dự trù cho đến khi tôi học xong đại học không còn lại bao lăm. Nếu không làm điều gì đó để bù vào số tiền này, tôi sẽ không thể trụ được cho đến cuối cùng. Tôi tính rằng nếu tiếp tục tiêu tiền theo nhịp độ ấy, tôi sẽ trắng tay vào tháng Mười một của năm học cuối. Và như thế nghĩa là tôi muốn nói tất cả: từng tờ năm trăm, từng xăng tim, từng xu, tất tật.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là bỏ học, nhưng sau khi nuôi dưỡng ý định ấy trong một hay hai ngày, tôi quyết định thôi không nghĩ đến nữa. Tôi đã hứa với bác tôi là sẽ học xong, và bởi vì ông không còn đó để tán thành một thay đổi về kế hoạch của tôi, tôi không cảm thấy được tự do để làm sai lời ông. Thêm vào đó, còn có vấn đề quân dịch. Nếu lúc này tôi bỏ học, chế độ miễn quân dịch dành cho sinh viên sẽ bị rút lại, và tôi không hề thích cái viễn cảnh đi thẳng đến với cái chết trong rừng rậm châu Á. Vì vậy tôi sẽ ở lại New York và tiếp tục đi học tại Columbia. Đó là một quyết định hợp lý, thái độ đúng đắn. Sau một khởi đầu hứa hẹn đến vậy, tôi sẽ không khó khăn gì mà tiếp tục hành xử một cách đúng lý. Có đủ thứ lựa chọn trong tầm tay của những người ở vào trường hợp của tôi - học bổng, vay mượn, chương trình vừa học vừa làm - nhưng ngay khi bắt đầu nghĩ đến chúng, tôi đã bị nỗi ghê sợ xâm chiếm. Đó là một phản ứng đột ngột, không mong muốn, một cơn buồn nôn. Tôi nhận ra là mình không hề muốn làm tất cả những thứ đó, và vậy là tôi vứt bỏ toàn bộ - với sự bướng bỉnh, với sự khinh bỉ, với đầy đủ ý thức mình đang phá hoại cái cơ may duy nhất ngõ hầu sống sót qua được tình hình bi kịch hiện nay. Kể từ lúc ấy, quả thực, tôi không hề động tay vào việc gì, tôi không làm gì để thoát ra được nữa. Chúa mới biết tại sao tôi lại hành động như vậy. Hồi đó tôi tự nghĩ ra cho mình vô số lý do, nhưng nhìn chung tất cả tóm gọn lại trong nỗi tuyệt vọng. Tôi tuyệt vọng, và đối diện với nỗi đau đớn ấy tôi nghĩ một thái độ quyết liệt là nhất thiết, theo một cách nào đó. Tôi những muốn nhổ xuống thế giới, làm hành động kỳ quặc nhất có thể. Với tất cả sự hăng hái và chủ nghĩa lý tưởng của một chàng thanh niên đã suy nghĩ quá nhiều và đọc quá nhiều sách, tôi quyết định hành động đó sẽ là không gì cả: việc đó đồng nghĩa với một lời từ chối đầy tính chiến đấu đối với mọi hoạt động. Đó là thứ chủ nghĩa hư vô được nâng lên tầm một định đề mỹ học. Tôi sẽ biến cuộc đời mình thành một tác phẩm nghệ thuật, bằng cách tự hiến mình cho cái nghịch lý tối hảo, theo đó mỗi hơi thở của cuộc đời sẽ chuẩn bị thêm một chút cho tôi để thưởng thức kết cục của chính tôi. Tất cả các dấu hiệu đều hội tụ về một sự biến mất hoàn toàn, và mặc cho những dự tính diễn giải chúng theo một cách khác của tôi, hình ảnh về sự u tối đó dần hấp dẫn tôi, tôi bị quyến rũ bởi tính giản đơn trong phác thảo của nó. Tôi sẽ không tìm cách chống lại cái không thể tránh, nhưng tôi sẽ không tự lao đến để gặp nó. Nếu cuộc đời tiếp diễn thêm một chút giống như nó vẫn luôn như vậy, thì sẽ càng tốt. Tôi sẽ kiên nhẫn, tôi sẽ đứng vững. Một cách đơn giản, tôi biết điều đang chờ đợi mình, và dù cho điều đó xảy đến với tôi ngày hôm nay hay vào ngày mai, dù thế nào đi nữa nó cũng sẽ phải xảy đến. Sự biến mất hoàn toàn. Con thú đã bị mổ bụng, lòng ruột của nó đã được đem ra để đoán định tương lai. Mặt trăng sẽ che khuất mặt trời, và khi đó tôi sẽ biến đi. Tôi sẽ tiêu đời, một nhúm thịt xương không đáng giá đến một cắc.
Khi đó tôi bắt đầu đọc những cuốn sách của bác Victor. Hai tuần sau đám tang, tôi chọn ngẫu nhiên một cái thùng, cẩn thận dùng dao cắt băng dính, và đọc toàn bộ những gì có ở bên trong. Tôi tìm thấy ở đó một mớ hỗn độn, được gói lại không theo chút trật tự hay ý đồ nào. Có các tiểu thuyết và những vở kịch, các sách lịch sử và những hướng dẫn du lịch, các sách dạy chơi cờ và những tiểu thuyết trinh thám, các sách viễn tưởng và những tác phẩm triết học - một sự hỗn loạn tuyệt đối của in ấn. Quan trọng gì. Tôi đọc chúng từ đầu đến cuối, từ chối mọi đánh giá. Trong mắt tôi, mỗi cuốn sách mang trong mình cùng giá trị với bất kỳ cuốn nào khác, mồi câu được cấu tạo một cách chính xác bằng số lượng từ chuẩn, và mỗi từ nằm chính xác ở nơi cần ở. Tôi đã chọn để tang bác Victor bằng cách đó. Từng cái một, tôi mở những cái thùng, và từng quyển một, tôi đọc những cuốn sách. Đó là nhiệm vụ mà tôi tự giao cho mình, và tôi sẽ tiếp tục cho đến kết cục cay đắng cuối cùng.
Tất cả những cái thùng đó đều có cùng một nội dung hỗn tạp giống như thùng đầu tiên, một tập hợp lẫn lộn của cái hay nhất và cái chán nhất, những tác phẩm chốc lát rải rác giữa các tác phẩm kinh điển, những cuốn sách bỏ túi quăn góc giữa các cuốn sách đóng bìa cứng, sách nấu ăn bên cạnh Donne và Tolstoy. Bác Victor chưa từng bao giờ sắp xếp tủ sách của mình một cách có hệ thống. Mỗi lần mua một cuốn mới, ông đặt nó lên giá bên cạnh cuốn trước đó, và dần dần những hàng sách dài ra, chiếm ngày càng nhiều chỗ hơn theo năm tháng. Chính xác là bằng cách đó mà những cuốn sách chui vào những cái thùng cactông. Ít nhất thì thứ tự về thời gian của chúng vẫn được giữ nguyên, cái chuỗi vẫn nguyên định dạng. Tôi coi cách sắp xếp đó là lý tưởng. Khi mở một cái thùng, tôi xâm nhập một mảnh đời khác của bác tôi, một giai đoạn xác định theo ngày, tuần hay tháng, và tôi tìm được sự an ủi trong cảm giác được chiếm hữu cùng không gian tinh thần mà Victor từng chiếm hữu một ngày nào đó - được đọc cùng những từ đó, được sống trong cùng những câu chuyện đó, và có thể được có cùng những suy nghĩ đó. Gần như là đi lại hành trình của một nhà thám hiểm thời xa xưa, giẫm lên những bước chân đã mang ông đến một lãnh thổ chưa từng được biết đến, theo hướng Tây, về phía mặt trời, đuổi theo ánh sáng cho đến khi cuối cùng nó phải tắt. Những cái thùng không được đánh số cũng không được dán nhãn, tôi không có cách nào biết trước được mình sẽ xâm nhập quãng thời gian nào. Chuyến đi liền trở thành những cuộc dạo chơi kín đáo, đứt đoạn. Chẳng hạn từ Boston đến Lenox. Từ Mineapolis đến Sioux Falls. Từ Kenosha đến Salk Lake City. Quan trọng gì việc phải nhảy từ đầu này sang đầu kia của tấm bản đồ. Cuối cùng, tất cả những khoảng trống sẽ được lấp đầy, tất cả những khoảng cách sẽ được phủ kín.
Tôi đã đọc nhiều quyển trong số đó, và có những quyển chính Victor bảo tôi đọc: Robinson Crusoe, Doctor