CHƯƠNG HAI
Bà Ký Tân, đưa con đi nhận nhiệm sở mấy hôm rồi trở về Lái Thiêu, vì bà còn phải chăm sóc nhà cửa và cơm nước cho chồng khi trở gió trái trời thường hay đau yếu. Hai mẹ con bịn rịn lúc chia tay. Bà không dám khóc vì sợ làm con gái ở lại sẽ buồn. Còn Cẩm Hương thì đứng dưới đất sát vách xe chỗ mẹ ngồi, chồm lên nắm chặt tay mẹ không muốn rời xa! Bà Ký Tân mấy lần bảo con về đi vì trời nắng nóng quá đỗi. Nhưng cô gái vẫn đứng đó. Khi xe chạy mất hút sau ngõ quẹo Ông Cọp, nàng mới lủi thủi trở về nhà trọ với mắt đỏ hoe, tâm tư buồn vô hạn.
Ngồi trên xe đò chở hành khách và hàng hóa từ từ lăn bánh, bà Ký Tân không dám quay lại nhìn con, nhưng lòng mẹ thắt thẻo, xót xa, nước mắt đầm đìa. Có buổi tiễn đưa nào mà không buồn? Nhứt là cô con gái yêu quý độc nhứt của bà từ đây sẽ xa dần bà theo dòng đời của một kiếp con người. Bởi rồi đây dạy học một thời gian, cô sẽ có chồng, lập gia đình riêng… Thật sự thì cha mẹ nào cũng mong muốn con cái mình thành nhân, thành thân. Vợ chồng bà cũng không ngoại lệ. Nhưng lòng thương con vô bờ bến của người mẹ, bao giờ sự ích kỷ cũng len lỏi ít nhiều trong tình thương yêu đó.
Nhớ năm mười tám tuổi, bà được gả vào nhà họ Đặng ở chợ Lái Thiêu, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một (về sau đổi lại là Bình Dương). Chồng bà là ông Đặng Kiên Tân. Gia đình bên chồng bà thuộc hàng điền chủ bậc trung có bề thế trong vùng. Còn gia đình bên bà thì nghèo hơn. Dù nhà chồng bà có người ăn kẻ ở giúp lo việc săn sóc đất vườn cùng trồng trọt hoa màu và trông coi cái chành mua bán sỉ các đồ gốm, muối, nhưng bà phải quán xuyến mọi việc trong ngoài hết sức vất vả.
Ông Ký Tân chồng bà là con một, là đứa con khẩn, con cầu tự. Ngay lúc mới sanh cơ thể ông đã yếu ớt. Ông bịnh hoạn theo nắng sớm mưa chiều. Má ông kể rằng, nuôi ông đến hết 12 tuổi căn hạn mới xin cho vào học lớp hai ở trường làng chung với đám trẻ con! Ông thông minh, học giỏi, nhớ dai nhưng sức khỏe không cho phép ông học đến nơi đến chốn. Có bằng tiểu học thì ông nghỉ ở nhà phụ cha tập tành làm ăn để coi sóc sản nghiệp cho gia đình. Từ đó, mọi sổ sách thu nhập buôn bán được người thư ký chỉ dạy lại, và khi ông thành thuộc thì đương sự giao lại hết cho ông trông coi. Còn người thư ký làm cho gia đình từ trước đến giờ thì làm công việc khác. Bởi thế người quen biết xa gần mới gọi là ông Ký Tân.
Bà già chồng lúc vui miệng hay nói với con dâu, và trước mặt người thân quen:
“Thằng Tân sống tới đâu thì tiền thuốc thang chất cao tới đó… Không tháng nào mà nó không bịnh. Dòng họ bên nội thấy nó như vậy, luôn nghĩ gia đình má sẽ tuyệt tử. Nhứt là mấy mụ cô của nó luôn châm chích đủ điều. Con là con dâu tốt, cảm ơn con đã sanh cho ba má đứa cháu nội gái ngoan hiền và hai đứa cháu nội trai thông minh dễ nhìn để nối dõi tông đường… Nhờ thế, má mới bịt được mấy cái mỏ lười biếng nhớt thây, làm ít thích nhiều của mấy mụ em chồng đó lại. Lúc ông bà nội sấp nhỏ còn sanh thời, má không phải ngại làm dâu cho ông bả, mà chỉ lo sợ mấy mụ cô chồng bây hay ganh tị, vặt mắc đó thôi. Sống được với ba bây đến bây giờ, cũng nhờ má có phần phước, nên được ông bà nội thương yêu, binh vực khi mấy mụ cô chồng bây nói đon, nói reng, hoặc lật lọng, hiếp đáp má..”
Bà Ký Tân có chồng được hai năm thì sanh con gái đầu lòng là cô Cẩm Hương. Và sau khi sanh được đứa con thứ ba thì ông bà già chồng giao hết tài sản làm ăn cho vợ chồng bà quán xuyến. Ông Ký Tân tuy cơ thể yếu đuối nhưng siêng năng, biết tính toán công việc làm ăn.
Vợ ông Ký Tân không học cao, vì cha mẹ nghèo, anh em đông, nên bà chỉ học hết lớp nhì, lớp ba trường làng thì ở nhà đi học may. Bà may mướn trong xóm, kiếm thêm tiền để phụ cha mẹ nuôi em. Bà tuy học hành không bằng ai, nhưng bà là người nhậm lẹ, thức thời, có óc cầu tiến, cộng vào sự ham mê đọc sách báo, nên bà tự tạo cho mình có kiến thức thấy xa hiểu rộng, biết người, biết ta. Nhứt là việc giao tế, bà rất bặt thiệp khéo léo chẳng thua kém ai và đôi khi còn trội hơn những phụ nữ đồng tuổi có hoàn cảnh tốt ăn học cao hơn bà thời bấy giờ.
Bà Ký Tân đã thiết thực giúp chồng nhiều việc trong ngoài. Cho nên mọi việc làm ăn của cha mẹ chồng giao lại vợ chồng bà đều được suông sẻ, và càng ngày càng khá giả hơn trước rất nhiều. Người dân nông thôn bản tánh thật thà, lương thiện. Bà Ký Tân luôn lấy chân tình đối với mọi người dù trong việc làm ăn bà cũng rất dễ dãi, cảm thông. Bà thường nói với người làm: “Thôi kệ, không lỗ thì cứ bán đi, ông bà ta có nói là bán rẻ hơn ngồi không, có chồng hơn ở vá. Kèo nèo làm chi, Trời cho còn hơn cái đó..”
Lúc mới chân ướt chân ráo về làm dâu, bà lo sợ đủ mọi điều. Mặc dù xã hội thời bà đã cởi mở, không còn khắt khe như thế hệ ông bà, cha mẹ bà nữa. Nhưng tùy theo hoàn cảnh, nhiều gia đình vẫn còn những tiểu tiết vướng vít ít nhiều phong kiến xa xưa để lại. Không nói chi đâu cho xa, như gia đình ông bà già chồng bà. Kẻ ăn người làm, ăn cơm ở nhà sau. Các món tôm cá thịt thà… nói tóm lại những món ăn ngon thì chủ ăn, còn món ăn dở như rau cải mắm muối thì dành cho kẻ làm, người ở, hoặc những món ăn chủ nhà ăn trước, còn dư thừa mới đến họ. Cả gạo nấu cơm cũng thế. Gạo nàng hương, nanh chồn, gié vàng… thì nấu cho gia đình chủ ăn, còn người làm thì ăn gạo ngang. Bà Ký Tân không bằng lòng việc nầy của cha mẹ chồng mình, nhưng bổn phận con dâu, bà không dám nói. Bà sợ cha mẹ chồng hiểu lầm rồi cho là bà lộng quyền, hoặc muốn dạy ngược lại mẹ cha thì những bất hòa phiền toái sẽ nhanh chóng xảy ra. Một hôm bà Ký Tân khôn khéo thưa với cha mẹ chồng:
“Thưa ba má, dạo nầy việc làm ăn bận rộn và có nhiều việc cần nói, trong lúc ăn cơm chung thợ thầy mới đủ mặt mà dặn dò họ chuyện nầy chuyện kia. Cho nên vợ chồng con sẽ ăn chung với họ, ba má thấy thế nào? Như vậy, ba má không phải chờ đợi chúng con về ăn cơm. Chúng con cũng không bỏ ngang công việc khi đến lúc phải về nhà ăn cơm. Ba má nghĩ coi, khoảng thời gian đi về không có chủ ở đó, họ cũng lơ là công việc. Ăn cơm chung với họ, con nghĩ sẽ có lợi. Bởi các công nhân sẽ thấy giữa chủ và người làm công có tình thân mật, và như vậy họ sẽ vui vẻ biết mình không phân biệt chủ tớ mà dốc lòng làm việc, không chút nại hà..”
Buôn bán thì được làm chủ lấy mình, có tiền ra tiền vào, ăn ngon, mặc đẹp, nhưng cũng có khi lỗ khi lời, và nhọc nhằn lắm. Vợ chồng bà không muốn con cái nối nghiệp mình, nên khuyến khích chúng học hành đến nơi đến chốn để có cuộc sống căn bản, vững chắc và nhàn nhã hơn.
Nhờ Trời Phật phù hộ, con gái Cẩm Hương của bà đã tốt nghiệp sư phạm và giờ đây được dạy học ở Cai Lậy. Bà Ký Tân tạm thời yên tâm, nhưng vẫn mong con gái gặp được ý trung nhân tâm đầu ý hiệp rồi kết thành giai ngẫu để sống đời hạnh phúc là vợ chồng bà thỏa mãn lắm rồi.
Đặng Tiến Tuấn con trai kế của ông bà đã học lớp cuối ban Thành Chung ở trường Cao Tiểu Cần Thơ (College de Cần Thơ) ở trọ tại nhà vợ chồng em gái bà. Nhà họ ở gần nhà ngủ Thanh Phong thuộc khu Cái Khế. Hai tháng trước, Tuấn lên Sài Gòn thi bằng Thành Chung. Chàng thi đậu bình thứ làm cho cha mẹ hãnh diện vô cùng. Nhưng thuở đó, trường Cao Tiểu Cần Thơ chỉ có đệ tứ niên học chương trình Thành Chung nặng về Pháp ngữ. Sau nầy trường đổi tên là Phan Thanh Giản rồi đổi qua chương trình Việt, và dần dần mở thêm cấp đệ nhị để học sinh thi Tú Tài phần nhứt.
Từ lúc cậu út Đặng Tiến Thành vô Sài Gòn cũng chương trình Thành Chung như anh mình. Nhưng may mắn thay, cậu học trường Petrus Ký (về sau đổi là trường Trương Vĩnh Ký). Hồi ở tiểu học, cậu học giỏi hơn anh. Khi lên trung học thì cậu chỉ học trung bình trong lớp. Cho nên khi thi bằng Thành Chung cậu chỉ đậu hạng thứ mà thôi. Nhưng như vậy cũng đủ để cho cha mẹ cậu làm heo ăn mừng
Bằng Thành Chung là bằng Trung học theo chương trình Pháp, tương đương với bằng Trung học Phổ Thông Pháp, nhưng có thêm văn chương cổ điển Việt ngữ. Bằng nầy chấm dứt khi dân Bắc Kỳ ly khai Cộng Sản di cư vào Nam lập nghiệp.
Ông bà Ký Tân sang nhượng bán hết mọi việc làm ăn lại cho người khác. Họ có được một số tiền sang nhượng, cộng với tiền cực khổ của ông bà kí cóp bấy lâu nay để dành phòng khi tắt lửa tối trời, hoặc dành cho việc dựng vợ gả chồng cho con. Còn hàng ngày họ dư sức sống nhờ vào hoa lợi cây trái trong vườn sẵn có. Cực khổ bon chen đã mấy chục năm, bây giờ họ cũng luống tuổi rồi. Mặc dù họ không quá già, nhưng cũng không còn trẻ nữa. Hai ông bà nghĩ rằng Trời cho bao nhiêu đó cũng quá đủ. Còn ham làm giàu chi nữa mà tranh đua mở rộng buôn bán, hoặc khai khẩn trồng trọt nhiều chỉ thêm vất vả tấm thân như những chủ vườn ở lân cận. Niềm vui hiện tại của vợ chồng bà là nhận được thư con gởi về thăm hỏi. Ông bà biết con cái được khỏe mạnh, bình an, may mắn trong đường tiến thân, và thỉnh thoảng về thăm, thì họ chẳng còn ao ước gì thêm. Đó là Ơn Trên đã ban diễm phúc quá đầy đủ, quá thỏa mãn cho gia đình ông bà rồi.
Ra trường chân ướt chân ráo đi nhận nhiệm sở ở một vùng xa lạ, không một người quen thuộc, Cẩm Hương lo ngại nhiều lắm. Nhưng rồi đâu cũng vào đấy nhờ nhiều lợi điểm. Nàng còn trẻ, chưa có gia đình, làm nghề dạy học cho con em dân chúng trong vùng, và nhứt là dân địa phương chân thành, hiếu khách. Bởi đó, chỉ trong một tháng thôi, Cẩm Hương cảm thấy mến vùng đất lành chim đậu, đất phước lúa nhiều nầy.
Lúc đầu Cẩm Hương định ở nhà bà Tư Hiền thời gian ngắn chờ ông Đốc học sắp xếp và mướn hộ nhà, chỗ ông quen biết cho nàng. Nhưng dần dà nàng thấy ở chỗ bà Tư Hiền cũng yên tịnh, gần trường nàng dạy và kế bên hàng quán nên việc ăn cơm tháng, hằng ngày đi lại của nàng rất tiện lợi. Và bà Tư Hiền cũng cần người ở chung cho nhà bớt vắng vẻ nên nàng không có ý định dời đổi nữa. Mặc dù nơi nàng tạm trú cách sau bến xe đò có vài căn hàng quán ở mặt tiền nên lúc nào cũng ồn, nhưng ở mấy tuần thì nàng quen đi. Sự ồn ào của bến xe mỗi sáng sớm không còn làm nàng mất ngủ, khó chịu như trước.
Ngôi nhà trệt lợp lá xé, nền tráng xi-măng của bà Tư Hiền nằm trên một khoảnh đất hơi nhỏ. Sân trước từ cổng rào ngoài đường vào đến thềm nhà khoảng 7, 8 thước, chiều rộng chừng 9, 10 thước. Chu vi nhà chiếm khoảng 6 thước chiều ngang và chiều dài nhà đụng mí con rạch đào của xóm nhà mới xây cất không được bao lâu, chừng mười năm trở lại đây thôi. Nhà bà Tư Hiền 2/3 trên đất liền gồm có nhà trước, nhà giữa lớn được ngăn ra làm phòng ngủ, phòng ăn, còn nhà bếp, nhà tắm, chỗ rửa ráy thì trên sàn cây, cất gie ra con rạch mà nước ở dưới múc lên chỉ dùng để tưới cây, dội cầu, giặt đồ đen, rửa chén. Còn nước uống, nước nấu ăn, nước tắm phải mướn gánh từ ngoài sông lớn.
Trong sân có trồng cây chùm ruột ngọt chi chít trái. Bên hông nhà có cây mận da người và mấy cây so đũa, hai cây dừa tơ gần mé nước. Chậu sành tráng men bày lác đác trong sân nhà: chậu mai chiếu thủy, chậu trắc bá diệp, hai cây mai tứ quí, mà gốc cây nào cũng to chàm vàm miệng chậu, vỏ cây xù xì, trắng mốc chứng tỏ những cây nầy đã có lâu hàng chục năm rồi. Nhưng trên cây những cánh hoa tươi thắm chi chít và cành lá sum sê.
Hai bên hông, nhà bà cách nhà hàng xóm có khoảng đất rộng chừng 2 thước, có đóng nọc cây, giăng dây phơi áo quần, và cách nhà bên kia bởi cái hàng rào bông bụp chạy dài từ cổng trước nhà cho đến đụng mé rạch. Dãy rào bông bụp đó, lúc nào lá cũng xanh lặt lìa. Những bụi có bông màu đỏ, những bụi trổ bông màu vàng được trồng xen lẫn nhau, và luôn được chăm sóc, cắt xén ngay hàng thẳng lối. Hàng rào bông bụp lại luôn được bà Tư Hiền tưới nước, nên những cánh hoa đỏ tươi bốn mùa. Bà cũng siêng năng quét dọn, lượm lá khô, giấy tạp bên ngoài bay tắp vào, nên sạch sẽ và trông rất gọn mắt. Còn các chậu khác thì trồng tóc tiên, vạn thọ, cúc, hường … Đặc biệt gần sàn lảng bà Tư dùng những khúc tre dài cột lại làm chưn cho mấy chiếc vịm mẻ miệng, nứt đáy, hoặc lũng đít. Rồi bà dùng đất được trộn phân bằng đầu tôm, xương cá và tưới nước thường xuyên nên hành hương, rau thơm, ngò rí do bà trồng trong các vịm đó thật tươi tốt.
Bà Tư Hiền nhường phòng cho Cẩm Hương ở, còn bà dọn qua ở phòng của con trai đi làm ở xa, đôi ba tháng mới về vài ngày thăm bà rồi lại đi. Cẩm Hương mới ra trường đi dạy lãnh lương mỗi tháng được 30$. Thời buổi nầy mỗi tô cháo lòng chỉ có giá là 8 xu mà thôi số lương nầy với một người độc thân lúc bấy giờ khấm khá lắm. Những nam nữ thư ký trong các công tư sở mới nhận vào làm việc đâu được trả cao như vậy. Có những người thâm niên năm ba năm, con cái đùm đề cao lắm chỉ lãnh được 15$ hoặc 20$ thôi. Nàng trả tiền nhà cho bà Tư Hiền 4$. Tiền cơm tháng 5$. Tiền quà bánh, mỗi tháng may một cái áo dài mới, đi về thăm nhà, hẹn gặp bạn bè về Sài Gòn đi dạo phố, đi xem hát, đi ăn… Tiêu xài mọi thứ linh tinh mỗi tháng, lúc nào nàng còn lại ít nhứt cũng 10$ hơn.
Cẩm Hương là chị của hai cậu em. Tuấn đã đậu vào trường Hải Quân công xưởng (tức là sở Ba-Son), và mấy năm sau Thành đứa em út cũng vào học ở trường đó như anh của mình. Cẩm Hương có hai đứa em, thế mà nàng lúc nào cũng tưởng mình là em của hai thằng đó, và lúc nào cũng bị tụi nó khéo léo mượn tiền mà không bao giờ được trả lại. Nhiều lần nàng bảo với lòng “về lần nầy, hai cái thằng yêu lồi có mượn tiền thì mình nhớ nhứt định không cho, nói với chúng đã xài hết rồi”. Ấy vậy, cả năm chị em mới gặp lại đôi ba lần, chúng chưa kịp hỏi mượn là nàng đã lo le rồi.
Tuấn và Thành cũng như chị, đã đậu bằng Thành Chung. Nhưng hai chàng chê nghề dạy học không được lên lương nhiều và lên lương mau. Nghề làm ở sở Ba-Son mới ra trường lương đã cao lại lên vù vù. Xếp ở cơ xưởng, xếp ở toán thợ đều là Tây rành nghề, biết giá trị của thợ giỏi, lại có lòng thương chuyên viên nước thuộc địa như dân Nam Kỳ hiếu học cầu tiến, nhứt là những người có nghề chuyên môn, giỏi chữ nghĩa, nói và nghe được thành thạo tiếng của họ.
Tuấn cao lớn vạm vỡ, tuy ít nói nhưng hiền lành, thích giúp đỡ tha nhơn. Tánh tình chàng thực tế, lại quảng giao, ai cũng mến. Nụ cười chàng tươi, ánh mắt âu yếm, dễ làm người đối diện phải mềm lòng trước những câu chọc ghẹo tếu tếu của Tuấn.
Còn cậu út Thành nhỏ vóc hơn anh, nhưng vóc vừa tầm. Cậu rất thích kỹ thuật máy móc, nhưng có ai cấm cậu thích đọc văn chương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, thích xem cải lương, thích nghe Kim Thoa, Ái Liên hát nhạc Tây lời Việt, thích xem hát bóng Âu Mỹ. Cậu đờn măng-đô-lin nghe réo rắt, đổ hột lăn tăn sướng lỗ tai. Tuấn chê em lãng mạn rởm, nhưng lại cảm thấy mình không có tâm hồn đẹp như em. Còn Thành chê anh thực tế một cách khô khan đáng ghét, nhưng phục cái tánh vững chãi, lành mạnh của anh mình.
Riêng Cẩm Hương thương yêu em từ cái tốt lẫn cái xấu của họ. Nàng phục lăn cái tốt của họ đã đành mà còn cảm thấy thói xấu của hai em có chút gì ngộ nghĩnh, hay hay, dễ thương. Hai em có cái tật chung là ham mê bóng rổ. Cho nên sáng chủ nhật nào cả hai cũng đến Hội Quán Thể Thao để tập dượt với đội bóng rổ của mình. Nhờ vậy mà thân thể họ cường tráng, tay chân họ cứng cáp, da dẻ hồng hào… Họ tươi tắn, phơi phới, sởn sơ như cây dừa tơ, cây chuối tơ đang thời kỳ tăng trưởng, Cẩm Hương tò mò:
– Tuấn nè, con bồ Thu Nhi của mi tới đâu rồi? Sao không giới thiệu với ta, để chúng mình hẹn nhau đi phố?
Thằng em cười, nheo mắt với chị:
– Không chơi nữa. Con nhỏ đó xí xọn vòi vĩnh đủ thứ. Nó tưởng em là cậu ấm có tiền rừng bạc biển không bằng. Đi phố với cô ta một lần thôi, thì em chạy tuốt, không dám quay đầu trở lại. Nhưng em có đứa khác rồi, ngoan hiền hơn lại con nhà đàng hoàng.
Cẩm Hương nhìn em, như chọc quê:
– Chắc mi keo kiết quá nên bị em bỏ, rồi đổ hô cho người ta tham nhũng chớ gì?
Tuấn trợn mắt, rống gân cổ, cãi:
– Khỉ khô á, con nhỏ ốm và cao lêu nghêu như cây sậy, bụng thì lép xẹp, không biết chứa ở chỗ nào mà ăn hàng lu bù, ăn xàm xạp, miệng không kéo da non. Chị biết không? Vào ăn sáng 8 giờ, cô ta ních một tô hủ tíu vừa xong, ăn hai dĩa xíu mại, cái dầu cháo quảy, rồi thiếm xực luôn cái bánh bao, uống sạch ly cà-phê sữa đá. Chưa hết, đi lòng vòng chưa đến 10giờ, cô ta lại kêu đói, ghé hàng bún tôm nướng cô làm sạch một tô và uống ly nước đá chanh muối lớn. Lúc đó em không sợ tốn tiền mà sợ cái bụng cô đầy quá sẽ bể ra thì đổ nợ. Chán thiệt, em xui xẻo gặp Tạ Hầu Đôn đầu thai thành Trịnh Thị Thu Nhi! Chưa hết, qua hàng quà cáp, cô ta luôn nói: “Em thích cái nầy, em muốn cái kia…”. Chán quá, nên em lặn mất. Cô ta có kiếm em mấy lần, em dặn tụi bạn nói là đi vắng.
Cẩm Hương cười, nhìn em:
– Ta đã biết tẩy của mi, chắc mi có bồ mới rồi vu tiếng oán cho cô ta để cảm thấy đỡ phần tội lỗi? Chớ bộ hai néo sao ăn dữ vậy? Nhưng thôi bỏ đi, dù gì mi cũng không thích cô ấy nữa. Nhưng ba má có dặn rồi, là con gái hay con trai đều như nhau, quen với ai thì quen, nhưng đừng bao giờ làm thương hại đến đối phương mà lãnh quả báo nhãn tiền. Mi nên cẩn thận đó, nghe không?
Thằng em út Kiến Thành cũng xen vào góp chuyện với anh chị:
– Phụ nữ bây giờ khiếp lắm, có người thì bắt địa, có người thì nuôi địa.
Tuấn và Cẩm Hương tròn xoe mắt nhìn em ngạc nhiên. Thành liếc chị cười nói:
– Có gì đâu, các cô biết những kẻ mày râu còn đi học nghèo xác mồng tơi thì các cô đi làm nuôi. Hoặc cha mẹ các cô có tiền bỏ ra nuôi “ghể” tương lai? Sau nầy chàng ra trường đi cưới con mình để rỡ ràng gia tộc. Trường hợp nầy thấy nhiều nhứt là ở các ngành nghề như là bác sĩ, dược sĩ, sau đó rải rác ở sở Ba-Son, ở trường kỹ thuật Cao Thắng và ở trường Cao Đẳng Sư phạm… Ở thôn, ở quận làm chức cao quyền trọng thì các ông hội đồng, các thương gia địa phương mới ngó đến. Nói tới nói lui tội nghiệp cho anh Tuấn nhà mình!
Tuấn cười hề hề, Cẩm Hương trề môi liếc xéo thằng em:
– Mi đừng có làm thầy đời, mi làm như là mình thông minh quảng bác lắm vậy? Sao mi đã được em nào nuôi chưa? Xã hội cũng có người vầy người khác chớ. Đừng quơ đũa cả nắm nghen. Mấy đứa con gái có tài, biết tự lập còn lâu mới như mi nghĩ. Chỉ có mấy nàng tiểu thơ con nhà giàu ăn không ngồi rồi, mà phải đẹp nữa mới như mi nói thôi.
Tuấn cười hả hả:
– Chị và Thành, cả hai đều đúng. Hai người còn nhớ anh Phúc học chung với chúng mình hồi còn tiểu học không? Hình như anh ta học cao hơn mình hai, ba lớp chi đó. Sau nầy, khi lên trung học, có dạo hắn liếc ngược liếc xuôi chị Cẩm Hương nhà mình. Hôm trước đây, Tuấn gặp em anh Phúc cho biết, anh đã ra trường bác sĩ, làm ở bệnh viện Thuận Kiều trong Chợ Lớn và anh ấy sắp lấy vợ. Vợ anh lớn hơn anh khoảng 7, 8 tuổi. Cô ấy con của ông chủ có nhiều tiệm bán thuốc tây ở địa phương và các thành phố khác ở miền Lục Tỉnh. Cha cô ta thấy anh Phúc trẻ tuổi có tài có địa vị, danh vọng, bèn nhờ một bà y tá già làm lâu năm ở nhà thương mời mọc giao thiệp đến nhà ăn cơm nhiều lần. Đợi thời cơ đến, ông bèn mở lời với anh Phúc. Nếu anh cưới con gái ông, ông sẽ cho chiếc xe hơi đời mới, một căn nhà lầu mới xây ở khu sang trọng và mở cho anh Phúc phòng mạch ở đường Delahaye, cùng cái nhà thuốc tây cô nầy đang coi sóc. Ảnh khoái chí tử, chịu liền. Ảnh tâm sự với em mình: “Cả đời anh làm việc chưa chắc có được của cải nhiều như vậy. Anh lại không có bạn gái. Tình yêu sẽ đến sau hôn nhân…”. Em trai ảnh chê anh mình là thấy tiền sáng mắt.
Thanh cười nheo mắt với chị, nói:
– Nếu em gặp được hồi môn nhà vợ cho nhiều và tốt như vậy, em cũng bằng lòng ngay. Phải biết thế, ngày xưa em thi vào trường y khoa coi bộ sướng hơn.
Bỗng Thành xìu mặt như cái bánh bao thiu:
– Gặp con vợ tuy lớn tuổi nhưng có nhan sắc mặn mòi thì em cũng có thể mê vợ như lậm bùa, cưng vợ như nâng trứng hứng hoa. Nhưng nếu gặp con vợ có bộn tiền, bộn tuổi mà kém nhan sắc thì thà lên máy chém còn sướng hơn.
Tuấn móc ngoéo chị:
– Anh cũng nghĩ như em! Con trai thời buổi nầy thật là sáng giá! Tội nghiệp cho tiểu thơ Cẩm Hương thân mến của mình, ba má đâu có nhiều tiền làm của hồi môn, chắc rồi đây bà chị Cẩm Hương sẽ thành gái già quá Thành ơi!
Cẩm Hương trề môi và rủa hai thằng em:
– Hai đứa bây là hai thằng mắc toi, thấy tiền như bợm ghiền thấy á-phiện, như mấy tên hà tiện gặp nén vàng. Mắt thằng nào cũng hấp ha hấp háy soi bói của cải mấy cô gái nhà lành. Tao còn lạ gì cái tà tâm của tụi bây. Vậy mà bây dám trèo đèo, móc xỏ con chị hiền lành nầy. Mỗi người đều có số cả, đừng tưởng bở. Tụi bây dù có ra bác sĩ đi nữa cũng chưa chắc được như anh Phúc. Phải bỏ ý tưởng đó đi và thực tế một chút, chớ có “Thấy người ta ăn khoai, vác mai mà chạy” hoặc “Đứng núi nầy trông núi nọ” mà khổ tấm thân. Tụi bây đừng có ham! Còn tao hả? Khỏi cần trù ẻo, tao không có đi cưới chồng đâu. Hai thằng mắc phong tụi bây tự lo lấy thân đi. Lần nầy tao không cho hai đứa bây mượn tiền đâu nghen. Mỗi đứa tụi bây đã thiếu tao bao nhiêu? Tính sổ đi, mau lên!
Thành cố tình ghẹo chị, tếu:
– Cô giáo Cẩm Hương xinh đẹp như vậy, lại có nghề nghiệp vững chắc, tánh tình hào phóng rộng rãi, nhứt là với hai thằng em mạt rệp của mình, thì vợ chồng ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão dù có quên uống cà-phê bị ngủ gục đi nữa cũng không làm sao mà để cô giáo Cẩm Hương ở vá cho đành? Chỉ vì chưa đến duyên nợ đó thôi cô ạ!
Tuấn cười ngất ngất, còn Cẩm Hương không nhịn được cũng bật cười thành tiếng, vội chợp cây chổi lông gà gần đó rượt chọi hai em.