← Quay lại trang sách

CHƯƠNG BỐN

Trần Thiện Tố cái Tết vừa qua là 26 tuổi. Tính ra bà đã chịu đau khổ nhọc nhằn hơn 20 năm rồi chớ có ít ỏi chi đâu!

Chưa học hết lớp ba trường làng, mới có 12 tuổi, em Lê Thị Hiền phải nghỉ, đi ở mướn giữ cháu nội cho ông Cả Cần để khấu trừ vào tiền đong lúa mà tía má Hiền vốn là tá điền đã mướn ruộng của nhà ông ta chưa thanh toán xong.

Cậu Hai Cung là con ông bà Cả Cần cưới vợ ở Chợ Lách gần đâu bên miệt Vĩnh Long. Cặp vợ chồng nầy chắc kiếp trước có tu, nên được sanh ra trong hai gia đình giàu có “ruộng đất cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi “.. Và cả hai đều là con một. Người ta nói, lúc về làm dâu cho ông Cả Cần, cha mẹ mợ gởi theo hai người hầu, một người làm công việc nặng nhọc thế mợ, còn một người chăm sóc cho mợ. Sau hai năm có chồng, mợ Hai Cung sanh cho chồng một nàng công chúa tên là Kiều Lan.

Khỏi phải nói, cô cháu nội, đứa cháu gái đầu lòng được “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Lại mướn thêm vú nuôi, và người hầu hạ cho công chúa. Con Hiền lúc đó chỉ có phận sự ẵm bồng, chơi với cô Hai, hát đưa cho cô Hai ngủ, mà võng không được ngừng lại để cô Hai khỏi bị ruồi muỗi sẽ chích.

Hiền nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ em, nhớ dòng kinh, nhớ những lúc cùng mấy đứa trẻ xóm trong đi xúc, đi tát đìa… bắt cào ngoài bờ đế ngoài ruộng. Ở gần bụi chuối cơm có đùn ổ dế. Hiền cùng em đi lấy thùng múc nước đổ xuống hang cho dế bị ngộp bò ra. Có lắm con dế khôn ngoan làm thêm ngách, bị ngộp nước thay vì chui ra bằng miệng hang chánh, dế lại dùng hang ngách bò đi. Nhưng nó làm sao khôn bằng em trai của Hiền. Cậu bé đã chận sẵn ngay miệng ngách, vừa lúc thấy hai râu, là dế bị thộp đầu ngay.

Hiền nhớ những trưa đi câu cá với mấy đứa hàng xóm, hoặc nhổ bông súng trong bàu gần mé ruộng đất gò ông Cú. Hiền cùng các em hôi cá tát mương. Người ta bắt cá tát mương, tát đìa đã xong, nhưng lắm khi cá lóc, cá trê, cá rô mề lớn chui trốn dưới sình non, chừng 1, 2 giờ sau, nắng lên chịu không nổi chúng bò ra khỏi sình, bị chị em Hiền bắt được dễ dàng… Hiền nhớ chòm cây điên điển tới mùa trổ bông vàng quanh đìa ngoài bờ ruộng, trưa nắng có nhiều loài chim bay về đậu từng bầy. Lũ em của Hiền dùng nạng giàn thung bắn chết chim đem nướng ăn thật là ngon…

Hiền còn nhớ rõ tiếng hót tía lia của con chim chích chòe, tiếng gù gù của con cu cườm, và tiếng chim tu hú kêu gọi Tết. Tiếng đỗ quyên kêu áo não ở đêm trăng mùa hè… Tiếng con tắc kè trốn trong bọng cây me già ở sau đình thần, mà Hiền sợ đến nỗi mỗi lần qua ngang cây me thì cắm đầu cắm cổ chạy muốn mất thở.

Cho dù ở nhà người ta được ăn no, ăn ngon và đầy đủ, cho dù được mang guốc, được chủ nhà cho áo quần cũ để mặc, nhưng Hiền vẫn buồn nhớ nhà, thương nhớ cha mẹ, các em. Đêm nào cô cũng khóc lén, khóc thầm. Đó là mấy tháng đầu.

Về sau Hiền dần quen, và vì mến tay mến chân cô chủ nhỏ. Vốn có tâm hồn đơn giản trong trắng của cô gái sanh ở nông thôn, gia đình nghèo, Hiền nhận thấy đi làm công ở mướn cho người ta sướng hơn nhà mình. Cô không phải theo mẹ ra đồng nhổ cỏ lúa, khỏi bị đỉa đeo, bị bù mắc cắn gãi trầy da tróc vảy rướm máu. Mùa nước ngập cô phải lội nước gần tới ngực. Đêm mưa dầm, cô phải kiếm nồi kiếm thau hứng nước mưa dột. Hoặc mấy chị em ngồi co ro bên đóng ung để sưởi vì áo không đủ ấm.

Ông bà ta thường nói: “Con nít cho bò dưới cát, dưới đất thì ít bịnh bậy mà còn khỏe mạnh nữa”. Không biết có phải là lúc nào cô công chúa Kiều Lan cũng được bồng bế trên tay, nên 16 tháng rồi mà cô chưa biết đi. Và theo đó, mợ Hai Cung lại mang cái bụng chè è sắp đến ngày sanh. Lần có bầu nầy, cậu mợ Hai Cung hy vọng chắc chắn sẽ là đứa con trai. Vì thầy coi chỉ tay cho mợ cũng nói như vậy. Hai bên gia đình nội ngoại nghe lời bà đồng nói, tràn trề hy vọng và cùng cầu khẩn đền chùa cho mợ sanh đứa con trai, để nối dõi tông đường.

Đến ngày nở nhụy khai hoa bà Hai Cung lại sanh thêm một tiểu công chúa nữa, đó là nàng Kiều Liên. Khi biết là con gái, mợ Hai khóc lóc mấy bữa, than trời, trách đất, không thèm nhìn đến mặt con, giao cho bà vú và con Hiền săn sóc. Cậu Hai Cung đi coi ruộng nghe vợ mình sanh con gái, cũng nãn lòng không về ngay, ở lại nhậu nhẹt thêm mấy ngày nữa.

Năm đó Kiều Liên gần lên 3, thì Kiều Lan gần hơn 4 tuổi. Hai nàng Kiều đã nói chuyện rành rẽ, giọng nói trong, mềm, đỏ đẻ rất dễ thương. Mặc dù hai chị em sanh cách nhau gần 2 năm, nhưng hai cô xấp xỉ nhau. Cô chị giống bà nội, có nước trắng trẻo, cao ráo, tóc đen quăn tự nhiên, luôn được cột bằng 2 dây nơ.

Cô em bụ bẫm hơn chị, tóc cắt bum-bê. nước da hơi ngăm đen giống cậu Hai Cung.

Áo quần hai cô thường mặc cùng kiểu, cùng mình hàng và cùng màu sắc. Thí dụ như vải bông có hoa, có sọc, hàng màu hường, màu vàng, màu trăng, màu xanh lá mạ… Hai chị em lại có khuôn mặt khá giống nhau. Tuy nhiên mỗi cô Kiều có những nét đặc biệt riêng. Ra đường những người chưa quen biết, ai cũng nghĩ đó là cặp song sanh rất xinh xắn. Tuy nhiên khi trưởng thành, cả hai cô không được đẹp gái lắm.

Vốn không phải hai chị em song sanh, nhưng càng lớn chị em có mặt mũi hơi giống nhau. Da Kiều Lan hơi tối, da Kiều Liên trắng mét. Kiều Lan cao ráo. Kiều Liên dong dỏng cao. Tóc Kiều Lan to sợi và đen mun thì tóc Kiêu Liên hơi luông luốc đỏ. Họ còn giống nhau ở tướng đi đỏng đảnh, uốn khúc mình xà, mấy ông già bà cả quở là tướng đi của mấy con bọt-đền ở gần thành Ô-Ma (Sài Gòn).

Con Hiền năm nào đó đến giữ em, sáng thức dậy, chị vú còn phải nhắc rửa mặt lau cho khô, lấy vải bọc ngón tay chấm muối chà răng cho sạch. Làm con ở cho nhà giàu mà dơ dáy quá thì ai mà thích mướn, như là giữ con cháu họ. Thời gian qua mau, con Hiền năm đó qua 16, dợm 17 tuổi. Cái tuổi có thân hình nẩy nở của con gái mới lớn. Bây giờ không còn là Bé Hiền nữa mà là cô thiếu nữ tên Hiền rồi.

Ba của con Hiền cao, nhưng ốm nhom có lẽ làm việc nhiều, mà ăn uống không đầy đủ bởi phải nuôi đàn con nheo nhóc. Má nó thì khác, bà có da có thịt hơn, thân hình tròn trịa, và cứ mỗi năm mỗi đẻ. “Cha mẹ cú đẻ con tiên, cha mẹ hiền sanh con thảo”, người ta thường nói vậy, cũng chẳng ngoa. Con Hiền có nước da trắng giống mẹ. Mái tóc nhỏ sợi và mịn màng nhờ mỗi lần gội xong chờ cho khô, nó xức lên tóc mình bằng dầu dừa nên càng đen bóng và óng mượt.

Đó là nhờ nó ở đợ cho nhà giàu. Một tháng ba bốn lần nhà ông Cả Cần đều cho nạo dừa khô thắng lấy dầu. Sau vườn ông có trồng nhiều dừa ta, dừa xiêm, dừa lửa… để ăn tươi, dùng dầu dừa thay mỡ heo trong việc chiên xào, nấu đồ ăn chay cho cả gia đình và thợ thầy ăn luôn vào những ngày rằm, ngày mùng một. Dừa xác, cứt dừa (dừa thắng lấy dầu, còn cặn lại đóng váng bời rời màu nâu vàng người dân ở thôn quê thường gọi là cứt dừa) ăn riết rồi cũng ngán. Sau đó họ lấy xác dừa, cứt dừa làm mồi cho cá nuôi, hoặc cho gà vịt ăn. Có vậy, thịt chúng sẽ mềm và béo lắm.

Những sợi tóc quăn nằm sát trước hai lỗ tai, lòa xòa trên trán, sau ót của con Hiền trông thật dễ nhìn. Mặt nó sáng sủa, sống mũi thon cao, cặp mắt đen to, và môi má ửng phơn phớt hồng tự nhiên. Những ưu điểm trên sắc diện của con Hiền, của đứa con gái đến tuổi dậy thì. Dáng dấp nó tròn trịa, khỏe mạnh. “Mười bảy bẻ gãy sừng trâu”, con Hiền tươi hơn hớn như loài hoa đồng cỏ nội, như hoa súng hoa sen dưới nắng sáng giữa ao đìa có nước trong leo lẻo. Giọng nói nó véo von như tiếng hót của loài chim cưởng, chim nhồng, chim sáo… Mông nó ra mông, eo ra eo, ngực ra ngực, lồ lộ vun chùn trong chiếc áo túi lỡ, trong chiếc quần lãnh đen nhiều miếng vá của bà chủ ban cho. Con Hiền hồn nhiên, siêng năng, làm việc nhặm lẹ, lại vui vẻ nên được bà chủ lớn tức là bà Cả Cần và mợ Hai Cung thương mến. Để tập tành cho nó biết thêm công việc nhà, cứ 5, 3 ngày họ cho nó xuống bếp để được mấy bà làm bếp chỉ dạy nấu ăn. Tuy vậy, hai cô Kiều lúc nào cũng đòi Hiền bồng ẵm, dắt đi chơi, đút ăn cơm…

Và cũng năm đó, ba má con Hiền xin ông bà Cả Cần cho nó làm đến hết tháng chạp thì nghỉ việc. Để tháng hai, tháng ba năm tới sẽ gả chồng cho nó, và em trai kế của con Hiền, tên là thằng Hiển sẽ xuống làm cho ông bà chủ những công việc ngoài đồng áng, thay thế chị trả nợ cho chủ.

Vào tháng bảy tháng tám trời mưa dầm, nước ngập đường sá, ao, bàu, đìa, vũng, đầm, mương trong các khu vườn vùng đất thấp. Và cũng là sau mùa lúa trổ đòng đòng, mùa cây trái. Gia đình của ông Cả Cần được rảnh rang đôi chút, nên thợ thầy, người làm, kẻ ở thường về thăm nhà vào lúc nầy. Vợ chồng thầy Hai Cung cũng dắt hai công chúa đi thăm ông bà ngoại và ở lại chơi 5, 10 ngày mới về.

Chiều hôm nay gió lồng lộng. Bên kia sông, xóm chài rộn rịp kẻ mua người bán khi ghe lưới xuồng câu đã trở về bến. Những người làm nghề bắt cá không có giờ giấc nhứt định, vì họ đi cào, đi câu, đi lưới theo từng con nước lớn, nước ròng.

Con Hiền đang ngồi thờ thẫn nghĩ ngợi xa xôi. Tâm hồn người con gái hồn nhiên, vô tư lự đó bỗng phảng phất bóng mây buồn. Vì nhà nghèo nên nó phải đi giữ em cho người ta, mà cha mẹ lấy tiền của chủ trước 2, 3 năm tới. Cha mẹ cứ mượn tiền gối đầu như thế, thì sẽ không bao giờ dứt nợ. Nhưng nó không hề buồn, không hề thắc mắc, vì đó cũng là để nó phụ giúp thêm khoảng chi tiêu cho nếp sống gia đình. Nó không đua đòi, không xí xọn, cũng không có bạn bè, thì đừng nói chi là có người yêu. Nhưng ở tuổi xuân thì, đôi lúc tâm hồn nó cũng trôi hoang, cũng thấy buồn buồn, nhớ nhớ, thương thương một hình bóng không rõ rệt. Với tâm hồn chất phác, vô tư, nó không biết mình thương nhớ gì, và thương nhớ ai? Vui, buồn, thương nhớ của nó êm đềm và không có nguyên nhân. Nhưng khi lăng xăng bận rộn với công việc của chủ giao cho hằng ngày, đến khi xách đôi dép xuống cầu nhủi rửa hai bàn chưn cho sạch đất để đi ngủ, nó mệt mỏi, đôi mắt muốn nhắm hít. Rồi thì tất cả những suy tư vẩn vơ cũng chìm vào trong giấc ngủ say sưa. Nên những nghĩ ngợi xa xôi đó không ở lâu trong tâm hồn nó!

Nhà hôm nay vắng vẻ, Hiền rảnh rang công việc lúc chưa tối trời. Nó thẫn thờ, tự hỏi không biết năm tới ba má nó sẽ gả nó cho ai đây? Và gả về đâu đây? Thật sự nó không muốn bỏ việc làm ở nhà ông Cả Cần. Nó muốn làm thêm đôi ba năm nữa để giúp đỡ cha mẹ cho gia đình đỡ thiếu thốn được chút nào hay chút nấy. Có chồng rồi phải sanh con đẻ cái đùm đề như hoàn cảnh của ba má nó thì cảnh khổ kéo dài, biết bao giờ mới dứt? Rồi nó thở dài chép miệng một mình: “Nhưng lời cha mẹ dạy phải nghe chớ làm sao cãi lại được?”.

Tiếng lắc chuông cửa rào leng keng, cùng tiếng ai gọi:

– Chị vú, chú ba, con Hiền đâu? Ra mở cửa…

Hiền lắng tai nghe cho rõ, thì ra đó là tiếng của cậu Hai. Hiền lật đật thọc chân vô đôi dép, mừng rỡ lẹp xẹp chạy ra mở cửa. Nó nhìn dáo dác rồi hỏi:

– Thưa cậu Hai mới về. Mợ và hai cô đâu rồi?

Cậu Hai Cung ngó quanh quất:

– Mợ Hai và hai cô ở chơi thêm mấy ngày nữa. Nhà sao vắng hoe vậy Hiền?

Con Hiền đưa tay xách chiếc va-li trên tay cậu Hai Cung. Vừa đi theo sau cậu, nó vừa trả lời:

– Dạ, chú Ba và chị vú đưa ông bà đi lễ chùa rồi. Chỉ có mình con ở nhà thôi. Bữa nay cả nhà ăn chay. Cậu ăn gì chưa để con đi nấu?

Cậu Hai Cung lơ đãng, trả lời:

– Khỏi nấu, cậu đã ăn lúc chờ đò rồi. Hãy đi châm cho cậu bình nước trà.

Con Hiền “dạ”, rồi đặt va-li trong phòng cậu Hai Cung, nhanh nhẹn lủi xuống bếp nấu nước.

Cậu Hai Cung vừa từ phòng tắm bước ra mặc bộ đồ lụa Hà Đông màu mỡ gà. Dáng cậu dong dỏng cao, nước da ngăm ngăm nhưng vóc người khỏe mạnh, tay chân vạm vỡ. Đây là thể chất của người đàn ông trẻ ngoài 30 tuổi.

Đám công nhân làm việc dưới quyền đều nể sợ, bởi vì cậu nghiêm nghị, làm việc gì cũng có chừng mực. Tiền bạc cậu rất sòng phẳng, không bao giờ lợi dụng khi người ta gặp cảnh tối lửa tắt đèn để chèn ép mướn giá rẻ, hay bắt chẹt để trả giá thấp. Nhân công nghỉ ngơi thì ra nghỉ ngơi, lúc làm việc thì chú tâm vào công việc. Cậu sẵn lòng giúp đỡ khi họ gặp ươn yếu. Và cậu cũng ít hay nói trây, hoặc bỡn cợt với nữ công nhân giúp việc nhà hay việc ngoài đồng áng. Nhờ tánh tình đàng hoàng đó, và nhờ tài khéo léo cai quản mọi công việc làm ăn lớn nhỏ của cha nên cậu được sự tận tình của công nhân. Bởi vậy việc làm ăn của gia đình ông Cả Cần ngày càng mở rộng để ông mua thêm vườn, tậu thêm ruộng đất…

Con Hiền bưng bình trà nóng vào để lên bàn, hỏi:

– Thưa, cậu Hai muốn rót trà ra tách không?

Thầy Hai Cung mắt dán vào sổ sách đang coi, ậm ự “ờ”. Rồi bất chợt cậu ngẩng đầu lên nhìn con Hiền, nói:

– Hiền, đến giường quạt muỗi, rồi bỏ mùng xuống tấn cho kỹ lưỡng dùm cậu kẻo muỗi vào đầy bên trong.

Con Hiền nhanh nhẹn “dạ”, rồi lẹ làng leo lên giường. Công việc đuổi muỗi tấn mùng cho cậu Hai Cung ở phòng làm việc nầy thường thì chiều tối do chú Ba đảm nhiệm. Vì có đêm cậu làm việc đến khuya ngủ lại ở đây, chớ không về phòng mợ Hai. Hoặc lúc mợ sanh đẻ non ngày tháng cần phải cữ kiêng, cậu vẫn ngủ môt mình trong chiếc giường cẩn xa cừ nầy.

Con Hiền lấy cây quạt mo, quạt phành phạch cho muỗi bay đi. Vạt áo túi của nó cũng tốc lên, vô tình lồ lộ vùng da thịt trắng nuột từ lưng quần trở lên. Dáng ngồi xuống, đứng lên của nó bên trong mùng mờ mờ, ảo ảo, bò qua, bò lại đập vào cặp mắt của cậu Hai một hình ảnh khêu gợi.

Bất ngờ, cậu Hai nhào lên giường ôm cứng lấy con Hiền. Bị té bật ngữa, con Hiền sợ quá, cố sức vùng vẫy nhưng không sao thoát khỏi vòng tay rắn chắc của cậu Hai. Cậu bịt họng cầu cứu, van xin của nó bằng những cái hun táo bạo và tới tấp. Cậu khóa tay chân vùng vẫy của con Hiền bằng hơi thở dồn dập nồng nàn và bàn tay sờ mó sành sõi.

Rồi việc gì đến đã đến! Chỉ trong giây phút kềm lòng không được! Cậu Hai Cung đã làm hoen ố tiết trinh của đời một người con gái ngây thơ!

Việc xảy ra quá bất ngờ, làm rối rắm gia mđình đồ sộ có tiếng tăm rân rác của ông bà Cả Cần. Ông bà lo. Không phải lo cho con Hiền bị con mình hãm hiếp! Mà ông bà lo rồi đây sẽ ăn nói làm sao với làng nước, xóm diềng, sui gia? Cái gút mắc khó gở nhứt là vợ cậu Hai Cung!

Lời Phật dạy “Chúng sanh đều bình đẳng”. Ông bà Cả Cần thường dưng hương đi chùa, đi miễu, ăn chay, phóng sanh, cúng Phật… Họ cúng tiền xây chùa, xây miễu, tu bổ nhà thờ… Làm bao nhiêu việc thiện, họ mong muốn sau nay có hồi báo tốt, được hưởng công đức, hồng ân… Nhưng trong lòng ông bà thì lại khác!

Con mình đã hại đời con gái của người ta như thế. Họ có thấy đó là quan trọng không? Họ có nghĩ sẽ làm sao để bù đắp một phần nào lỗi lầm quá to lớn do con trai họ đã gây ra chưa? Bởi trong thâm tâm họ đám dân ngu khu đen, bọn người ăn kẻ ở, tôi tớ chỉ là rơm rác, là những người hạ cấp. Họ sẽ thí cho nạn nhân một chút tiền, một chút lợi… Mặc dù khổ chủ không bằng lòng cũng không làm gì khác hơn, bởi họ có tiền, có thế lực…

Những kẻ bại hoại nầy, rồi đây Trời sẽ không dung, đất sẽ không tha, sẽ bị sa xuống chín tầng địa ngục, sẽ bị cưa hai nấu dầu dưới âm phủ, sẽ bị trói ôm cột đồng nung lửa… Những việc làm xấu xa tồi tệ, cướp của, giết người, bất công, vô nhân đạo, lời nói, hành động của người đời dù có qua mặt được tất cả những người trên thế gian nầy, chớ làm sao qua mắt được thần linh ở hai bên vai vác?

Con Hiền ngồi trong cánh cửa phòng, đầu tóc bù xù, cặp mắt trắng dã không một giọt nước mắt! Nó sợ điếng hồn? Nó tức tối cho sự bất cẩn của mình? Không ai biết được nó đang nghĩ gì? Ông bà Cả Cần tái mặt vì xấu hổ bởi thằng con. Chú Ba, và chị vú khép nép buồn đau ngó xuống thương xót và tội nghiệp cho con Hiền. Ông Cả Cần giận dữ, gầm lên:

– Mầy thật là một thằng điên mà, nên đã làm chuyện mất mặt cha mẹ. Mầy thật là thằng không ra gì, rồi làm sao đứng vững làm người với thiên hạ? Và ăn nói sao với vợ con mầy đây?

Bà Cả Cần bình tỉnh hơn chồng, mắng con:

– Tại sao mầy điên khùng làm chuyện như vậy? Nó là người ăn kẻ ở có ra gì đâu? Muốn có vợ bé thì nói, thiếu gì con nhà khá giả, đẹp đẽ chịu làm vợ hai vợ ba cho mầy. Chị vú, hãy dẫn con Hiền xuống dưới, thu dọn áo quần để ngày mai chú Ba dắt trả về cho ba má nó. Mới mười mấy tuổi đầu mà nập nợn dụ đàn ông rồi.

Nãy giờ im lặng cúi gầm mặt, cậu Hai Cung bỗng đứng thẳng lên, nói lớn:

– Con đã gây ra việc nay con chịu trách nhiệm. Ba má khỏi đưa nó đi đâu hết.

Ông Cả Cần, quơ cây chổi gần đó đập túi bụi vào cậu Hai. Bà Cả Cần chạy đến giựt chổi trên tay chồng binh con, và hét chú Ba phụ bà cản ông lại, không thôi ông sẽ đánh chết con bà. Cậu Hai Cung đứng chịu trận cho cha đánh. Ông Cả Cần đập loạn xạ một hồi có vẻ mệt, còn cây chổi gãy cọng sứt que. Ông thảy xuống đất bỏ đi ra ngoài. Bà Cả nạt chị vú, ra hiệu bảo dắt con Hiền đi. Rồi bà dùng tam thập lục kế khi mặn, khi ngọt, khóc lóc, kể lể để khuyên dụ thằng con trai phải làm theo cách giải quyết của bà.

Mới canh tư, gà chưa gáy rộ, trời chưa tờ mờ sáng. Trên chiếc xuồng ba lá, chú Ba bơi sau, con Hiền bơi trước để hôm nay đưa trả nó về nhà. Bà Cả Cần gởi cho ba con Hiền mấy bánh thuốc rê, và mấy vun giấy quyến để vấn thuốc hút, hai lít rượu nếp, một hộp bánh tây, và hai gói trà tàu bọc giấy kiếng đỏ. Bà gởi cho má nó hai xấp hàng may áo bà ba, hai xấp lãnh mỹ a mặt đệm may quần và một trăm đồng. Bà còn dặn chú Ba nói với ba má nó, trong ba năm ông bà cho miễn đong lúa thửa ruộng họ mướn.

Gió sáng lành lạnh. Trời còn tối thui. Trên dải sông dài, lác đác ghe xuồng xuôi ngược chèo bơi thoăn thoăt cho kịp phiên chợ sáng. Những hàng cây hai bên bờ sông còn sáng đèn đom đóm. Mái dầm khua động vào nước lõm bõm. Bầu trời đen, giữa muôn ngàn tinh tú lấp lánh là con trăng lưỡi liềm treo lơ lừng. Cậu Hai Cung chờ sẵn ở ngả ba miễu Ông, đón xuồng lại. Chú Ba có lẽ biết trước, cho xuồng tấp vào bờ. Cậu Hai Cung nói:

– Chú Ba lên bờ canh chừng. Tôi muốn nói chuyện với con Hiền một chút.

Chú Ba bước lên bờ và đi cách xa để cậu chủ nói chuyện với con Hiền, đứa tớ gái của chủ chú, mà chú thương mến như con của mình. Đêm qua, chú không ngủ được vì xót xa tội nghiệp cho nó. Nhưng chú cũng phải giữ chén cơm cho gia đình nên phải trung thành với chủ đành phải ngậm câm.

Cậu Hai Cung nhìn con Hiền xấu hổ và hối hận. Con Hiền cúi gầm mặt. Cậu nhỏ nhẹ nói:

– Cậu thành thật xin lỗi Hiền. Cậu hết sức hối hận cho việc làm của mình hôm qua. Xin Hiền tha thứ lỗi cho cậu, và hãy giữ chút ít tiền nầy để riêng tiêu dùng. Bất cứ lúc nào, Hiền cần chi thì hãy tìm cách gặp cậu, hay nhắn cho cậu biết, nếu làm được cho Hiền, cậu nhứt định sẽ làm.

Con Hiền thút thít khóc. Chú Ba lấy dầm chống bờ cỏ đẩy xuồng ra và bơi đi. Cậu Hai Cung vẫn còn đứng đó nhìn theo chiếc xuồng mờ dần trong bóng đêm…