← Quay lại trang sách

CHƯƠNG SÁU

Thằng Hiển em con Hiên xuông làm công cho ông Cả Cần gần cả năm rồi. Khi nó mới đến chiều tối hôm trước, thì sáng sớm hôm sau, được chú Ba cắt đặt và cho người dẫn nó đi làm ở ruộng mãi tận trên kinh xa, gần giáp ranh với Cao Lãnh, phải bơi cả ngày đường mới đến nhà ông Cả Cần. Nên nó không biết ai ở trong nhà chủ nó. Và nó cũng không hay biết gì về chuyện của chị nó với cậu Hai Cung.

Một hôm chú Ba có dịp đưa cậu Hai đi thăm ruộng. Nó vét bờ và nhổ cỏ lúa về, tay xách xâu cá, lửng thửng đi ngang. Thấy chú Ba và ông khách lạ, nó lễ phép chào hai người rồi đi vào trong. Cậu Hai hỏi:

– Nó là ai vậy? Có phải là tên lực điền do tía tui mới mướn hả chú Ba?

Chú Ba, nhìn cậu chủ như dò xét, rồi e ngại trả lời:

– Thưa cậu, nó là thằng Hiển, em của cô Hiền… Nó ở đây cũng lâu rồi. Tại chưa có dịp xuống dưới nhà nên cậu chưa thấy mặt đó thôi.

Cậu Hai Cung mở to mắt định nói gì, nhưng lại thôi. Ăn cơm trưa xong, thằng Hiển định ra đồng để nhổ cho xong đám mạ và bó từng bó. Thấy nó, chú Ba hỏi:

– Ra đồng hả Hiển? Nước kinh, nước ruộng năm nay thể nào, nghe nói có nhiều phèn lắm hả? Nhớ, khi nước rông, mở hết mấy cái cản cho nước sông tràn vào thông thương trong ruộng rồi chận lại. Sau đó, gần đến nước kém thì xả cảng ra để nước phèn chảy hết, và khi nước rông lại mở cảng cho vào. Cứ làm như vậy thì phèn sẽ không gây hại nhiều đến lúa.

Nó cười hiền, chỉ chiếc quần ống thấp, ông cao đang mặc, bảo:

– Chú thấy đó, phèn đặc quá nên làm ống quần tui vàng quách và dòn nên rách te tua. Dạ, tui sẽ làm theo chú biểu. À, chừng nào chú dìa vậy chú Ba?

Trong khi thằng Hiển nói chuyện với chú Ba, thì cậu Hai Cung ngồi ở ghế dựa bên án thư, giống như cậu đang ngồi xem sổ sách chi đó. Nhưng thật ra cậu cố tình ngồi để nghe chú Ba và thằng Hiển đối đáp với nhau. Chú Ba trả lời nó:

– Đợi trời ngã bóng thì về cho kịp con nước. Làm ở đây bao lâu rồi hả Hiển? Cưới vợ chưa? Có về thăm nhà thường không?

Thằng Hiển cười hen hệch:

– Vợ con gì chú ơi! Tui đi làm mướn làm thuê không đủ nuôi thân thì tiền đâu mà cưới vợ? Rồi còn nuôi nó nữa. Chắc chuyện đó hỏng bao giờ có đâu…

Chú Ba cũng cười, hỏi tiếp:

– À, cô Hiền dạo nầy ra sao? cổ có chồng rồi hả?

Thằng Hiển giọng nói trở buồn:

– Tội nghiệp chị tui khờ dại! Lúc đi làm ở dưới nhà bà Cả, gặp phải kẻ xấu mê hoặc, bị nó gạt gẫm rồi bỏ đi mất. Chị mang bầu, sanh ra thằng con trai. Nửa tháng trước về cúng giỗ ông nội tui, nó được tuổi mấy rồi. Thằng nhỏ trắng trẻo, mặt mũi lanh lợi, thật là dễ thương quá.

Cậu Hai Cung đánh rơi giấy tờ đang cầm trên tay. Còn chú Ba hốt hoảng, không kềm được, thảng thốt kêu lên:

– Trời ơi! Thật vậy sao? Rồi từ lúc trở về nhà đến giờ cổ sống ra sao? Đã nghèo mà còn mắc cái eo nữa? Ôi, thiệt tội nghiệp cho cổ quá đi!

Thằng Hiển thở dài:

– Thì sống hẩm hiu với gia đình bữa cháo bữa rau chú à. Lúc biết chỉ có chữa hoang, họ hàng xúi phá thai, nhưng chỉ không chịu, nói là để sanh rồi đem cho bà phước. Nhưng sau khi sanh, thấy mặt thằng con, chỉ không nỡ đem cho người ta! Mẫu tử tình thâm mà chú, mẹ nào mà đi bỏ con cho đành? Chỉ nói với ba má tui xin thương xót cho mẹ con chỉ, để chỉ đi buôn gánh bán bưng nuôi nó. Cha nó bất nhân, nhưng chỉ không bỏ con chỉ được…

Chú Ba chép miệng thở dài, láp váp: “Khổ mạng thiệt mà! Khổ mạng lắm đa!”.

Cậu Hai Cung không giữ được bình tỉnh, giọng run run gọi chú Ba vào.

Thằng Hiển đứng dậy với lấy cái nón lá đội lên đầu, và cây cuốc dựng bên vách đi ra đồng. Vừa đi, nó vừa gò giọng hát theo điệu Sơn Đông Hướng Mã đã học lóm ba xồn bốn xực: “Thỏ con thỏ, quay xà quay, chạy đến chòm cây. Chòm cây còn đây, đừng la bự cha già hay được, chắc anh ở tù, không ngày trở về…” Đây là bài hát cải lương mà nó nghe anh Bảy Đìa hát hôm bữa nhậu thịt chuột nướng ở nhà của ông Mười Cồ. Nó bỗng nín hát, quay lại khi nghe tiếng chú Ba gọi lớn. Thằng Hiển hỏi:

– Gì vậy chú Ba?

Chú Ba vừa thở, vừa móc túi và nói với nó:

– Lúc cô Hiền còn ở cho nhà bà Cả, tao thương cô như con gái tao vậy. Nay nghe cổ gặp hoàn cảnh ươn yếu, khó khăn, tao gởi tặng cổ chút tiền, khi nào mầy vê nhớ đưa tiền cho cô, và nói tao gởi lời thăm. Thôi đi làm đi, tao về nghen.

Chú dúi tiền vào tay nó, quay lưng đi. Thằng Hiển đếm mấy tờ giấy bạc cộng lại giựt mình! Tới 30$ lận, sao nhiều dữ vậy cà? Nó đi làm đầu tắt, mặt tối mà một tháng chỉ có 10$ thôi. Nó để tiền vào miếng vải nhựa gói kỹ cất vào tận túi áo.

Chú Ba vừa đẩy mạnh mái chèo vừa hát theo điệu Nam Ai cho quên quãng đường về còn xa. Cậu Hai Cung ngồi trong mui ghe, trước bình trà đã cạn và gói thuốc lá Basto chỉ có cái bao không. Cậu vò bao thuốc ném xuống dòng nước chảy ngược chiều theo hướng lướt tới của chiếc ghe. Vầng ô khuất sau dãy cây trâm bầu phía ruộng xa ở phương tây. Ánh tà dương vàng rực rỡ chói sáng trước khi trời chạng vạng đỏ đèn, và trước khi bóng đêm dầy đặc buông xuống.

Chú Ba chèo khỏi con kinh đào, qua dòng sông lớn. Hai bên bờ sông có những ngôi nhà khang trang, thỉnh thoảng mới có căn nhà ngói. Nhưng những căn nhà lá có vách bổ kho, sân trước có bàn thờ Ông Thiên, có trồng hoa tươi, có cây xanh, lá thẳm, có hoa trái sum sê quằn nhánh. Chứng tỏ đây là một làng trù phú, dân làng có nếp sống an cư, no ấm.

Trên nền trời ửng những vệt mây dài ngũ săc từ phương trời tây, lác đác vương làn mây trắng mỏng. Xa xa lẫn lộn trong vùng cây xanh tươi bên bờ sông có những cây ô môi lớn tàn nở hoa màu tim tím đỏ. Trên mặt nước sông lửng lờ, những cánh hoa ô môi rơi rụng bồng bềnh theo làn sóng nhấp nhô.

Cậu Hai Cung thở dài thườn thượt, lòng buôn vô hạn. Chuyện con nhỏ ở bị cậu chủ hãm hiếp rồi cho tiền cho bạc đền bù cho cha mẹ nó là xong. Những chuyện đó xảy ra hà rầm như ăn cơm bữa ở cái xã hội phong kiến chưa xóa hết nầy. Chuyện con Hiền với cậu, cứ âm ỷ trong tâm hồn cậu. Cho đến nay cậu không làm sao quên được đôi mắt thê thảm của nó! Cậu cố tình quên để gia đình êm ấm giữ danh tiếng và thể diện cho cha mẹ cậu và cho cậu. Những tưởng thời gian đã xóa nhòa tất cả. Nhưng hôm nay, tin con Hiên sanh con đã làm cho cậu bấn loạn, xáo trộn tinh thần, và ăn năn càng đè nặng tâm hồn cậu hơn.

Chiếc ghe vẫn lướt nhanh thu ngắn quãng đường về. Màn đêm buông xuống. Nhà nhà đã lên đèn. Tiếng chim về muộn gọi đàn kêu oang oác trong không gian tối mịt mờ. Trên sông dài cách nhau vài cây số có cây đèn bão treo trên cột cao, báo hiệu có hàng đáy giăng ngang sông, để xuồng ghe tránh, không bị vướng vào. Và gần dọc theo bờ sông le lói ánh đèn ve chai của những chiếc xuồng câu tôm.

Ghe chèo ngang qua lảng trống, tiếng hát của thiếu phụ vang vang trong gió: “Ầu a…Than rằng gối gấm không êm. Gối lụa không mềm bằng gối tay em…Ầu ơ…Đốt than em nướng con cá duồng. Mua hai xị rượu bơi xuồng kiếm anh…Ầu ơ… Nhớ anh em nấu chảo bỒi. Kho ơ cá bống, hÂm nồi canh khoai… ầu ơ…”

o O o

Nhà ông Cả Cần giữa đêm tăm tối mà đèn đuốc sáng trưng. Người trong nhà lăng xăng, kẻ chạy lên, người chạy xuống, kẻ nấu nước người kiếm gừng, hái chanh, đập sả… để xông, hơ, vác hơi, cạo gió cho cậu Hai đi thăm ruộng về bị ngất xỉu vì cảm nắng.

Cậu Hai đang nằm liệt trên giường. Chỉ bịnh mới có mấy ngày thôi mà thần sắc cậu sút giảm ngó thấy. Hai gò má cậu hóp lại, cặp mắt thâm quầng, vô thần, mặt mày tái nhợt, môi khô đến tróc da. Chú Ba quay đi nơi khác len lén thở dài. Chú hiểu rành rọt tại sao cái bịnh bất ngờ đến với ông chủ nhỏ của mình, trong khi cha mẹ vợ con cậu không ai hề hay biết nguyên nhân của nó!

Hôm nay là ngày thứ năm cậu Hai Cung bị bịnh. Bà Cả Cần bảo con dâu cùng chị vú đi chợ mua thịt tươi và gan heo về nấu cháo đổi bữa để cậu ăn cho mau khỏi bịnh. Chú Ba đỡ cậu ngồi trên ghế dựa. Bà Cả vừa thổi cháo cho nguội đút cho con ăn, vừa nói.

– Con cố gắng ăn cháo cho mau hết bịnh. Không ăn mà uống thuốc cũng không nhằm nhò gì đâu. Má không biết tại sao con bỗng dưng lăn đùng ngã bịnh? Không bị mưa, cũng không bị nắng. Để má bảo vợ con cùng bà vú ngày mai đi cầu cô Năm. Cổ sẽ chỉ bảo cho mau hết bịnh. Hôm đó, má cùng chị sui và vợ con đi viếng am cô Năm. Cô nhập xác đồng sẽ cho biết tại nhà nay có người làm việc xấu, nên vợ con không nuôi được con trai. Má nghĩ chắc không phải vậy đâu, vì mình đã bù đắp cho nó rồi…

Cậu Hai khó khăn lắm mới nuốt được mấy muỗng cháo. Nhưng cậu cảm thấy miệng mình đắng chằng đắng nghét và cậu chóng mặt, rồi ói ồng ộc. Chú Ba lấy ống nhổ hứng không kịp. Mùi ói chua lè chua lét bốc lên nồng nặc. Bà Cả bảo:

– Chú Ba đỡ cậu Hai lên giường, rồi mau quét hốt và chùi lau chỗ dơ. Chú nhớ lấy tro bếp phủ lên vũng ói cho bớt mùi hôi nghen.

Chú Ba “dạ” rồi mau lẹ quét dọn làm theo ý bà chủ. Cậu Hai mệt nhọc thở dốc, mặt mày nhợt nhạt không còn chút máu. Nhìn sắc diện của con, bà xót xa, lấy khăn lau nước mắt. Cậu Hai Cung nắm tay mẹ thều thào:

– Xin lỗi má, con đã gây ra tội lỗi đáng chết, nên giờ bị Trời phạt chắc là không sống bao lâu nữa đâu. Nếu con có mệnh hệ nào thì xin ba má đừng có quá đau buồn cho thằng con bất hiếu nầy.

Bà Cả Cần khóc lớn:

– Con là đứa con hiếu hạnh, hiền lành, tốt bụng của gia đình. Đừng có nghĩ bậy. Vài hôm nữa con sẽ hết bịnh.

Cậu Hai, nhìn mẹ cặp mắt lờ đờ, van lơn:

– Con xin má giúp con cứu người ta! Con lạy má, má hãy thương con…

Cậu Hai nói đến đó lại ngã ra xỉu nữa. Bà Cả ôm chầm lấy con la khóc cầu cứu. Sau một hồi được cao gió, hơ nóng, đổ thuốc… cậu Hai tỉnh lại, ai hỏi gì cũng không nói, mắt nhắm nghiền mà lệ sầu ràn rụa. Bà Cả vừa lo con bị trúng tà, vừa sợ con chết. Chú Ba chịu không nổi, học lại hết câu chuyện giữa chú với thằng Hiển mấy hôm trước trên ruộng cho bà chủ nghe. Bà Cả Cần sững sờ khi nghe con Hiền sanh được thằng trai với con mình. Bà lật đật kéo chồng vào nhà trong, bàn bạc cách gở rối cho gia đình.

Mấy hôm sau, bịnh của cậu Hai Cung thuyên giảm dần. Ở trong nhà từ trên xuống dưới trừ vợ chồng ông Cả Cần, cậu Hai Cung và chú Ba, ai nấy đều tuyệt đối tin tưởng là nhờ bà đồng nhập xác cô Năm sẽ giúp việc trừ ma đuổi quỉ nên cậu Hai mới bớt bịnh. Và cũng sau khi cậu Hai đỡ bịnh, ăn uống biết ngon, mắt mày tươi tắn lại, thì chú Ba đưa bà Cả Cần đi thăm ruộng.

Ba má con Hiền đang giã gạo chày đôi trước sân. Con Hạnh em kế thằng Hiển nấu cơm, kho cá dưới bếp, trong khi con Hiền đi bán xuồng hàng chưa về.

Chú Ba vào trước, nói với ba má cô Hiền:

– Chào anh chị. Hôm nay bà chủ đi thăm ruộng, tiện đường nên ghé qua thăm anh chị đây.

Ba má con Hiền chưng hửng và ngạc nhiên quá đỗi. Vì mỗi khi gia đình ông Cả có đám tiệc thì ba con Hiền xuống làm mấy ngày, Tết nhứt đến dù nhà thiếu trước hụt sau họ cũng phải mua cá lóc bự, gà thiến, nếp hương, hay gạo nanh chồn đem biếu. Ông bà chủ giàu có, thuộc hàng người thượng đẳng, thân phận cao sang thì có lẽ nào mà ghé thăm tá điền nghèo mạt rệp? Mọi khi nếu có việc gì cần sai bảo, thì bà chủ ở trại ruộng gọi tá điền tề tựu lại, chớ có đâu đến tận nhà để viếng thăm? Hai vợ chồng họ vừa sợ vừa lo, không biết chuyện gì sẽ xảy đến? Ba con Hiền vội lấy cái quần dài và cái áo mặc vào để ra chào bà chủ. Má con Hiền cũng lính quýnh lấy cái áo bà ba mặc vào. Cả hai vợ chồng khúm núm cùng ra cửa đón bà Cả Cần.

– Dạ, kính chào bà Cả.

Bà Cả Cần tươi cười chào lại họ. Bà hỏi bâng quơ vài câu về ruộng nương lúa thóc rồi bà nhẹ giọng nói:

– Chú thím ngoài ruộng nương còn có làm gì thêm không?

Ba con Hiền lễ phép trả lời:

– Dạ thưa không bà chủ, ở đây dân sống về 2 mùa lúa ruộng, những tháng còn lại thì tụi tui trồng khoai để ăn chớ không có bán. Gặp mùa nước lớn quá thì chỉ 2 mùa lúa thôi, không có vụ khoai, vụ bắp gì nữa.

Bà Cả Cần dòm khắp nhà. Tuy là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó quét tước sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văn… đóng bằng gỗ rẻ tiền như là thao lao, mít nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt hai bên có vẻ tươm tất hơn. Ba con Hiền cho biết, bàn ghế đó do người bác ruột qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang bằng sành tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẽ tám thứ trái cây ở thành dĩa: Lệ chi (trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị. Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị cha mẹ, và ông bác sơn son thếp vàng. Trên chiếc bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ nho viết bằng lối chữ thảo. Má con Hiền bảo là do ông bác để lại vào ngày lễ Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi tâm tranh là bài cổ thi chúc xuân, mà vợ chồng bà không biết đọc chữ Nho nên không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.

Bà Cả Cần khen:

– Nhà cửa chú thím tuy không có vật chi quý giá để bày biện rườm rà, nhưng mọi nơi đều đâu ra đó, ngăn nắp. Đồ đạc đều lau chùi sạch bóng, coi thấy thương quá!

Ba con Hiền đỡ lời:

– Đó là do con Hiền săn sóc nhà cửa. Trước kia nó ở mướn nhà bà nên nó tập quen thói ăn ở ngăn nắp gọn gàng rồi.

Bà Cả Cần cười hí hởn ra vẻ toại ý lắm. Má con Hiền mời bà Cả ăn trầu gọi là để mở đầu câu chuyện.

Ba con Hiền quay qua vợ:

– Bà đi nấu nước đi, và bắt con gà làm thịt nấu cơm đãi bà Cả.

Má con Hiền gật đầu định đi xuống bếp. Bà Cả ngăn:

– Thôi, khỏi đi thím. Tôi vừa mới ăn cơm trưa xong. Thím cứ ngồi đó nói chuyện. Hôm nay tôi đi thăm ruộng thế cho cậu Hai. Cậu bị bịnh lần nầy không đi được. Nghe nói cháu Hiền đã có con nên, tiện dịp tôi ghé qua thăm luôn.

Bà Cả nhìn vào nhà trong như tìm kiếm, rồi nói tiếp:

– Chuyện xảy ra giữa thằng con trai tôi và con Hiền chúng tôi cũng buồn lắm. Nhưng chuyện đã dĩ lỡ rồi. Mong chú thím bỏ qua cho.

Ba con Hiền đau xót lắm từ lúc con ông bị hiếp đáp để rồi có chửa hoang đẻ lạnh, để bị họ hàng khinh khi, xóm làng cười chê. Ở thôn quê, dân chúng nghèo tiền nghèo bạc chớ không nghèo tình nghĩa và nhân phẩm. Nhung từ bấy lâu nay, vợ chồng chú ngậm đắng nuốt cay chịu trận, vì gia đình chú nghèo, đất đang ở, ruộng đang làm là của ông bà Cả, nếu chú chống cự họ thì họ lấy lại rồi gia đình chú ăn ở đâu? Nên phải làm thinh. Má con Hiền bật khóc. Ông chồng bà nói:

– Thưa bà Cả, chuyện đó cũng đã qua hơn cả mấy năm rồi. Tại số phần bạc phước của con gái tôi. Làm cha làm mẹ chúng tôi phải gánh chịu chớ biết làm sao bây giờ?

Bà Cả ôn hòa nói tiếp:

– Thiệt ra chúng tôi không biết con Hiền có thai. Cho đến nửa tháng trước, cậu Hai đi thăm ruộng nghe thằng Hiển nói với chú Ba vụ nầy nên chúng tôi mới biết. Chúng tôi có trách nhiệm với mẹ con của cháu Hiền. Mẹ con nó ở đây hay ở đâu vậy chú thím? Sao nảy giờ tôi không thấy tụi nó?

Má con Hiền lau vội nước mắt, trả lời:

– Thưa bà, con Hiền sáng sớm đã bơi xuồng hàng đi bán trong kinh, chiều tối mới về. Còn con nó đang ngủ trong chiếc võng ở nhà bếp.

Bà Cả đứng lên, nhìn ba má con Hiền nói:

– Chú thím cho tôi thăm thằng nhỏ một chút được không?

Má con Hiền nhìn chồng. Ông gật đầu. Họ đi trước, bà Cả và chú Ba theo sau. Chiếc võng đương bằng dây chuối xiêm phơi khô, dưới lưng thằng bé là manh đệm rách ẩm ướt vì ngấm nước đái của nó. Thằng bé chợt thức giấc, mắt mở to, cười hả miệng, quơ tay quơ chưn mừng rỡ đòi bồng. Má con Hiền ẵm cháu ngoại lên, lại lu lấy gáo múc nước rửa mặt cho nó. Bà Cả Cần xúc động, mắt đỏ hoe. Trước khi ra về, bà hỏi ba má con Hiền:

– Chú thím có muốn mua 4 công đất đang ở, và 8 công ruộng đang làm không? Vợ chồng tôi ở xa, việc đi lại khó khăn nên ông nhà tôi muốn bán chút ít đất ruộng đó. Nhung trước khi bán phải hỏi vợ chồng chú, chừng nào chú không mua, thì chúng tôi mới sang cho người khác.

Má con Hiền nhìn chồng muốn khóc! Không có miếng đất để ở, không có thẻo ruộng để canh tác thì sẽ làm sao để sống đây? Vợ chồng bà, từ ngày con Hiền về đi buôn bán nhưng cũng đủ no ấm thôi, làm sao có tiền mà mua? Ba con Hiền nhìn xuống đất, chẳng trả lời bà Cả Cần. Bà Cả Cần bảo chú Ba xuống ghe bưng quà tặng lên. Bà nói:

– Nghe con Hiền có con, tôi có mua cho đứa nhỏ mấy xấp vải, và chút ít tiền. Con Hiền về, thím nói đây là chút tâm ý của tôi gởi để nó trả công may áo quần và thỉnh thoảng mua bánh trái cho thắng nhỏ. Nếu nó có cần gì thì cho tôi biết hoặc đến gặp tôi.

Miệng bà nói vậy, nhưng bà biết rằng, trong lúc khốn khó, bụng mang dạ chửa nó còn không đến xin xỏ bà, thì giờ đây đời nào nó há miệng nhờ cậy hay là quà bẹt quẹt ai. Bà thấy lòng mình nao nao vừa thương vừa trọng gia đình ba má con Hiền. Họ nghèo khổ vẫn chịu đựng, không vì chuyện con bà làm ra mà xin xỏ họặc làm xách, làm eo, bắt chéo, bắt chẹt gia đình bà để đòi tiền, hoặc đòi thứ nầy thứ kia … Thật đúng là “lành cho sạch, rách cho thơm”. Bà nhắc lại với ba má con Hiền:

– Chú thím có muốn vườn đất đang ở, đang làm thì xuống thương lượng với cậu Hai. Tôi thấy không khó đâu. Chú thím cứ cho mấy thằng con trai lớn xuống làm vài năm thì trả dứt nợ…

Bà Cả ra về đến nhà thì biết con dâu dắt hai đứa cháu nội về thăm ông ngoại bất ngờ lâm trọng bịnh. Chiều tối đó, sau khi cơm nước xong, bà kể lại cho chồng con nghe:

– Con Hiền khéo nuôi con, nên thằng nhỏ tròn trịa, bụ bẫm, tay chân mập tròn trịa. Mặt mày nó sáng sủa, tuấn tú, nước da trắng hồng, cặp mắt tròn to và đen như hai hột nhãn. Thấy ai cũng không biết lạ miệng cười toe toét có lúm hai đồng tiền, trông thật dễ thương. Ba má con Hiền bảo là thằng nhỏ nghe hiểu hết mọi thứ, chỉ hơi chậm nói thôi. Mặt nó thiệt giống thằng Cung hồi thuở nhỏ.

Ông Cả Cần lơ đãng nghe, cậu Hai Cung thì lắng tai nghe và theo dõi lời của mẹ không chớp mắt. Bà Cả bưng tách trà uống rồi nói tiếp:

– Gặp nó chỉ có một lát thôi, mà trên đường về lòng tôi cứ bào xào dao động mỗi khi nhớ đến nó. Không biết có phải đây là máu mủ thâm tình hay không? Ông nghĩ sao, hả ông?

Cậu Hai Cung ngồi nghe mà lòng buồn vô hạn. Ông Cả Cần thở dài:

– Bà nghĩ sao và muốn gì thì cứ bàn với thằng Cung. Nó đã lớn rồi, hãy để nó xử sự, còn mình làm cha làm mẹ chỉ nên góp ý chớ đừng có quyết định. Vợ chồng mình đã già rồi. Mặc dù không nói ra, nhưng bấy lâu nay gia sản coi như đã giao hết cho nó coi sóc. Gia đình lại ít con ít cái. Muốn cho nó xin con nuôi hay cưới vợ bé thì tùy bà với nó quyết định đi. Việc tốn kém tôi không đếm xỉa tới. Tôi thấy gia đình nay kể từ nay sẽ gặp sóng gió. Vì bà còn lạ gì cái tánh nhỏ mọn, ích kỷ của con dâu bà. Vậy thì bà với nó cứ liệu mà làm.

Cậu Hai Cung nãy giờ buồn hiu và lo vừa sợ, nhưng khi nghe cha mở lời thì cậu vui mừng khấp khởi. Bởi ông là người có quyền uy tối hậu trong gia đình. Khi ông đã quyết định rồi thì không ai dám cãi. Cả má cậu cũng phải nghe theo. Cậu biết trong vấn đề nan giải nầy, cha cậu muốn né, để cho mẹ con cậu quyết định. Ông không muốn mắc vào vì còn bên ba má vợ cậu nữa. Cái khó ăn, khó nói nhứt là vợ của cậu thôi, chắc chắn mợ sẽ làm rùm beng lên. Nhưng cậu không ngại, cứ đánh liều tới đâu thì tới! Cậu không muốn con Hiền và con của cậu sống bơ vơ nghèo khổ.

Kiều Lan và Kiều Liên lớn như thổi. Hai đứa cháu nội càng lớn càng xinh. Bà nhìn con dâu vui vẻ nói:

– Hôm qua đi cúng miễu, bà hội đồng Hào, bà Cả Tám ở làng bên khen hai đứa nhỏ dễ thương quá, và hai bà còn hỏi con có mang chưa? Hai bà nói má có thêm vài đứa cháu nội trai nữa là thêm vui nhà, vui cửa.

Mợ Hai Cung thoáng buồn vì đã hai lần xẩy thai đều là con trai. Bỗng mợ chợt nhớ tới lời cô Năm nhập xác đồng khuyên nên xin một đứa con trai nuôi thì mợ sẽ sanh và nuôi được con trai. Mợ hơi lưỡng lự, nhưng hôm về thăm nhà, má mợ cũng nhắc. Bà còn nói xin con nuôi thì có nhằm chi đâu, nó cũng không đổi họ thay tên theo như con ruột mợ. Sau nầy có đứa để mợ sai biếu và tin cẩn nó được… Má mợ nói cũng có lý. Nay, nghe má chồng nhắc đến, mợ không ngần ngại tỏ bày:

– Thưa má, dạo nay anh Cung bịnh rề rề. Má con nhớ lời cô Năm nhập xác đồng không? Hay mình xin đứa con nuôi đi má. Nếu như lời cô Năm nói thì gia đạo mình sẽ gặp điều kiết tường. Còn không thì mình cũng có mất mát gì đâu. Thêm một miệng ăn cũng không tốn kém bao nhiêu…

Bà Cả Cần không ngờ câu chuyện bà định nói lại thuận buồm xuôi gió như vậy. Bà gật gù, nhưng lấy giọng nghiêm nói với con dâu:

– Bây thật sự muốn xin con nuôi sao? Phiền phức lắm đó, phiền không phải vì nó ăn nó mặc, hoặc sau nầy phải chia của cho nó. Dù mình có cho nó chút ít cũng nhằm nhò gì đâu về đất đai của nhà nay và còn bên ngoại của hai đứa nhỏ nữa. Phiền là ở chỗ nếu mình coi nó như tôi tớ thì mình sẽ bị thiên hạ chê cười.

Bà Cả Cần đã mở cờ trong bụng, tuy nhiên cũng nói với con dâu:

– Con muốn vậy thì để má bàn lại với cha con và thằng Cung coi họ có chịu không đã.

Mợ Hai Cung sợ mẹ chồng đổi ý, vội nói:

– Việc nầy thì má cứ bàn với ba. Còn phần anh Cung để con lo.

Bà Cả Cần đem câu chuyện giữa bà và con dâu vừa nói kể lại hết cho con trai nghe. Cậu Hai Cung mừng quýnh, nhưng nói với mẹ:

– Má à, con muốn con Hiền về đây làm vợ bé và nhận thằng con, chớ đâu phải chỉ nhận là thằng con nuôi thôi.

Bà Cả Cần nổi sùng:

– “Được voi đòi tiên”. Bộ mầy muốn phá vỡ tan tành cái gia đình nầy hả? Con thật quá nông cạn. Thời gian còn dài, không phải làm ồ ạt lộ liểu một lần được đâu.

Cậu Hai Cung có vẻ không bằng lòng ý định của mẹ. Cậu muốn nhận thằng con, và cho con Hiền có một danh phận. Đó không phải là để đền bù việc quấy cậu đã gây ra, mà thật sự cậu đã thương yêu nó! Hình ảnh của con Hiền lúc nào cũng vương vấn trong tâm hồn cậu, cả những lúc ân ái với vợ, cậu cũng nghĩ tới nó! Bởi mang nỗi dồn ép trong lòng không nói ra được lâu ngày nên cậu mới sanh bịnh. Nay dù sự an bài của me không như ý, nhưng cậu cứ để cho bà quyết định. Bởi mẹ cậu nổi tiếng là Gia Cát Lượng, có tài và khôn khéo sắp xếp mọi sự việc trong nhà nầy. Gia sản của gia đình có ngày nay một phần lớn cũng nhờ công lao của bà.

Bà Cả Cần lại khăn gói lên nhà ba má con Hiền xin thằng con của Hiền về làm con nuôi cho cậu mợ Hai Cung và làm cháu nội nuôi của ông bà…

Ba má con Hiền thở dài không nói gì. Lòng con Hiền buồn vời vợi, và cũng không trả lời bà Cả Cần đề nghị. Nó lặng lẽ xách thùng xuống rạch kế bên sàn lảng, múc nước đổ đầy mấy lu chứa nước uống trước nhà. Bởi hôm nay là ngày cuối con nước rông, nước sông cái chảy vào vừa trong, vừa sạch lại không có phèn. Nếu không múc chứa đầy lu thì phải chờ cả tháng sau con nước tới mới dùng được như vậy thì cả nhà sẽ không đủ nước để uống. Múc đổ đầy hết các lu, các khạp, nó cầm cục phèn chua trắng trong như cục nước đá chà vào thành lu, rồi quậy ào ào cho chất phèn chua trộn đều nước trong lu. Chừng 10 phút sau, nước đứng yên, phù sa lợn cợn trong nước lắng xuống đáy lu, bên trên là nước trong vắt, uống ngọt lịm. Ở thôn quê không có nước phông-tên nên nhà nào cũng lóng nước bằng cách tiện lợi và rẻ tiền nầy.

Má con Hiền ẵm thằng cháu ngoại đứng gần đó. Thấy mẹ, thằng bé đòi bồng tay chân bỏ qua, miệng bập bẹ “ma má má…”. Nó lại cười tích toác, đôi má lúm đồng tiền coi rất dễ thương. Bà Cả lại đưa tay bồng thằng bé nựng nịu. Con Hiền cảm thấy khó chịu và bực bội lắm. Nó chống đối chuyện cho thằng con nó làm con nuôi người ta rất quyết liệt. Nó nghĩ mình không phải là đồ vật ai muốn xách bỏ đâu thì bỏ, đem đi đâu thì đem, biểu cái gì thì phải làm cái đó. Bà Cả hiểu rõ sự oán hận và lòng tự ái của nó. Bà nhỏ nhẹ phân bày:

– Cháu đi theo làm chị vú của nó, săn sóc nó, nuôi nó… Chỉ có mẹ mới chu đáo lo cho con mình. Bác sẽ trả tiền công cho cháu hàng tháng. Như vậy mẹ con cháu được gần gũi nhau. Ở đây, hai mẹ con sống cơ cực quá. Rồi khi lớn lên làm sao cháu có đủ tiền cho nó học hành? Chẳng lẽ cháu để con mình sống ở nơi hẻo lánh và lại tiếp tục làm ruộng rẫy suốt đời khổ cực hay sao?

Ba má con Hiền không có ý kiến trong vụ nay. Ông đi ra vườn làm việc lặt vặt, bà rút lui xuống bếp kho cá nấu cơm, để cho con nói chuyện với bà Cả và cũng để tự nó quyết định. Con Hiền vừa khóc vừa trả lời:

– Thưa bà, ở nơi hẻo lánh, làm ruộng rẫy có gì không tốt đâu? Hai mẹ con cháu đã quen sống cảnh nghèo nầy rồi. Bao nhiêu người sống ở đây, gia đình họ vẫn sống êm đềm yên vui bên ruộng rẫy đó mà. Cháu không muốn sung sướng mà bị ràng buộc và lo lắng trong lòng.

Bà Cả nói hết lời nhưng không lay chuyển được con Hiền. Bao nhiêu đòn phép, bao nhiêu chiêu thức bà đã đem ra dùng nhưng nó vẫn “trơ như đá, vững như đồng, nhứt trụ kình thiên”. Nó hận cậu Hai Cung đến tận xương tủy rồi. Bà Cả Cần phiền muộn vô cùng nhưng chưa nản lòng, vì bà biết Hiền là đứa con hiếu thảo, nên nói:

– Nếu cháu bằng lòng thì bác sẽ sang nhượng không lấy tiền một mẫu hai công vừa đất vườn vừa ruộng luôn cho ba má cháu đang làm tá thổ tá điền.