CHƯƠNG TÁM
Năm nào cũng vậy, từ khi hai mẹ con dọn ra ở riêng đến giờ, bà Tư Hiền nhứt định cúng Tết vào ngày mùng bốn Tết. Mấy bực điền chủ có vườn đất bộn bàng, mấy tay thương gia nghiệp chủ có tiền muôn bạc vạn mới ăn Tết cho tới mùng mười, rồi sửa soạn ăn Tết rằm Nguơn Tiêu.
Thiện Tố thơ thẩn dạo khắp thẻo đất thuộc khuôn viên của mẹ mình. Cây vú sữa đã hái hết trái. Mấy cây dừa Tam Quan, cây cau hòn trổ bẹ sởn sơ, không đợi tới mùa mưa. Cây vông đồng bên sàn lảng hoa vẫn tưng bừng nở đỏ. Mấy nọc trầu vẫn xôn xao trổ tược non, lên lá mới.
Trong vạt đất trồng rau, cải trắng, cải bẹ xanh, củ cải đã nhổ hết chỉ chừa mấy bụi cải bẹ xanh trổ bông vàng trở thành cải ngồng để dành lấy hột giống cho mùa tới. Còn các loại rau thơm, rau húng, rau dấp cá, rau răm, quế, ngò gai… vẫn tươi hơn hớn vì được tưới nước mỗi ngày.
Trên bãi bùn dựa mé bờ mấy khóm môn nước, rau mác xanh sôi nẩy bẹ sum sê. Ven ao gần đó cây điên điển trổ hoa vàng in bóng nước cùng với vùng trời xanh gọn mây trắng. Dưới lườn ao, rau muống ruộng non nhẩn, nhánh mọc rườm rà bò trên mặt nước.
Con chim khách từ đâu bay xẹt qua, lượn quanh nhà hót ríu rít rồi lủi trong cành lá mận tơ xạnh rì. Thiện Tố mỉm cười vu vơ rồi vào nhà rót trà uống từng ngụm. Chợt thấy mẹ như đang nghĩ ngợi xa xôi, chàng bảo:
– Má có vẻ mệt mỏi rồi đó. Má có cần uống thuốc ích khí bổ thần thì cho con biết.
Bà Tư nhìn con cười, đánh trống lảng:
– Đầu năm chim khách bay quanh nhà, chắc chắn năm nay gia đình mình có chuyện vui đó con.
Thiện Tố cười cười nhìn mẹ chọc quê:
– Chuyện gì vui vậy má? À mà con biết rồi, con trai má về nhà ở luôn thì má vui rồi, còn chuyện gì vui hơn nữa có phải không?
Cả tháng nay, cô giáo Cẩm Hương thấy con trai bà chủ nhà nằm ngủ ở chiếc đi-văn ngoài nhà trước, nàng đâm ngại. Nàng định cuối tuần nầy nói với bà Tư cho nàng ở thêm một tháng nữa, nàng sẽ tìm nhà khác mà dọn đi. Ở chợ quận nầy, nàng đã dò hỏi, rất ít nhà cho mướn riêng, người ta chỉ cho ở chung thôi. Hoặc mấy nhà nấu cơm tháng họ cho ăn ở luôn. Những nhà nấu com tháng thì ồn ào, ở đôi ba tháng thì được, ở lâu thì không thoải mái về mặt tinh thần cho lắm. Cẩm Hương định cố gắng dạy học ở Cai Lậy 2 năm đủ nhiệm kỳ thì xin chuyển về gần nhà. Nàng cảm thấy buồn, vì nhà ba má mình không còn ấm cúng như xưa, bởi chỉ có hai ông bà già hủ hỉ bên nhau. Ở nhà bà Tư, nàng tưởng đã yên, bây giờ lại phải sắp dọn đi. Dọn nhà là chuyện Cẩm Hương ghét nhứt. Nhưng phải chịu, tới đâu hay tới đó, chớ biết làm sao hơn!
Hôm nay đi dạy về, Cẩm Hương bước vào nhà thấy có vài thay đổi. Tấm vách phòng khách được đôn dời ra phía trước, nên bộ ghế dời gần vách sát bên cạnh cửa sổ. Cái đi-văn đem vô căn phòng vừa đóng còn thơm mùi cây, ván mới. Con bà chủ nhà dùng cưa tay đang cưa cậy rào rạo, rồi anh ta dừng lại, đóng đinh cộp cộp. Nãy giờ Cẩm Hương tò mò nhìn vào vì cửa phòng chưa ráp. Con trai bà chủ nhà chăm chú vào công việc, nghe bước chân nàng thì dừng lại, lịch sự chào hỏi:
– Chào cô giáo, cô mới đi dạy về đó hả? Cô bước vào xem coi có thích phòng nay không? Cô muốn kê bàn viết nơi nào? Chỗ máng áo nên đóng ở đâu? Chiếc giường ngủ để chỗ nầy có được không? À, còn cái tủ nữa chớ?
Cẩm Hương ngạc nhiên, nhưng mừng thầm trong bụng. Như vậy là họ không muốn cô dọn đi. Cô hỏi:
– Cảm ơn anh, tôi ở phòng cũ được rồi, để cho anh, hay bác Tư ở phòng mới nay đi. Bác Tư đâu rồi anh?
Thiện Tố cười vui:
– Má tôi vừa mới ra chợ. Đâu có được cô, phòng cô đang ở là phòng của má tôi, bà quý cô lắm mới nhường cho cô ở đỡ đó chớ. Phòng bà đang ngủ, là phòng của tôi, nhưng bà chê dơ, đồ đạc để bừa bãi… Nên bà muốn trở về phòng mình. Má tôi bảo đóng phòng nầy cho cô đó cô giáo.
Thế là Cẩm Hương ở lại nhà bà Tư Hiền khỏi phải tìm mướn nơi khác. Nàng được con trai bà chủ nhà khiêng những đồ nặng, bà Tư cùng cô khuân những thứ nhẹ như ghế, va-li, áo quần, sách vở…Chỉ trong vài giờ thôi, đồ nhẹ đồ nặng gì cũng được dọn hết qua phòng mới. Nhưng cô sắp xếp lại cho vừa ý phải mất cả ngày chủ nhật mới xong.
Phòng của Cẩm Hương có cửa sổ, nằm trên giường có có thể nhìn mưa rơi bên ngoài, nhìn đợt nắng sáng trải trên cây xoài cây mận ngoài song, nhìn trăng lên. Và nhứt là nàng có thể ngắm con kinh đào, cùng sinh hoạt của những nhà cất nửa trên đất liền nửa gie ra kinh. Ở ven bờ kinh có các cô gái giặt đồ, múc nước rửa chén, hoặc những đứa trẻ chầm nghịch dưới nước trong những ngày oi bức. Cô có thể lắng nghe tiếng chim kêu ngoài cửa sổ vào những sáng tinh sương. Cô còn có thể nghe giọng ru con buồn não nuột của thiếu phụ trẻ nhà hàng xóm.
Cẩm Hương thầm cảm ơn anh chàng Thiện Tố, người thanh niên trẻ mà cô bắt đầu hay nghĩ đến anh ta. Thường ngày, anh ta đi làm trước khi Cẩm Hương đi dạy học, và lúc nào cũng về trễ hơn cô. Anh ta là một thanh niên kiên nhẫn và chịu đựng, tánh tình đôn hậu, cởi mở, rộng rãi. Có lẽ nhờ thế mà anh ta sống rất thực tế và yêu đời. Bởi vốn là con bà nhỏ, từ lúc thiếu thời anh luôn bị sự bạc đãi, chèn ép của má lớn cùng sự xéo xắt, hà hiếp của hai bà chị là Kiều Lan, Kiều Liên.
Về Kiều Lan và Kiều Liên, Cẩm Hương đã gặp họ vài lần. Đôi bên chỉ chào hỏi chớ không ai chuyện vãn với nhau. Một lẽ là hai cô Kiều không đẹp bằng Cẩm Hương, không có bằng Thành Chung, không tốt nghiệp trường Sư Phạm như Cẩm Hương. Họ có vẻ không ưa nàng vì mặc cảm thua kém trở thành ganh ghét và cái tự đắc là tía má họ giàu. Hai cô Kiều không xấu xí, nhưng không kiều diễm. Cô em cao lớn, dáng đi hơi cứng, vai hơi ngang, mắt hơi lộ, răng hơi hô, da hơi ngâm, tóc dợn sóng trước trán. Cô chị hơi nhỏ vóc, hồng hào, khuôn mặt tròn, mắt một mí, mũi hơi thô, miệng hơi móm. Nhưng cả hai thích ăn diện, quần hàng áo lụa lòe loẹt, son phấn diêm dúa, nữ trang bừa bộn. Họ lại thích làm điệu, đánh lưỡi, sửa giọng khi nói chuyện.
Hôm đó, bất ngờ hai cô Kiều đến chơi. Trong khi bà Tư làm bánh chuối, nước cốt dừa đãi họ thì cả hai bàn đến chuyện tuồng cải lương và tiểu thuyết. Kiều Lan rất ghét tiểu thuyết có kết cuộc chia lìa: kẻ chết, người đi tu. Hễ vai chánh lỡ uống thuốc độc, hay treo cô tự tử thì cô ta bị ám ảnh suốt mấy ngày. Còn Kiều Liên chỉ muốn những nhân vật chánh hễ nhảy xuống sông tự vận thì có người cứu vớt. Rủi đương sự lỡ măc bịnh lao, bịnh cùi, bịnh phong tình cũng gặp thần y, thánh dược chữa lành bịnh, hoặc được Đức Mẹ Đồng Trinh ban cho nước thánh, hay gặp Đức Quan Thế Âm Bồ Tát rưới cam lộ làm bịnh dữ hóa thành sanh lực.
Kiều Lan bảo với bà Tư Hiền
– Tui coi tiểu thuyết chỉ muốn mấy nhân vật xấu xí, già nua dù có hảo tâm đi nữa chết thay cho mấy nhơn vật trẻ trung, đẹp đẽ. Gái xinh đẹp, trai anh hùng, oai phong, tuấn tú mà chết, trái tim tôi bị bóp thắt lại.
Kiều Liên mặc hầm hừ:
– Tui muốn mấy nhơn vật thợ may trong truyện “Tình Duyên Kim Chỉ” chết hết, dù tụi nó có đẹp, có trẻ đi nữa. Mấy người biết không? Thằng chồng khốn kiếp của tui cứ xum xoa theo con Sáu thợ may ở Ngã Tư Cái Bè. Tui biết ráo trọi.
Mọi người cười rộ lên. Bà Tư lắc đầu, thở dài. Rõ ràng là tâm địa bọn nầy không hiền. Nói chuyện ba đồng bảy đổi một hồi, Kiều Lan chìa tờ giấy bạc in hình con công (20$) rồi bảo Thiện Tố:
– Cậu Năm có đi Mỹ Tho mua dùm tui một hộp bơ Bretel, một chai Maggi. Tui vốn kén ăn. Cá chiên mà không phết bơ Bretel thì tôi nuốt không trôi. Dầm cá chiên với nước mắm chanh ớt thì không có cô hai Kiều Lan nầy rồi đa. Phải dùng Maggi thì tui mới nhúng đũa vào dĩa cá. Còn tàu iểu hiệu Con Chuột, xì dầu thì tui cũng từ luôn.
Kiều Liên chìa tờ giấy bạc 10$ điệu đà nói:
– Cậu mua dùm tui mấy cục xà bông Cô Ba và mấy hộp phấn chà răng hiệu Kool, hoặc hiệu Gibb. Mấy hôm rày tôi tắm bằng xà bông sả thấy mình mẩy ngứa ngáy. Còn phấn chà răng của mấy ông Ba Tàu bào chế không làm răng trắng bóng được. Còn bao nhiêu cậu mua bánh loại nhập cảng dùm, có thiếu tui sẽ trả thêm.
Vừa nói, cô Kiều nào cũng vừa liếc xéo Cẩm Hương, rồi nhìn nàng một cách soi mói, như muốn gây hấn làm nàng hoảng quá, phải rút lui lẩn vào buồng mình cho êm chuyện, với hai con người vô lý và thích khai chiến nây. Đôi lúc nàng nghĩ, nếu hai cô Kiều ngày nào không đâm thọc người nầy, nói xấu người kia, xỉa xói người nọ chăc hai cô sẽ ăn không vô, ngủ không ngon.
Có lần Thiện Cảm đến nhà Thiện Tố chơi trước khi chờ xe đi đám cưới người bạn ở Vĩnh Long tình cờ gặp Ánh Nguyệt đi Vĩnh Bình thăm bà con, trên đường về ghé qua thăm Cẩm Hương. Mới gặp Ánh Nguyệt lần đầu mà anh ta trổ mòi ve vãn rồi. Thiện Cảm có đẹp trai thiệt, nhưng không oai phong và cường tráng như Thiện Tố. Đây là thứ công tử bột, tốt mả rã đám.
Hôm nay cậu ta chải đầu láng bóng, mặc bộ com-lê bằng tít-so (tussor) màu ngà sậm thắt cà vạt đỏ, đi giày da màu nâu. Cườm tay mặt cậu đeo chiếc lắc vàng, ngón tay áp út bên mặt đeo hai chiếc nhẫn vàng. Cậu lại còn đeo đồng hồ trái quít, dây bằng vàng ló ra túi quần và gài ở bên hông chẳng khác Hắc, Bạch công tử. Ánh Nguyệt thấy hắn cứ rề rề nói chuyện hoài, và lúc nói chuyện với ai trong nhà cũng vậy, hễ chừng một chút là cặp mắt hắn đảo về phía nàng. Ánh Nguyệt thấy ghét quá, trề môi bảo Cẩm Hương:
– Tên nầy hôm nay quên đi đám cưới chắc?
Cẩm Hương cười:
– Mới gặp mà hắn như đã bị mầy hớp hồn rồi, còn biết đường nào nữa đâu mà đi!
Hôm đó, Cẩm Hương cũng có tiếp chuyện với Thiện Cảm, cậu ta khoe việc nuôi gà đá độ của mình. Cậu ta khoe đã đem gà đi đá ở Bến Tre, Vũng Tàu, Cần Thơ, Long Xuyên, Nha Trang… Lời nói cậu ta rổn rảng cố tình cho Ánh Nguyệt nghe, và mặt mày hiu hiu tự đắc bảo:
– Thằng em Thiện Tố của tôi trước đó lo cắm đầu cắm cổ học để lấy bằng cấp, nên chẳng đi đâu hết. Nó chỉ biêt có Sài Gòn thôi, đó là nhờ mấy dịp đi mua phụ tùng cho máy chà lúa. Giờ đây nó về Cai Lậy làm ruộng, trở lại cái cốt quê mùa. Người đời lấy thúng đựng gạo chớ ai lấy thúng đựng chữ bao giờ?
Ánh Nguyệt ngứa miệng:
– Vậy à? Nè anh Thiện Cảm, nếu tôi biết không lầm thì anh Thiện Tố lớn tuổi hơn anh, sao anh gọi anh Thiện Tố là em? Người Tàu không có cái kiểu lộn ngược vai vế như vậy đâu. Các con một cha ai lớn làm chị làm anh, còn ai nhỏ tuổi làm em dù là con dòng lớn cũng vậy.
Thiện Cảm cười hì hì, cãi:
– Tàu khác, mình khác chớ cô Nguyệt.
Ánh Nguyệt nghiêm mặt bảo:
– Nhưng cái tốt của dân tộc nào thì mình nên bắt chước. Còn cái hủ tục của dân tộc xứ mình thì nên tránh chớ.
Thiện Cảm nói rán:
– Nhưng thằng Thiện Tố và tui xưng hô như vậy lâu nay đã quen rồi. Giờ đổi cách xưng hô cả hai tránh sao khỏi nhột miệng. Vả lại tui không muốn má tui rầy tui nếu tui gọi nó bằng anh và xưng em.
Ánh Nguyệt cứng miệng, nhưng dịu giọng:
– Bà cụ cổ lỗ sỉ, thì anh phải cắt nghĩa cho bả hiểu. Hay thôi, nếu anh nhột miệng thì anh cùng anh Thiện Tố xưng nhau toa toa, moa moa cho tiện hơn.
o O o
Gần bốn tháng trong năm, Thiện Tố phải vào ruộng coi thợ thầy suốt mùa lúa chín. Sau mùa lúa anh mới trở về nhà mẹ, giúp mẹ chăm sóc những sinh hoạt hàng ngày của mẹ và đảm nhận chức quản lý nhà máy chà của cha. Thiện Tố cực khổ lắm mới đậu tú tài một. Năm sau anh học nửa chừng thì về gánh vác công việc làm ăn của cha chàng. Nhiều khi buồn cho phận mẹ con mình, không biết tỏ cùng ai, bà Tư Hiền tâm sự với Cẩm Hương:
– Cô giáo biết không? Thật tội nghiệp cho thằng Thiện Tố, nó là đứa con hiếu thảo, chớ như là một thanh niên trai trẻ khác thì không chịu bị lép vế như vậy đâu. Lúc nó đậu vào trường học lớn ở Mỹ Tho mà người ta gọi là cô-lây, cô-lết cô-lẹt gì đó ở Mỹ Tho (College Mỹ Tho) bác mừng rơi nước mắt. Biết thằng nhỏ thông minh học giỏi, theo lẽ má lớn nó mừng mới phải. Dè đâu bả mè nheo eo óc với ổng, bảo không cho nó đi học. Tội nghiệp thằng nhỏ khóc lóc và năn nỉ ổng cả tuần lễ ổng mới cho đi. Xuống Mỹ Tho thì hai con chị nó cũng đi theo học ở đó. Ổng mướn cái nhà, nghe đâu bên Giếng Nước ở Mỹ Tho cho mấy chị em ở đi học. Ai đời nó là con trai mà đi học về phải nấu cơm, phải rửa chén, quét nhà, xách nước… Coi như mọi thứ thằng em làm hết. Đã sung sướng mà không lo chăm chỉ học hành, hai con Kiều tối ngày đánh quần đánh áo, bạn bè rồi bạn bốn phương, rồi bồ bịch.
Bà Tư hớp ngụm nước, rồi nói tiếp:
– Bằng Thành Chung, hai y thị thi rớt 4 keo, sau đó lấy chồng cũng là cái thứ ăn chơi. Bà lớn và bên má chồng con Kiều Lan cho tụi nó tiền mở cửa tiệm bán vải ngoài chợ, bán đâu chưa được một năm sạch vốn lẫn lời. Bây giờ nó ở nhà nuôi hai đứa con và chồng nó làm tài phú cho ông dượng rể thẳng làm chủ. Sau đó thẳng được người cô ruột không có con, chết để lại gia tài cái lò gạch trên kinh Bà Bèo. Còn con Kiều Liên thì xin làm cô giáo dạy đâu trong ấp ở xã Long Tiên, đây đi vô khoảng hơn 3 cây số. Sau đó gả cho con trai út của bà chủ lò đường, bây giờ cũng kè kè 2 đứa rưởi con rồi.
Bà Tư nói đến đây chép miệng thở dài:
– Ông nhà tôi vô phước lắm cô ơi. Thằng Thiện Cảm thì sa vào tứ đổ tường. Ổng bả giao cho cái gì thì nó làm hư hết. Nó là đứa con cầu con khẩn của ổng bả đó. Lúc hai con chị nghỉ học, thì nó xuống ở với Thiện Tố đi học. Năm nào gần tới ngày thi bả cũng đi xin bùa, xin phép bắt Thiện Tố trước ngày thi phải đốt lấy tro pha nước cho nó uống để nó đi thi đậu.
Cẩm Hương không nhịn được, bật cười thành tiếng:
– Nhưng anh Thiện Cảm có thi đậu không bác?
Bà Tư Hiền trề môi:
– Đậu! Đậu cái khỉ khô chớ đậu gì cô ơi! Cái thằng đó làm biếng nhớt thây nhớt da thì đậu gì? Có tiên giáng phàm biến thành nó, thi dùm thì may ra nó mới đậu. Cô nghĩ coi có tức không? Thiện Cảm thi rớt, bả lại đỗ thừa và chửi Thiện Tố. Bả nói tại Thiện Tố không ưa con bả nên không chỉ dạy dùm. Thiệt đúng là “kẻ ăn mắm người khát nước”, vô duyên hết chỗ nói! Nay thì nó cũng đã cưới vợ rồi. Vợ nó là con ông ấp trưởng, tá điền của ổng bả. Lúc đầu má nó đâu có chịu, chê ỷ chê eo người ta là hạ cấp, nhà nghèo, là tá điền… không xứng với con bả. Thằng Thiện Cảm đòi bỏ nhà đi luôn bả mới chịu xuống nước. May cho nó, gặp con vợ biết điều lắm và có tài cầm chân được thằng chồng, nhờ vậy mà bây giờ nó mới chí thú làm ăn. Nhưng nó vẫn còn cái tật mèo chuột lung tung. Trong ba đứa con của bà lớn, có vợ chồng thằng nầy biết người lớn kẻ nhỏ, thương mến mẹ con tôi. Còn hai nàng Kiều chỏng chảnh đó lúc nào cũng chỉ lợi dụng con trai tôi, lâu lâu bắt thằng nhỏ làm thứ nầy, thứ kia cho chúng nó nữa. Tôi thấy ghét không cho con tôi làm, nhưng Thiện Tố nói: “Thôi má à, ảnh chỉ không biết mới nhờ con giúp… Làm một chút có mất mát chi đâu. Để con làm dùm họ mà..” Thiện Tố của tôi rất tốt bụng, nó không nhớ lúc xưa đi học bị hai ả đày ải mà thù, mà ghét.
Thằng nầy lúc nào cũng hòa nhã, tận lòng tận sức săn sóc nhà cửa, chăm lo công ăn việc làm cho ổng bả và hay giúp hai con chị ó đâm, gà mổ, té thùng đinh đó nữa!
Cẩm Hương mỉm cười ngượng ngập vì nghe bà bất ngờ phát ra lời nói chanh chua. Có lẽ nỗi uất ức trong lòng bị đè nén lâu ngày, nên hôm nay trong lúc tức giận bà không kềm được mới bộc phát ra chăng?
Cẩm Hương dịu dàng:
– Dầu sao họ cũng là chị em ruột thịt với nhau mà bác. Con bác tốt bụng thì Trời Phật sẽ thương tưởng và phù hộ cho ảnh.
Bác Tư tươi nét mặt ngay:
– Chèn ơi, cô nói đúng quá cô giáo. Tội nghiệp Thiện Tố của tôi, lúc còn ở chung, trong nhà món gì ngon, đồ gì quý, thứ gì tốt thì chị em con Kiều giành giựt hoặc cất giấu hết. Còn những thứ gì xấu xí, không ngon, thừa mứa thì mới đến mẹ con tôi. Có lẽ Ơn Trên biết được âm thầm giúp đỡ, nên nó đậu bằng Thành Chung xong, 2 năm sau nó đậu tú tài 1. Tôi mừng hết sức. Ba nó rất hãnh diện với bạn bè. Còn má lớn nó tuy lòng có phần ganh tị, nhưng đi đến đâu cũng đem ra khoe cái bằng tú tài của con trai tui.
Bỗng bác Tư trở giọng buồn:
– Chắc là mỗi con người đều có cái số cả cô giáo à. Thằng nhỏ đang học ngon trớn được hơn nửa năm, để mấy tháng nữa thi Tú Tài toàn phần ban toán, bỗng dưng ba nó lâm trọng bịnh tưởng đâu qua đời. Ổng gọi nó về giao hết chuyện làm ăn. Và má lớn nó cũng hết lời năn nỉ nó quản lý tài sản của ba nó. Thằng khù khờ vậy mà biết tính toán! Nó đặt điều kiện với ba và má lớn của nó, nếu muốn nó về gánh vác việc nhà thì phải để cho mẹ con tôi ra riêng. Nó không cần ổng bả phải sang nhượng giống gì về tài sản của ổng bả cho nó cả, mà hãy coi nó như một người làm công phải trả lương hẳn hòi. Trả công người quản lý cũ bao nhiêu thì trả cho nó bấy nhiêu. Lạy tạ Thượng Đế, từ đó mẹ con tôi mới được ra ở riêng. Tôi mới được thoát kiếp nạn làm tôi đòi cho vợ lớn và đám con của ổng đó chớ. Lúc trước nhiều lần mẹ con tôi xin ra riêng, bả đâu có cho.
Cẩm Hương tròn mắt:
– Tại sao vậy? Hai cô con gái lấy chồng còn cho ra riêng. Con bác cũng đã lớn rồi, tại sao họ không cho hai mẹ con bác ra riêng?
Bà Tư trả lời gọn hơ:
– Có gì lạ đâu cô giáo? Nếu mẹ con tôi đi rồi thì ai làm mọi khỏi trả lương mà còn tin cậy nữa cho bả! Từ hồi nào đến giờ trong mắt bả, mẹ con tôi có khác gì kẻ tôi đòi đâu. Ổng thì thương, sợ chúng tôi ra ngoài vất vả. Ổng thương mà hại mẹ con tôi. Thật đáng đời hết sức, mấy đứa con bả là lũ ăn hại, không ra gì hết.
Cẩm Hương an ủi:
– Cháu nghe nói có một nhóm giáo sư trường Pétrus Ký hiệp với nhóm giáo sư trường Chasseloup Loubat mờ lớp hàm thụ cho Tú Tài Phần Hai, ban Toán cũng như ban Triết. Người thông minh, tiến thủ như con bác thì lo gì không có ngày thi đậu phần học dở dang.
Bà Tư thở dài:
– Học bằng cách nào cũng phải có tiền. Má con tôi làm gì ra tiền đây?
Cẩm Hương nhấn giọng:
– Người hiền lương sẽ được trời giúp bác à.
Nói tới đây Cẩm Hương nhớ đến nhơn vật Phạm Công trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, Trần Minh trong truyện Trần Minh Khố Chuối. Họ đều nghèo mà hiếu học. Ban ngày họ làm rẫy, làm ruộng… Xong công việc là họ chăm chỉ học hành để có ngày đậu trạng ngươn. Còn các nho sĩ bên Tàu không có tiền mua dầu để đốt đèn học ban đêm. Họ bắt đom đóm nhốt trong chai, hay chờ trăng lên rọi trên tuyết để có ánh sáng đọc sách. Cho nên có thành ngữ ánh tuyết (ánh sáng của tuyết), và tụ huỳnh (tụ họp bầy đom đóm) để chỉ việc học hành khó khăn của học trò nghèo.
Nhưng ở trường hợp Thiện Tố thì không đến nổi nào, bà Tư Hiền có thể mua dầu lửa, hoặc nạo dừa thắng dầu đốt đèn cho con mình đọc sách đêm đêm. Và hàng tháng anh ta còn được lãnh lương làm quản lý máy chà của cha mình nữa. Tiếp tục học hay không là do anh ta thôi. Bởi: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Hôm nay Thiện Tố đi làm về sớm, nhưng mặt trời cũng sắp lặn rồi. Anh ta xách cái giỏ nằng nặng, vừa bước vào nhà thì hỏi mẹ:
– Nhà ăn cơm chưa má? Chào cô giáo.
Cẩm Hương chào lại. Bà Tư trả lời và hỏi con:
– Chưa, con xách cái giỏ gì đó?
Anh ta đưa giỏ cho mẹ:
– Lúc nãy trên đường về, con mua được 2 con cá lóc. Nướng trui cá đi má. Và trong giỏ có mấy trái vú sữa trắng của bà Tám hàng xáo cho nữa.
Bá Tư tươi cười, nhìn con thương mến, xách cái giỏ xuống nhà bếp. Thiện Tố chợt hỏi Cẩm Hương:
– Cuối tháng còn những 2 tuần nữa, cô có về thăm nhà không cô Cẩm Hương?
Cẩm Hương nhìn Thiện Tố dò xét, hỏi lại:
– Dạ không, chắc là giữa tháng tới về luôn, vì lúc đó hai em tôi có hẹn cùng về thăm nhà, lâu lắm rồi chị em tôi chưa gặp nhau. Mà sao anh hỏi vậy?
Thiện Tố mắt sáng rỡ, nhìn Cẩm Hương cười nhẹ, nói:
– Cuối tuần đó, tôi có người bạn rất thân học chung từ năm Đệ nhất niên đến năm chót ban trung học Thành Chung. Tôi bỏ học ngang xương, còn anh ta lấy phần hai xong ra Hà Nội học trường Y Khoa. Ra trường anh được bổ về làm ở nhà thương Chú Hỏa. Mấy tháng trước ảnh đi công tác, tiện dịp có ghé thăm tôi. Và ảnh cho biết đã đính hôn với con gái của chủ tiệm buôn tơ lụa. Hôm qua được thiệp mời đám cưới của ảnh. Nếu cô không chê người bạn quê mùa nầy, tôi xin mạo muội mời cô cùng đi dự tiệc cưới đó, và sẵn dịp sẽ đưa cô đi thăm một vài thắng cảnh Mỹ Tho. Cô nghĩ thế nào?
Cặp mắt anh ta thành khẩn nhìn Cẩm Hương, như sợ nàng từ chối, rồi nhanh miệng anh bảo tiếp:
– Cô không phải trả lời tôi hôm nay. Mai mốt cũng được.
Cẩm Hương nhẹ giọng:
– Cảm ơn anh, để tôi suy nghĩ lại rồi sẽ trả lời anh sau.
Cẩm Hương về đây dạy học mới có dịp chuyện trò với người thanh niên xa lạ là Thiện Tố, con trai bà chủ nhà trọ nầy. Suốt 4 năm trung học, rồi mấy năm sư phạm nàng không có bạn trai tri kỷ. Chỉ có mấy anh chàng lóc nhóc ba hoa chích chòe học chung. Họ hay trêu ghẹo, chọc quê, quấy phá làm nàng ghét nhiều hơn ưa. Má nàng thấy con lớn cũng có mấy chỗ gắm ghé, nhưng không chỗ nào con mình vừa ý. Bà thường phàn nàn tại con gái mình có hai thằng em trai, cứ chơi với em nên tánh tình nó giống như con trai… Nàng nghĩ: “Chắc là không phải vậy đâu, chỉ tại con gái của mẹ xấu xí, ít nói, không thích giao thiệp và chưa có ai đế ý đến cô ta đấy thôi..”
Ưu điểm của Thiên Tố là hiếu thảo với mẹ cha, thương mến anh chị, biết điều với họ hàng, tử tế với xóm chòm những người chung quanh và nhứt là không có tánh ích kỷ, nhỏ mọn, không hay coi thường kẻ giúp việc cho mình. Cho nên chàng đã gây sự thiện cảm cho Cẩm Hương. Lúc chàng đang ăn cơm, hay đang làm việc gì của mình còn dang dở, khi nghe ba hay má lớn gọi là lật đật thu xếp đến ngay. Mặc dù chàng cũng thừa biết vợ lớn của ba chàng không thật lòng thương mến mẹ con chàng, nhưng chàng không so đo, đôi lúc còn khuyên mẹ mình: “Má đừng để ý mà giận hờn má lớn làm chi. Má con mình không sống chung với bả nữa, bả cũng có tuổi, nay đau mai yếu… Cái khổ tâm lớn nhứt của con người là bị lương tâm dầy vò vì việc làm sai trái của mình trước kia mà bây giờ không sao xóa nhòa hoặc đền bù hết được!”.
Thiện Tố chẳng có gì quý ngoài những sách học năm xưa và mấy chiếc kệ đầy ắp tạp chí, tiểu thuyết truyện dài, truyện ngắn của các tác giả xưa, tác giả hiện đại, và sách giáo khoa, kinh Phật, báo chí… Mỗi ngày đi làm về, anh ghé qua tiệm bán sách vở báo chí để lấy báo đã đặt mua dài hạn. Trên bàn ăn, anh thường kể với mẹ những chuyện xảy ra trong ngày mà anh nghe thấy, hoặc kể lại những tin tức đọc trên báo chí. Lúc đầu, mới ăn cơm tháng nhà bà Tư, ăn xong có khi Cẩm Hương phụ bà Tư rửa chén, rồi rút vào phòng làm công việc của mình, nghỉ ngơi, đọc sách… Dần dà sau đó nàng ngồi lại góp chuyện với Thiện Tố, hoặc tranh luận vài vấn đề thời sự theo sự hiểu biết và cảm nhận của mình.
Trong bình phẩm, tranh luận nàng nhận xét Thiện Tố là người rất thông hiểu và lịch lãm chuyện đời hơn những chàng thanh niên ở lứa tuổi anh ta. Thỉnh thoảng đi làm về anh ta đem cho nàng mấy trái cốc chín cây, chùm mận da người, khi thì vài trái ổi chua, mấy cành huệ trắng hoặc mấy nhánh bông cẩm nhung, bông trang, hay bông điệp ta… anh đã cắt về từ bên vườn của ba anh để Cẩm Hương cặm vào bình bông đặt tại cửa sổ, trong phòng mình.
Có những tối cuối tuần, ba người hay ngồi sau nhà ăn chè khoai lang, nấu với bột khoai bằng đường thốt nốt nồng nàn mùi gừng nổi vân trong nước chè. Có khi họ ăn chuối chưng, kẹo đậu phọng, cốm chuồi… uống nước trà. Và lúc nào bà Tư cũng đi ngủ sớm. Cẩm Hương và Thiện Tố thường hay nói chuyện cho tới khuya lơ mới đi ngủ.
Có đêm anh cảm khái trước vầng trăng rằm treo ngạo nghễ tỏa ánh sáng êm dịu xuống trần gian, những căn nhà sàn bên kia bờ in bóng trong gương nước lung linh. Gió dìu dịu mát rượi thổi quanh nhà. Trên cây mận ở sân trước, bỗng tiếng chim kêu oang oác rồi cả bầy bay bổng lên không gian, chí cha chí chóe rượt bắt, bay lượn giỡn trăng, bóng mờ mờ ảo ảo chập chờn. Bên kia sông hướng qua cồn là những vườn cây ăn trái và hướng ra Long Tiên, Long Khánh là một dải ruộng lúa bát ngát, đang trổ đòng đòng. Lả lơi ngã theo chiều gió, những bóng cây rậm rạp dọc theo bờ mẫu ngoằn ngoèo gồm đám cây gáo, cây gừa, cây trâm bầu. Nền trời đêm chi chit những vì sao, e thẹn chớp chớp trước vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy của vầng trăng.
Thiện Tố vào lấy đờn ghi-ta ra khảy chậm chậm và hát một mình. Anh có giọng thanh tao óng ả như ca sĩ Tino Rossi. Thời buổi giao thời nầy, các học sinh trung học, các sinh viên thường ưa hát các bản nhạc do Tino Rossi hát trong dĩa nhạc. Giàn nhạc trong các gánh cải lương trước khi mở màn cũng đánh bài lừng danh C’est à Capri (Đây Là Đảo Capri) do Tino Rossi hát. Cả những người lao động cũng hát hoặc huýt sáo theo điệu nhạc các ca khúc Tino Rossi hát.
Giọng hát của Thiện Tố đã ấm mà làn hơi lại dài, lên cao xuống thấp dễ như uống nước, như húp canh khoai mỡ, khoai từ. Mấy nhỏ Thục An, Thụy Châu, Ái Mỹ, Ánh Nguyệt khi lên năm thứ hai (Đệ nhị niên) chương trình Thành Chung thì bắt đầu viết nhựt ký, viết lưu bút ngày xanh, tập hát nhạc Pháp lời Pháp. Con nào cũng thích ém giọng hát cổ họng cho giọng thiệt trong. Còn nhỏ Ánh Nguyệt thì kéo dài giọng để giọng gợn lên một vài lượn sóng lăn tăn. Bạn bè chọc ghẹo đổ hô là nhỏ tập làm ca sĩ.
Hai bà chị của Thiện Tố, nghe nói cũng tập hát vài bài hát nhạc Pháp lời Pháp cho có vẻ văn minh tân thời. Ngặt một nỗi giọng của họ chua như khế tàu, chát như chuối non, như sung non. Cẩm Hương chưa nghe họ hát, chưa thấy họ diễn tả nét mặt theo giọng hát ra sao, nhưng nàng thừa biết cục điệu của họ bự đến cỡ nào khi họ hát nghêu ngao.
Còn Thiện Cảm có cái giọng ấm áp như giọng của ca sĩ Jean Sablon nên hát bài “Tabou” rất ngọt. Bài nầy có phổ lời Việt, và đã được nữ nghệ sĩ Kim Thoa hát trong dĩa Béka. Ngoài ra, Thiện Cảm bắt chước nam danh ca Bảy Cao hát 20 câu Vọng cổ trong cặp dĩa hảng Pathé “Viếng Mồ Bạn” cũng mùi mẫn thâm xương lắm
Thiện Tố bảo với bạn bè:
– Có lẽ “ông anh” tôi có chút máu nghệ sĩ nào đó trong huyết quản chăng? Ảnh học dở, nhưng ăn mặc lịch lãm, hát có hồn, lại còn viết văn có bút pháp tươi đẹp. Ảnh phải là nhà văn, nếu chê nghề hát xướng.
Vợ của Thiện Cảm có lần nói với bà Tư Hiền:
– Dì Tư à, chị Kiều Lan có cái miệng hay nói hành nói tỏi người ta nên mang cái hổn danh là Kiều Tâu. Còn chị Kiều Liên có một thuở con ông bang Tiêu (tức là bang Triều Châu) đi hỏi làm vợ, chòm xóm ghét tật xí xọn của chị nên đặt cho cái hổn danh là Kiều Tặc, nói lái cả hai cái hổn danh của hai chỉ nghe kỳ cục tục tĩu, bẩn thỉu ác ôn lắm. Dì Tư có biết người ta nói như vậy không? Hôm đám cưới tụi con, anh Thiện Cảm mê hát xướng, nên có phần văn nghệ. Con nhớ lúc đó người lớn mệt mỏi đi ngủ hết, chỉ còn bọn nhỏ thanh niên trai tráng chúng con cũng hơn 30 người. Nồi đất nồi đồng ơi! Hai bả hát nhạc Tây, lời Tây nghe khổ cái lỗ tai muốn chết vậy đó dì Tư.
Tố khổ hai bà chị chồng với bà dì ghẻ của chồng xong, cô ta cười ngặt ngoẻo có vẻ khoái chí lắm. Giờ đây nghe Thiện Tố hát, Cẩm Hương cảm thấy giọng chàng mỏng, dẻo và thanh tao như giọng Tino Rossi, nhưng sao mà buồn quá. Nàng hỏi:
– Bộ anh có tâm sự hay thất tình sao?
Những ngón tay thon dài của chàng vẫn lanh lẹ bấm phím và khảy đàn, chàng ngẫng đầu nhìn nàng dịu giọng hỏi:
– Bộ Cẩm Hương thấy tôi có ẩn tình?
Cẩm Hương cười nhẹ, đôi mắt mơ màng nhìn trời xa:
– Không biết, nhưng nghe giọng hát anh thê thiết quá, tôi thuận miệng hỏi vậy thôi mà.
Thiện Tố cười thành tiếng:
– Vậy sao? Người ta nói phái nữ có những ý tưởng phong phú và nhạy bén, thiệt chẳng ngoa chút nào cả. Tôi cũng đang muốn có người làm mình thất tình lắm đây!
Cẩm Hương thấy mình vô duyên và Thiện Tố đáng ghét! Nàng làm thinh bỏ vào phòng đóng sầm cửa lại, cảm thấy lòng nao nao hờn giận nhưng không biết hờn gì, và giận ai?
Thỉnh thoảng Thiện Tố đi Sài Gòn lấy đồ phụ tùng cho nhà máy chà. Có khi chàng đi giao dịch chịu mối lái việc lúa thóc cho cha ở các tỉnh lân cận. Lúc trở về, chàng thường mua cho nàng những vật kỷ niệm, bánh, trái, hoặc những đặc sản ở vùng đó. Lúc đầu Cẩm Hương coi những tặng vật anh ta cho rất bình thường, cứ nhìn qua nhìn lại rồi thảy vào thùng chứa đồ, ít khi nàng dùng tới hoặc lấy ra xem lại. Đôi khi, chàng còn mua tặng cuốn sách của văn sĩ Pháp mới được phiên dịch… Và gần đây mỗi khi bà Tư nấu cơm chiều hình như cố tình nấu trễ để con trai bà cùng về ăn chung luôn. Cuối tuần rồi Cẩm Hương theo bà đi cúng vía lăng Tứ Kiệt nơi thờ phượng 4 vị Thần của Cai Lậy mà người dân ở đây sùng bái, đồn đãi là rất linh thiêng, cầu gì có nấy. Trên đường về, bà hỏi Cẩm Hương:
– Hồi nãy cô có vào bên trong cúng không cô giáo?
Nàng cười nhẹ:
– Bên trong đông quá, chen chân không lọt, nên cháu không có vô. Nhưng cháu cũng thầm cầu xin cho ba má và các em được khỏe mạnh.
Bà cũng tâm sự:
– Dạo nầy trở gió trái trời thì ông nhà tôi hay đau yếu. Tôi nguyện cầu cho việc làm ăn của ổng phát đạt và khỏe mạnh để nhìn thấy thằng con ổng nên gia thất và ổng có dịp bồng cháu nội… Tôi cũng cầu xin cho thằng Thiện Tố tìm gặp được cô gái biết điều, hiền lương để mà nương tựa sống đời với nhau. Thằng con tôi tốt mà gặp người vợ không ra gì thì tội nghiệp cho nó lắm…
Lúc từ lăng Tứ Kiệt về, bà Tư dắt Cẩm Hường đi con đường khác cặp theo mé sông, qua ngang nhà máy chà lúa của chồng, mà thằng con bà đang làm việc trong đó.
Gần tới nhà máy, họ đã nghe tiếng máy chạy đều đều, xập xình rầm rập. Và họ thấy ngay ống tròn bằng nhôm nhả từng đợt khói ra ngoài. Nhà máy chà lúa Phú Long được cất trên một khoảng đất rộng bề ngang, sâu chiều dài. Mái lợp tôn, nền tráng xi-măng. Đường xi-măng chạy từ cửa lớn đến cầu đá cột đúc bắc nối liền từ bờ sông ra tận ngoài bãi sình non dài chấm mực nước sông bình thường. Sở dĩ họ bắc cầu dài như vậy là phòng khi nước kém tàu ghe chở lúa không cặp sát bờ được. Những người phu khuân vác cho máy chà dùng cây cầu nầy để khuân gạo đã chà xong xuống ghe, và vác lúa từ ghe, từ xuồng lên nhà máy chà. Họ đang lăng xăng đi lại trên cầu không ngừng. Dưới bến nhà máy chà có mấy chục chiếc vừa xuồng ba lá, vừa ghe tam bản và những ghe chài lớn chở nhiều lúa đem chà thành gạo để đi bỏ mối cho các vựa chợ, và các người bán lẻ…
Bên phải và bên trái trước sân máy chà là hai hàng dọc bán bánh trái, thức ăn, nước uống. Có xe ép nước mía bán tại chỗ. Có sạp mái thấp treo lủng lẳng nào bánh tét, bánh ú, bánh dừa. Xe bán nước đá bào, gánh sương sa hột lựu, gánh bánh canh tôm, gánh bánh mì xíu mại, kế gánh bán tàu hủ bánh lọt… Những hàng quán trước máy chà, bán thức ăn cho những người làm việc ở đây, cho những người ở xa lỡ bữa đói bụng, khát nước vì phải chờ đợi lâu mới tới phiên lúa mình đưa vào máy chà.
Vừa đến cửa lớn, bà Tư và Cẩm Hương gặp hai chị em Kiều Lan và Kiều Liên, Cẩm Hương lịch sự khẽ chào họ. Kiều Lan niềm nỡ:
– Ủa cô giáo! Cô từ đâu lại đây?
Kiều Liên nhếch môi, cười cười:
– Mấy thuở rồng đến nhà tôm!
Cẩm Hương khó chịu! Lạ lùng thiệt, mình không quen thân, cũng không chọc ghẹo hay làm gì mích lòng họ. Tại sao hễ thấy mình thì hai ả luôn nói bóng nói gió, và lúc nào miệng lưỡi họ cũng đầy nọc độc và gai nhọn. Nhưng nàng vẫn giữ lịch sự nhẹ giọng:
– Tôi theo bác Tư đi lăng Tứ Kiệt rồi ghé qua
Hôm nay Kiều Lan mặc áo gấm đỏ, tai đeo bông cẩm thạch tiền điếu nhận nhụy vàng, cổ đeo dây chuyền vàng khè. Còn Kiều Liên mặc áo nhung xanh lông két, đeo bông tòn teng cẩn hột hồng ngọc, đeo vòng tay chạm bát bửu. Hai cô đều ăn mặc nửa cổ, nửa kim.
Kiều Lan liếc xéo Cẩm Hương, mai mỉa:
– Từ khi cô giáo về đây dạy học ở trọ nhà dì Tư, thì thằng em tôi đổi tánh ít nhiều. Hễ có dư chút ít thời giờ là nó bươn bả về thăm nhà liền. Cô thử khuyên nó dùm chị em tui nghen cô. Nó phải lo làm ăn, bớt đi dìa nhà để ba tụi tui dạy việc cho nó chớ.
Kiều Liên xóc óc, bồi thêm:
– Tui coi bộ trai tráng ở đây đều bơ ngơ báo ngáo như con ốc mượn hồn từ khi cô về đây. Cô đẹp quá, lại có học nữa, nên trai tráng không điêu đứng sao được!
Nói xong, hai mụ cười hăng hắc và bỏ đi về phía chợ. Thật vô duyên hết chỗ nói! Bà Tư và Cẩm Hương ngơ ngẩn ngó theo. Chợt bà chép miệng, lên tiếng:
– Hai con Kiều ăn nói khó nghe nên chị Hai Muôn và chị Sáu Cư gọi tụi nó là con Nhền Nhện Cái, và con Hổ Cáp Cái. Thấy cô tươi tốt, đàng hoàng, học giỏi hơn nên chúng nó ganh tỵ ăn nói thiệt là chết gian âm đức. Thôi, bỏ qua đi cô giáo. Chấp nhứt tụi nó làm chi cho thêm phiền lòng mệt dạ.
Bà Tư rẽ vào nhà máy trước. Hôm nay đi lễ đền nên bà ăn mặc tươm tất. Đầu bà đội chiếc khăn sạt màu măng cụt có những chấm tròn màu lam điểm trên nền hàng. Quần bà bằng lãnh mặt đệm đen, mới giặt mấy nước nên chưa dịu mình. Áo bà ba lụa Hà Đông của bà màu trắng ngà, mang dép da quai nâu, mắt mang kiếng lão. Dáng bà roi roi, không mập phì, cũng không ốm teo. Sắc diện nầy nói lên thời son trẻ bà cũng làm điêu đứng không ít những chàng trai trẻ đương thời.
Cẩm Hương mặc áo bà ba cổ bà lai bằng xoa Pháp màu thiên thanh, quần sa-teng có rô-đê ở lai, chân mang dép da quai chéo màu nâu sậm. Tóc nàng kẹp gọn về phía sau khuất trong vành chiếc nón lá bài thơ. Vài người làm công lễ phép chào bà Tư và có vẻ tò mò chào Cẩm Hương. Nàng chào lại, rồi rảo mắt nhìn quanh.
Những dãy máy móc để chà lúa chạy theo dây chuyền cái nầy nối tiếp cái kia. Gần nửa nhà máy từ ngoài cửa bước vô trong, họ dùng bao bố tời, bao vải dầy (thường để đựng bột mì), thúng giạ, thúng giê đựng đầy lúa, được chất chồng lên nhau từng khúm, từng khúm lớn nhỏ tùy theo lúa đem chà nhiều hay ít.
Người chủ những bao lúa chất đống đó, đang ngồi chờ đợi gọi đến số của mình. Khi được gọi đến số, thì mấy phu khuân vác trong máy chà, lanh lẹ vác lúa đi lên cây cầu ván bắc từ nền nhà lên cao hơn cối. Đến miệng cối, họ lanh lẹ mở bao, đổ ào lúa vào. Lúa theo máy chạy trong những máng bằng nhôm. Ai muốn có gạo lức thì mở hộc cho gạo lức chạy ra. Ai muốn lấy hết gạo trắng thì đóng kín chỗ hộc gạo lức chờ gạo lức qua máy chà trắng gạo thì lấy bao, hoặc lấy thúng mà hứng. Có những ống thiếc dẫn cho tấm tuôn ra, có ống cho cám nhuyễn, có ống cho cám to… Còn trấu thì theo ống ra phía ngoài vách, bên hông của nhà máy chà.
– Cô làm gì mà nhìn chăm chú dữ vậy cô giáo?
Cẩm Hương quay lại chào Thiện Tố. Nàng đâm ngượng vì bao nhiêu cặp mắt của những người ngôi chờ chà lúa và nhân công, đổ dồn về nhìn nàng và anh ta đang đứng kế bên. Cẩm Hương chưa kịp trả lời thì Thiện Tố cười cười, nhìn nàng hỏi tiếp:
– Ngọn gió nào đưa cô đến đây vậy? Bộ cô định ăn cắp nghề để cho tôi mất việc phải không? Cô phục sức như vầy giống thôn nữ hơn giống cô giáo.
Cẩm Hương cười mỉm:
– Hôm nay tôi theo bác đi cúng đền về. Bác ghé đây, tôi phải ghé theo.
Chàng nhìn Cẩm Hương, cặp mắt sáng ngời, nụ cười hóm hỉnh, dịu giọng:
– Sao cô hà tiện lời nói quá vậy? Trong lòng nghĩ sao không biết, nhưng cô cứ nói đại là đến thăm tôi, như vậy có phải tốt hơn không?
Cẩm Hương cụt ngủn:
– Không tốt!
Thiện Tố dai như đĩa:
-Tại sao không tốt?
Nàng vừa đi chầm chậm trở ra, vừa nói:
– Tại tôi không biết nói láo như anh!
Thiện Tố cười thành tiếng:
– Bộ cô giận tôi hả? Xin lỗi nghen, tôi nói giỡn mà. Mời cô vô phòng cho đỡ ồn ào vì tiếng máy chạy như ngoài nầy. Má tôi đang ngồi trong đó.
Cẩm Hương không nói gì, nhưng nàng chợt e thẹn như có một làn hơi ấm len lén vào hồn. Bỗng dưới bến có giọng hò trong trẻo lanh lảnh của một cô thiếu nữ vang lên:
“…Hò ơ…Bởi em đây còn ngại
Xin anh thề lại kẻo em lo
Nếu anh lòng dạ quanh co
Hò ơ…Hùm nhai sấu táp chết cho xong đời “
Mọi người chắc lưỡi hít hà khen giọng hò đã ngọt, hơi dài mà lời hò lại hay ho. Một ông xồn xồn vác bỏ bao lúa xuống gần đó, kéo khăn vừa lau mồ hôi trán, vừa bảo Thiện Tố:
– Cậu Năm, cậu có ăn học, văn hay chữ tốt, cậu hò đáp lại, sửa lưng con Chín Hàng Xáo đi cậu. Tự bấy lâu nay, nó tự cao, tự đại, chẳng coi người khác hò ra gì ráo.
Thiện Tố nở nụ cười tươi hơn nắng vàng, nheo mắt với Cẩm Hương rồi cất giọng sang sảng:
“… Hò ơ… Xin cô em chớ ngại
Qua xin thề lại cho em mừng
Nếu qua đây mê Tấn phụ Tần
Xuống sông cọp bắt, lên rừng sấu nhai
Hò ơ…Nếu qua thề ẩu, nói sai
Qua vô tiệm nước ních hai tô mì”.
Mọi người cười rộ lên và vỗ tay hoan hô Thiện Tố trước cái mỉm cười nhẹ của Cẩm Hương.
Bà Tư và Cẩm Hương ở chơi một hồi thì ra về, sau khi mỗi người uống một ly nước mía có pha trái tắc thơm ngọt thanh thao, mát lòng mát dạ.
Đợi Cẩm Hương tan trường, hai người đi chuyến xe cuối ngày. Xe ghé bến Mỹ Tho thì thành phố đã lên đèn. Nhà bạn của Thiện Tố nằm trên đường ra bến bắc Rạch Miểu về Bến Tre. Không xa bến xe ngựa, chỉ qua 2 đoạn đường ngắn thì tới, nên họ đi bộ.
Thiện Tố biết Cẩm Hương đã bị kiến cắn bụng, vì sợ trễ chuyến xe chót nên khi Cẩm Hương về đến nhà thay đồ, thì hai người ra xe đi ngay, chưa ăn uống gì cả.
Bà Ninh, mẹ của Cương mừng rỡ gặp lại Thiện Tố. Bà niềm nỡ nói:
– Mời hai cháu vào nhà. Thằng Cương trông cháu từ sáng đến giờ, nó vừa qua bên nhà đưa vợ đi mua lồng đèn, cặp hồng lạp, có lẽ tối lắm mới về. Hai cháu đem đồ vào phòng trong đi, rửa mặt cho khỏe, rồi ra ăn cơm.
Cẩm Hương e thẹn chào bà Ninh. Thiện Tố cũng vui vẻ, tươi cười nói với bà:
– Thưa bác đây là cô Cẩm Hương bạn của cháu. Xin bác khỏi dọn cơm bác à. Cháu sẽ đưa cô ấy đi dạo phố đêm Mỹ Tho cho biết và sẽ ăn tối ngoài tiệm luôn. Ăn xong cháu đưa cổ trở về đây. Cháu đến nhà thằng Tâm ngủ, sáng cùng nó qua sớm.
Bà má của Cương ngăn:
– Không được, cháu phải về đây ngủ, nhà còn thiếu gì chỗ. Để cổ ngủ trong phòng, cháu qua ngủ với thằng Cương. Cháu biết không? Từ sáng sớm là thằng con của bác đã mong cháu rồi. Cháu mà đi chỗ khác là không được với nó đâu. Hai cháu cứ tự nhiên đi chơi xong thì về đây nghen, đừng có ngại chi hết.
Thành phố về đêm nơi nào cũng đẹp. Nhưng Mỹ Tho có nhiều điểm khác biệt hơn những nơi khác. Cẩm Hương đêm nay mặc chiếc áo dài màu hoàng yến, mái tóc mây dài, đen huyền xõa xuống nửa lưng. Dáng cô mảnh khảnh, khuôn mặt điềm đạm, nước da trắng mịn. Trong đôi mắt tròn to và đen đó, có nét nhìn bỡ ngỡ ngại ngùng. Tánh tình cô lại ôn hòa, nhỏ nhẹ, lắng nghe người ta nói hơn cô nói. Tiếp chuyện với cô lần đầu ai cũng đều cảm nhận cô rất dễ thương và có duyên ngầm. Tà áo dài màu hoàng yến của cô bay bay trong gió. Cô nhẹ nhàng tha thướt bước từng bước châm chậm đi bên Thiện Tố. Họ sắp qua đường sau trường trung học Le Myre de Villers. Bỗng Thiện Tố nắm kéo tay cô dừng lại. Cô giựt mình, bị mất thăng bằng thiếu điều muốn chúi nhủi vào người anh ta. Cẩm Hương còn đang ngơ ngác thì nghe tiếng gọi lớn:
– Thiện Tố! Có phải toa đó không? Moa đây! Thiện Cảm đây nè!
Cả hai chợt thấy từ xe mì hủ tíu của ông già Tàu, Thiện Cảm bước ra. Cậu vẫn ăn mặc chải chuốt. Tóc chải láng bóng, cùng mùi dầu thơm Pompéa nực nồng. Bộ com-lê của cậu bằng ga-bạt-đinh màu cà-phê sữa. Mèn ơi, trời đêm nực nội, đi đâu mà cậu diện áo quần dầy cui vậy cà? Ủa, hôm nay cậu còn xưng hô mỏa mỏa, toa toa với Thiện Tố nữa. Bộ cậu ta đổi dùng tiếng Tây với “người em” khác mẹ của cậu ta hay sao? Riêng Cẩm Hương nhớ lời bắt bẻ xí xọn của con Ánh Nguyệt về cách xưng hô tréo hèo của Thiện Cảm mấy tuần trước. Nàng cười chúm chím một mình. Có phải Thiện Cảm phục thiện hay muốn lấy lòng Ánh Nguyệt?
Thiện Tố vui vẻ:
– Anh Thiện Cảm đi dạo phố một mình hay sao?
– Moa vừa tiễn thằng bạn về Bến Tranh. Hết xe hơi rồi, nên nó đi xe thổ mộ về nhà. À nè Tố, bây giờ là thời đại mới rồi, mình cứ xưng hô với nhau, toa toa, moa moa cho vui! Moa trẻ tuổi hơn toa mà bị toa gọi moa bằng anh, moa cảm thấy mình già háp.
Thiện Tố vỗ vai Thiện Cảm:
– Tùy toa, miễn sao toa vui thì thôi.
Thiện Cảm chợt nhớ, dặn dò:
– Nhưng trước mặt người lớn trong nhà nhứt là má, tụi mình nhớ giữ xưng hô như trước nghen.
Đứng bên Thiện Tố nãy giờ, Cẩm Hương làm thinh, để anh em họ nói chuyện. Mắt nàng lơ đãng nhìn những ngọn đèn đường vàng úa. Khi đôi bên chia tay, Thiện Tố ngậm ngùi bảo Cẩm Hương:
– Thiện Cảm không phải là người xấu. Nhưng bên ba má lớn và dòng họ bên nội tôi cưng hắn quá quắc nên trước kia hắn hư thân, lười học, biếng việc, cứ lo đá banh, đá gà, theo gái…. Đối với tôi hắn không xéo xắt, cũng không thân mật. Riêng tôi, tôi thương hắn như đứa em nhỏ. Hắn không từ chối sự săn sóc chiều chuộng của tôi. Có việc nan giải hắn cầu cứu tôi, hỏi ý kiến tôi và làm theo tôi. Nhưng tôi biết, không bao giờ hắn coi tôi như ruột thịt!
Thiện Tố đưa Cẩm Hương đến tiệm ăn Hồng Ký, cái tên nửa Tàu nửa Việt ghép từ tên hai thằng con trai của ông bà chủ, chồng Tàu vợ Việt. Nên ở đây có bán mì, hoành thánh, hủ tíu, những món ăn Tàu khác, và có cả những món ăn Việt Nam như bún tôm nướng, cơm dĩa, cơm phần với canh chua, cá kho tộ… Quán tọa lạc trên nửa phần đất, và nửa phần cất sàn gie ngoài bờ sông. Thiện Tố lựa chỗ ngồi bên ngoài để ngắm cảnh về đêm trên một khúc nhánh phụ lưu của sông Cửu Long ở tầm mắt của họ, từ vàm Bảo Định chạy dài đến bến Tắm Ngựa.
Ngày nào cũng ăn cơm, hôm nay hai người gọi mì hoành thánh ăn cho lạ miệng. Dòng sông Bảo Định nước lửng lờ chảy ra vàm qua xóm hướng về bến Tắm Ngựa, nhà cửa san sát, cái cao cái thấp, chỗ lồi, chỗ lõm tùy theo quanh co của bờ, và cái nhà nào cũng xây cất gie chồm ra sông.
Đèn đuốc rọi sáng trung trên các cây cầu ván. Ghe nầy kế tiếp ghe kia, chen chúc kẻ khiêng người vác, kẻ bán người mua… Quang cảnh xóm Vựa hoạt động ồn ào, náo nhiệt không mỏi mệt, không ngừng nghỉ. Trái ngược lại, bên kia sông là cồn Rồng. Đó là một dãy âm u mờ ảo vói bóng những cây ăn trái trên đât cồn và cây bần dầy đặc ở bãi bùn. Trước năm 1954, Cồn Rồng dành riêng biệt cho người cùi, có trại cùi và nhà thương chữa trị bịnh cho họ. Nhưng đến thời Đệ Nhứt Cộng Hòa (thời chánh phủ Ngô Đình Diệm) những người bị bịnh cùi được đưa về Cái Sắn.
Dọc theo bờ lác đác những chiếc xuồng câu tôm le lói ngọn đèn bão. Không ai sắp bày mà ở giữa dòng sông đến bên nầy, phía vườn hoa thì những ghe hai chèo đưa khách dạo phố đêm. Lềnh đặc những xuồng, ghe nhỏ xuôi ngược bán bánh, trái, thức ăn mặn, thức ăn ngọt, các loại nước uống cho khách du ngoạn trên sông ngắm thành phố Mỹ Tho về đêm, ngắm trăng sao, ngắm dòng nước Cửu Long xuôi chảy…
Khi vừa bước ra khỏi tiệm ăn, cả hai lại gặp hai cô Kiều. Cẩm Hương quá đổi ngạc nhiên, nàng sực nhớ đến lời của Ánh Nguyệt: “Hễ nhắc đến vàng bạc, tiền của thì kiếm đỏ con mắt cũng không gặp. Còn nhắc tới cứt chó, hoặc người mình không thèm ngó thì gặp hoài hoài…”
Thiệt tình thì Cẩm Hương cũng muốn làm thân với “Kiều Tâu” lẫn “Kiều Tặc” nầy, ngặt nỗi họ không để cho nàng có dịp cảm tình. Cái mặt khinh khỉnh, giọng nói trịch thượng của họ đã vét nạo hết mỹ cảm, thiện cảm của nàng khi nàng gặp mặt họ.
Đêm nay cô chị mặc áo dài rằn ri bông tím, bông vàng, bông đỏ chen lá xanh. Cô em mặc áo dài bằng hàng Thượng Hải màu hột gà thêu bông lam, bông hồng chen lá xanh, lá lục, bằng chỉ tơ. Hai chị em đeo nữ trang bừa bộn, nào ngọc trai, ngọc thạch, hột xoàn chớp nhoáng dưới ánh đèn. Họ giống như các hình nộm chưng nữ trang ở các tiệm kim hoàn lớn.
Thiện Tố ân cần hỏi:
– Ủa, hai chị giờ nay còn chưa về Cai Lậy sao?
Kiều Lan liếc Cẩm Hương soi bói như có ý bảo: “Đã bắt gặp bọn bây đưa đi du hí du thực rồi”. Nàng ta nói:
– Chị em tui đêm nay ngủ nhà cô Tư của tụi mình bên Chợ Cũ. Để mai đi dự lễ cưới cô bạn Liễu Oanh, con ông Bang Biện Tạ Kỳ Nam, ngày xưa ở Chợ Gạo. Ờ, còn ban đêm ban hôm sao hai người làm gì còn ở đây mà chưa chịu về?
Thiện Tố bảo:
– Tụi nay cũng đi dự lễ cưới cô Liễu Oanh, nhưng ở bên họ nhà trai.
Kiều Liên làm ra vẻ tiếc rẻ chắc lưỡi:
– Cô Liễu Oanh đẹp như phụng múa loan xòe. Hồi xưa ba định đi hỏi cô ta cho cậu. Cậu mà cưới cô ta thì như chuột sa hủ nếp. Ngoài ruộng đất bề bề làm của hồi môn, ông bà Bang Biện còn tặng cái tiệm bán tơ lụa kế bên rạp hát thầy Năm Tú nữa. Chưa gặp mặt người ta mà cậu cứ nạng ra, cứ bảo: “Thực lộc chi thê như cá trên ăn cứt”. Để rồi bây giờ bạn của cậu phổng tay trên rồi. Cái thằng Cương lù đù vậy mà khôn!
Kiều Lan chêm thêm:
– Uổng thiệt đó chớ! “Trân châu bửu ngọc cậu không màng, sỏi cát giữa đàng cậu hốt ráo”. Ông già giận cậu chuyện nầy lắm đó.
Hai chị em nói không kịp thở. Mắt liếc xéo xem phản ứng của Cẩm Hương, Cẩm Hương thấy hai cô là biết thế nào nàng cũng bị họ móc ngoéo xỏ xiên, thế mà nàng cũng không khỏi bực mình. Kiều Lan lại trề môi:
– Cái thằng Cương có cái mụt ruồi đen bên mép trái, lớn cỡ hột đậu phộng. Đó là tướng kẻ ham ăn nói theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Rồi đây nó sẽ táp nuốt hết của hồi môn con vợ nó. Mà không chừng nó ních luôn của cải tía má vợ nó cho coi.
Kiều Liên cười:
– Tui thấy mụt ruồi lớn hơn trái trứng cá, trên còn có mọc mấy sợi lông, chẳng biết đó là tướng gì?
Hai chị em nói đến đó, không thấy ai cao hứng phụ họa vào câu chuyện của họ nên liếc xéo Thiện Tố rồi bỏ đi. Thiện Tố thở dài, bảo với Cẩm Hương:
– Rầu quá, mụt ruồi của thầng Cương chỉ bằng hột tiêu thôi, mọc ở bên mép là mục ruồi duyên. Khi nó cười có lúm đồng tiền thi mụt ruồi ấy làm cho cái miệng nó thêm phần ý nhị. Nhưng hôm nay hai bà chị của tôi phóng đại cho mụt ruồi lớn thêm ra, chị Kiều Liên còn cắm thêm mấy cọng râu nữa. Hai bà ấy cứ tưởng tượng chuyện dị tướng, dị hình, dị dạng rồi gán cho thiên hạ.
Cẩm Hương mỉm cười:
– Ai mà còn lạ hai bà chị của anh nữa? Với mấy bả thì chuyện gì cũng có thể xảy ra hết. Tôi không chọc ghẹo và cũng không có dây mơ rễ má gì với hai bả, mà khi thấy tôi, như có oán thù từ kiếp trước, hai bả luôn sừng lên, châm chích, nói những lời lẽ thiệt hết sức khó nghe. Bình thường tôi không thích cãi cọ với người khác, và cũng vì anh nên tôi coi như không nghe thấy gì hai bả nói hết.
Cẩm Hương dừng lại nhìn Thiện Tố, rồi quay mặt nơi khác cười, nói tiếp:
– Tôi nghe chị Kiều Liên chê da anh đen như da người Sê Tiêng ở Trảng Sụp, hay ở Lộc Ninh. Còn chị Kiều Lan chê da anh đen khi thấm mồ hôi giống như da cá trê.
Cả hai cùng cười xòa. Thiện Tố hỏi:
– Còn cô, xin cô nói thiệt tôi đen tới mức nào?
Cẩm Hương cười:
– Da anh mặn mòi, đen mà hồng hào mới đáng là da của trượng phu hảo hớn.
Thiện Tố bảo:
– Dù sao tui cũng cảm ơn cô! Nhưng tui không biết cô an ủi tui hay nịnh tui đó?
Cẩm Hương bảo:
– Tùy anh, anh nghĩ sao cũng được. Tôi không thích đàn ông da trắng méc, vì trông họ yếu ớt quá.
Đã hơn 8 giờ đêm. Thiện Tố và Cẩm Hương đi ngược lên dốc cầu Quây, qua các dãy hàng quán bán đồ nhậu, nước giải khát. Các sạp bán bánh da lợn, bánh gan, bánh bò nướng, bánh tiêu, bánh sương sa dẽo gói bằng giấy kiếng trong, mứt me, mứt mãng cầu… Những người bán hàng, đa số là các cô gái trẻ ngồi tràn qua lề lộ. Họ ghé mua mỗi thứ bánh một ít. Thiện Tố đề nghị:
– Cô có mỏi chân không? Hay là chúng ta vào công viên ngồi nghỉ một chút.
Cẩm Hương từ chối khéo.
– Cảm ơn anh, chân tôi chưa mỏi. Chúng ta hãy về đi. Ngủ đậu ở nhà người ta mà đi chơi về trễ để người ta đợi cửa thì kỳ lắm.
Nàng nghĩ công viên giờ đây đã thưa người, đèn mờ ảo, có chỗ còn tối thui. Người tản bộ, hoặc người đàng hoàng ít ai vào đó lúc nầy. Công viên khuya khoắc chỉ thích hợp cho những cặp tình nhân. Họ đang đi mà tay choàng vai, tay ôm eo, xà nẹo với nhau, chân họ như bị mắc phong lếch thếch đi hết muốn nổi vậy. Xa xa lác đác có những cặp ôm chầm lấy nhau, ngồi trên băng đá khuất dưới tàn cây, hoặc nơi bóng đèn điện bị đứt …
Cả hai về đến trước cửa đã hơn 9 giờ. Thế mà nhà Cương đèn đuốc còn sáng trưng, Cẩm Hương và Thiện Tố bước vào. Mọi người đổ dồn mắt nhìn họ, những cặp mắt đều hướng qua phía Cẩm Hương. Thiện Tố biết hết những đứa bạn ngồi ở đây. Còn Cẩm Hương không biết ai, duy có Thiện Cảm ngồi trong góc vẫy tay chào. Những người tuổi trẻ sự hòa hợp rất dễ dàng. Cương chạy đến đấm vào lưng Thiện Tố thùm thùm:
– Đám cưới tao mà mầy không xuống thì tao sẽ nghỉ mầy ra luôn.
Anh ta nhìn Cẩm Hương ngờ ngợ, chợt tươi cười vỗ tay nói với mọi người có mặt:
– Hôm nay ngoài những người bạn cũ của chúng mình đã biết, còn có người mới. Vậy tất cả tự giới thiệu, người mới cũng tự giới thiệu, hoặc nhờ bạn mình giới thiệu dùm. Tôi xin tự giới thiệu tôi là Huỳnh Cương, người đứng kế bên đây là nàng Tạ Liễu Oanh, ngày mai sẽ là phu nhơn của tôi. Tới mầy nghe Tâm. Nhưng thôi, để tao giới thiệu luôn những đứa độc thân tại chỗ. Đây là Tâm còn có biệt danh là Tâm Khểnh, vì hắn có cái răng khểnh khi cười làm cho các cô sợ chạy xa thật xa. Quý vị biết tại sao không? Vì hắn cười có duyên hết chỗ chê, nên các em chạy xa để lấy trớn chạy trở lại ch