CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Ngày nhóm họ đám cưới của Cẩm Hương, họ hàng gần xa đều về đủ mặt. Vì với bên nội cũng như bên ngoại của nàng, đây là đứa cháu đầu tiên của hai bên gả chồng. Cho nên dù có bận bịu công ăn việc làm họ đều gác lại để đến tham dự. Còn bọn “Lục Nữ La Sát” của nàng chỉ thiếu Thụy Châu. Đứa hay tin nàng thành hôn đầu tiên là con Ánh Nguyệt. Nó liền tống một lá tối hậu thơ đến Cẩm Hương.
“…Cẩm Hương thân mến,
Em không ngờ trong bọn chúng mình, chị lên xe hoa chỉ sau Thụy Châu, trước tụi nầy. Hôm hay tin chị “huề” lại với anh chàng nông dân đó, con Ái Mỹ nói với em là trải bao nhiêu chuyện không vui, anh chị sẽ không xa nữa. Em không tin như vậy. Bởi người ta nói “Quít thì vừa thơm vừa ngọt. Chanh vừa đắng vừa chua”. Tại sao chị khờ quá bỏ đi thơm ngọt mà nhận chua đắng vậy? Em muốn nói Bùi Công Khanh là trái quít đường đó, thế mà chị nỡ bỏ cho đành. Lại đi ưng cái anh chàng nông dân lúc nào quần ống thấp ống cao và dính nước phèn vàng khè như Thiện Tố!
Nồi đồng nồi đất ơi, già kén chẹn hom, ghét của nào trời trao của đó!
Thau nhôm thùng thiếc ơi, éo le duyên xe lộn mối tốt cối xấu chày.
Cẩm Hương à, nếu chị có muốn xin tha thì phải hứa với em một việc, là để em làm dâu phụ và em trai Tuấn của chị làm rể phụ. Như vậy cái tội khờ của chị em sẽ giữ im hơi lặng tiếng, không công bố ra cho văn võ bá quan làng nước biết. Nghe đề nghị nầy, chị sẽ khoái chí, nên dại gì không nhận phải không? Chị thấy đó, em dâu tương lai của chị xử sự rất điệu mà. Ngày đám cưới của chị, em nghĩ là ngày bọn “Lục Nữ La Sát ” sẽ có đủ mặt.
Nhớ chuẩn bị giường chỗ, nhứt là cho con Thụy Châu đã gần ngày sanh. Tội nghiệp, nó ôm cái bụng chang bang, đi è ạch, nặng nề, vậy mà cũng đòi đến dự đám cưới nữa.
Thục An sẽ đi với kép nó. Con đó dạo nầy đi đâu cũng có đôi, có cặp. Cặp tình của đôi trẻ nay không biết sẽ ra sao? Em lo lắng… Còn hai con ma bùn Nguyệt Mi, và Ái Mỹ chưa liên lạc được…
Hôm qua em có vào trường dòng tu nữ bên hông nhà thờ, đặt cho chị cặp gối thêu tay nổi, có đôi chim én bay trên trời xanh và nhành mai vàng rực rỡ. Chị còn cần gì thì cứ cho bọn nầy biết, mỗi đứa sẽ tặng một hay hai món, giống như tụi mình sắm cho Thụy Châu lúc theo chồng vậy…
Chắc chị bận rộn lắm? Nhớ cần gì thì nói. Thôi em xin dừng bút nghen. Hẹn gặp vào ngày đám cưới chị.
Em dâu tương lai của chị,
Giai nhân tuyệt sắc Ánh Nguyệt”
Cẩm Hương đọc xong thư của Ánh Nguyệt bật cười, bởi cái con nầy khoe khoang không ai chịu nổi. Nàng lo le lá thư của Khanh trong tay, lòng buồn buồn… Có đoạn chàng viết:
“…Cảm ơn Cẩm Hương đã cho anh khoảng thời gian dù ngắn ngủi, nhưng thật vui vẻ. Em đừng cảm thấy áy náy, tại anh yêu đơn phương thôi. Có lẽ chúng ta có duyên nhưng không nợ ấy mà!
Thật đáng tiếc, ngày cưới em anh không đến dự được.
Gởi tặng hai em món quà nhỏ bé để làm kỷ niệm (cây viết máy hiệu Parker màu đỏ như sơn son, ngòi bằng vàng).
Anh xin chúc tân nương cùng tân lang trọn đời hạnh phúc, sắc cầm hão hợp, loan phụng hòa minh.
Và cho anh gởi lời chào Thành nhé.
Thân mến,
Bùi Công Khanh “
Tình yêu không phải là trái banh để đá qua đá lại, hoặc nhường cho người nầy người kia. Khanh có đủ điều kiện, anh sẽ là một người chồng tốt. Nhưng tình cảm con người thật khó hiểu, lý lẽ của con tim thật lạ kỳ… Tất cả những gì Khanh có, vẫn chưa đủ để cho con tim nàng rung động. Không ai có thể trả lời câu hỏi nghe đơn giản mà bề trong lại hết sức trặc trẹo khó khăn đó. Nhưng đám kết hôn nào mà không có kẻ buồn? Dù không nói ra nhưng mọi người đều ngấm ngầm biết rằng ít nhứt cũng có hai người. Một bên ở phía chú rể và một bên là ở phía cô dâu.
Đường xe từ Cai Lậy lên Lái Thiêu xa thăm thẳm. Đại diện họ nhà trai đi rước dâu chỉ có 10 người. Gồm có ba má Thiện Tố, chú thím họ của chàng, hai cô em họ, hai cậu em họ và chú Sáu quản gia. Má lớn của chàng cũng muốn đi nhưng cái chân bị trặc nên bà không thể di chuyển nhiều được, đành phải ở nhà, chờ họ nhà gái đến để tiếp đón.
Họ nhà trai mướn chiếc xe đò 30 chục chỗ ngồi để đi rước dâu. Đó là món quà của ba và má lớn Thiện Tố xuất tiền ra mướn. Dạo trước, má lớn của chàng ngầm xúi con gái mình phá đám cho hả lòng ganh ghét, nhưng không phá được thì thôi, bà cũng chẳng mất mát chi! Nay Thiện Tố cưới được cô giáo, anh em cô ta có chức phận địa vị trong xã hội như vậy, bà cũng có chút thơm lây và bà cũng có thể hãnh diện với bà con xa gần, với bạn bè chòm xóm đã từ mấy đời sinh sống ở vùng nầy.
Má lớn chàng còn bắt phải tổ chức tiệc cưới và rước dâu về nhà hương hỏa. Phải mời tất cả họ hàng và những người trong làng mà vợ chồng bà quen biết… Bà muốn làm rình rang như vậy để thiên hạ khen bà rộng rãi, bà từ bi hỉ xả đã thương yêu, lo lắng cho thằng con dòng nhỏ, nên Thiện Tố mới có được ngày hôm nay… Bà cũng ngầm khoe với bên vợ của Thiện Tố thấy rằng gia đình bà cũng giàu có, cũng ruộng đất bề bề, cũng có tôi tớ đầy nhà, cũng nhà cao cửa rộng không thua kém ai…
Đám cưới con trai mình, bà Tư Hiền không có ý kiến và quyền hành chi cả. Nhưng bà không buồn, cũng không cảm thấy khó chịu. Với bản chất thật thà, tánh tình hiền lành chịu đựng, bà chỉ mong sao Thiện Tố hạnh phúc. Chồng bà, bà lớn vui vẻ thì bà vui chung với họ rồi. Bà không hề thắc mắc hay để ý đến những chuyện khác.
Ông Hai Cung bảo xe ngừng lại cách nhà gái một đổi. Ngay cổng chánh dựng cửa tam quan có treo đèn, dán giấy màu, tô điểm bằng lá, hoa, trái… và lại còn kết tuội treo bông khắp các khung cửa. Làng trên xóm dưới khi ngó thấy cổng là biết nhà có đám cưới. Cổng nầy cũng để long trọng tiếp đón nhà trai, đưa con gái mình về nhà chồng…
Trên xe chú Sáu quản gia là người làm kỳ cựu của gia đình ông Hai Cung đi theo. Nhưng chú không vào dự lễ. Bổn phận của chú Sáu là soạn lấy 2 cái quả được vẽ cảnh trên thiên đình có tiên ông, tiên bà… cùng 6 cái mâm đồng sáng ngời được đánh bóng từ cả tuần trước. Chú sắp vào mâm, vào quả nào rượu, trà, bánh, trái. Những quà làm lễ cưới, nữ trang, cùng các lễ vật khác phù hợp theo gia cảnh giàu nghèo của mỗi gia đình, do nhà gái đòi hỏi.
Riêng ông bà Ký Tân, không đòi hỏi gì ở nhà trai khi gả con gái mình cho con trai họ. Ông bà để tùy nhà trai đi gì, cho gì thì Cẩm Hương hưởng cái đó. Còn những thứ cần sắm sửa cho cặp vợ chồng mới cưới như mùng, mềm, chiếu, gối … dù là bên nhà trai phải lo, nhưng trước ngày đám cưới, bà đã sắm đủ hết cho con rể rồi. Quan niệm của ông bà Ký Tân là gả con chớ không phải bán con. Họ chỉ mong sau nầy con gái và rể mình được hạnh phúc, hòa thuận, sanh con đẻ cái cho ông bà ẵm bồng là đủ lắm. Phải chăng đó cũng là ảnh hưởng tốt từ các con có ăn học, theo trào lưu tiến hóa của lớp người trẻ tuổi, cởi mở, văn minh mà hai ông bà dần dà bỏ bớt màu mè, riêu cua, xa lánh dần tập tục cổ hủ lỗi thời? Ông bà không biết sự đổi thay trong thế hệ buổi giao thời, nhưng ông bà rất vui vẻ bớt đi những lễ mễ trong việc cưới hỏi buộc ràng cho cả đôi bên… Có thằng rể là ông bà có thêm đứa con trai.
Trong mọi đám cưới, những lễ vật nhà trai qua rước dâu dù giàu hay nghèo luôn luôn không thể miễn hoặc bỏ được. Đó là những mâm, những quả như là rượu, trà, bánh, trái. Nghèo thì đi mỗi thứ một mâm, một quả (rượu thường, trà thường, bánh thường, trái thường, nhưng tất cả cộng lại phải là số chẵn, 4 mâm hay 4 quả…). Có tiền thì đi mỗi thứ 2 mâm, 4 mâm, hoặc 6 mâm… tùy theo sự đồng ý của hai họ. Có tiền thì mua rượu nổi tiếng, bánh hộp của Tây, trà Tàu hảo hạng, cam Tàu, nho, bôm nhập cảng từ ngoại quốc… Đó là về phần lễ vật. Còn người đi đưa, hoặc rước dâu đều phải đi chẵn, hoặc có đôi có cặp, chớ không được đi lẻ. Kiêng cữ những người chết vợ hoặc chết chồng, hoặc vợ chồng đã từng thôi nhau cũng không được đi rước hoặc đưa dâu. Họ chỉ được đến dự tiệc thôi. Đám cưới Cẩm Hương nhà trai đi qua 8 mâm quà lễ:
* Hai mâm trái thanh long tốt tươi được lựa kỹ, không bị sâu, không trầy trụa và có màu sắc thật đẹp tươi tượng trưng cho Phước-Lộc-Thọ…
* Hai mâm rượu tượng trưng cho tình nồng nàn bền chặt…
* Hai mâm trà, tượng trưng cho keo sơn, nghĩa nặng gắn bó…
* Hai quả bánh tượng trưng cho tình yêu thương ngọt ngào, trên thuận, dưới hòa cả nhà đề huề, đầy con đầy cháu…
Tất cả những giải thích trên dù khác lời, khác ý đi nữa, nhưng chung qui gia chủ của hai họ đều muốn cho con cái mình sống chung thuận hòa, làm ăn phát tài, gặp nhiều may mắn, sanh con đẻ cái dễ nuôi, ăn đời ở kiếp với nhau…
Có những đám còn gánh hai thúng xôi, gánh cả con heo quay để làm sính lễ… Hai bên cha mẹ đám cưới Thiện Tố đã bàn bạc trước với nhau, châm chước phần nầy vì đường sá xa xôi bất tiện. Và cũng không có lại quả (nhà trai đi món gì qua làm lễ, thì khi đưa cô dâu, nhà gái phải sớt ra một ít đem trở lại cho nhà trai) như những đám rước dâu khác.
Sau khi đại diện họ nhà trai trình lễ vật và đại diện họ nhà gái bằng lòng nhận thì cô dâu Cẩm Hương được dắt ra. Cặp vợ chồng thầy Ba Hiếu, được ông bà Ký Tân yêu cầu trước, hôm nay nhờ đứng hai bên chỉ dẫn cho cô dâu, chú rể lạy bàn thờ ông bà, lạy cha mẹ, xá họ hàng, từ giã chị em ruột thịt và bạn bè… để cô dâu xuất giá theo chồng.
Bốn cô phù dâu-Thục An, Ánh Nguyệt, Ái Mỹ, Nguyệt Mi đều mặc áo dài màu đọt chuối thêu hoa cúc hồng trên bâu áo, và tua tủa xuống tà áo. Thụy Châu mới sanh tuần trước, còn yếu như con cua mới lột vỏ chỉ gởi quà tặng thôi.
Nguyệt Mi đá lông nheo với anh chàng thanh niên bên nhà trai, mà lại nói với ba mụ chằng ăn trăn quấn “Lục Nữ La sát” rằng:
– Làng trên xóm dưới ơi, chàng rể bảnh trai, cao ráo dáng bộ giống thư sinh quá chừng. Vậy mà nghe tụi bây nói hôn phu của chị Cẩm Hương nông dân, lao động chân tay. Nên tui cứ tưởng ảnh ô dề, cục mịch lắm chớ.
Thục An trề môi:
– Cái bà Cẩm Hương lựa chồng giống như nhà dàn cảnh phim lựa kép chánh vậy. Tao thấy anh Thiện Tố giống tên kép đóng vai Tarzan!
Ánh Nguyệt cười, rồi nói hành nói tỏi:
– Tao không biết anh Thiện Tố có phước hay vô phước một khi đi cưới phải con vợ, vừa đẹp lại vừa ghen gay gắt như bà Cẩm Hương. Một khi mà bả nổi máu Hoạn Thư lên rồi thì có ông Trời mới khuyên giải bả được.
Ái Mỹ nguýt Ánh Nguyệt một cái bén ngót, trề môi:
– Ê, bả là chị chồng tương lai của mầy đó nghen con quỉ. Trước mặt bả, mầy ngọt sớt, sau lưng thì chê xả láng. Có chồng bảnh trai, ăn học đàng hoàng thì phải ghen để khỏi bị con lành con lủng tò vè rinh mất chồng. Mầy hãy liệu hồn đi, thằng Tuấn của mầy có cặp mắt “liếc ngang con Điêu Thuyên bủn rủn, liếc dọc ả Lộng Ngọc bàng hoàng”.
Nguyệt Mi hỏi nhỏ:
– Lộng Ngọc là ai vậy?
Ái Mỹ bảo:
– Là con của vua Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc. Cô ta đẹp nghiêng nước, nghiêng thành, có tài thổi tiêu. Khi cô thổi khúc “Phượng Vũ” thì chim phượng chim loan trên trời bay xuống quanh cổ để nghe.
Ánh Nguyệt chẩu mỏ:
– Khi mà anh Tuấn cưới tao rồi, mỗi khi tụi tao đi ra ngoài, tao bắt ảnh đeo kiếng mát có gọng thật bự và mặt kiếng màu thiệt đen, để mấy con rập rợn trắc nết khỏi thấy cái liếc mắt… hiểm nghèo của ảnh.
Cả bọn cười ha hả. Ái Mỹ nói:
– Người ta sẽ nói mầy dắt ông mù đi chơi.
Thục An chêm:
– Coi bộ nó còn Hoạn Thư hơn bà chị chồng tương lai của nó nhiều đó tụi bây.
Bỗng bà Ký Tân đi ngang, dừng lại nói với 4 cô gái:
– Cảm ơn các cháu nhận lời đến làm phù dâu. Có các cháu đám cưới càng thêm vui.
Làm lễ để rước dâu xong, họ nhà trai được nhà gái đãi một bữa ăn thịnh soạn, gồm những món quý giá. Những bà nội trợ trong họ hàng nấu nướng từ suốt đêm hôm rồi. Những món ăn càng đặc biệt, càng khéo, càng ngon thì nhà gái càng được nở mặt, nở mày, cô dâu cũng được thơm lây tài khéo léo. Và các cô gái trong lãnh thổ Lái Thiêu được nhiều cha mẹ, họ hàng của trai tráng ở làng tổng thuộc tỉnh Thủ Dầu Một khác gấm ghé hỏi cho con cháu mình… Đó cũng là một trong những cách chọn dâu, dần dà biến thành như tập quán chung của người dân trong cuộc đất nầy. Thói quen đó đáng được khuyến khích, để các cô gái trong thôn làng khéo léo thêm về nữ công, gia chánh…
Ngày cưới, cô dâu mặc áo quần mới, trang điểm đẹp như nàng công chúa trong những chuyện cổ tích xưa. Cẩm Hương bên trong mặc áo dài cổ cao, tay phùng bằng gấm Thượng Hải màu hồng, quần lụa trắng. Bên ngoài choàng áo rộng, dài màu đỏ thắm. Ở lai, ở tay, ở cổ áo có viền chỉ kim tuyến màu phỉ thúy, màu hoàng yến, màu huyết hoa… óng ánh. Mình áo thêu rải rác những cánh hoa tươi thắm. Đầu cô đội nón cụ quai tơ. Má giồi phấn, môi thoa son hồng và trang sức theo nửa cổ nửa tân của cô dâu Cẩm Hương làm chú rể Thiện Tố chìm lỉm. Chàng cũng mặc áo rộng màu xanh lục có dệt hoa nổi bằng chỉ bạc qua 3 chữ Phước Lộc Thọ nằm trong những vòng tròn lớn. Đầu chàng đội khăn đóng, chân mang giầy hàm ếch, chàng ăn mặc thật trang trọng. Nhưng khi cặp mắt hay diễu của con a đầu Ánh Nguyệt quét ngang thì mặt mày chàng ta thộn ra chẳng khác ông Lý Toét đi Sài Gòn chút nào cả… Bà Ký Tân lau vội nước mắt vui mừng cảm động khi con lạy. Ông Ký Tân cũng rướm nước mắt. Cẩm Hương kềm lòng không được, ôm mẹ khóc òa như đứa trẻ. Bà Tân mắng yêu:
– Ai lại khóc trước mặt bao nhiêu người, thật xấu quá đi nè.
Miệng nói nhưng nước mắt bà Tân chảy còn nhiều hơn nước mắt của con, làm cho hai họ cảm động đỏ mi mắt.
Ông bác họ của Cẩm Hương muốn không khí vui lên, bèn cất tiếng:
– Cháu Cẩm Hương khóc không phải buồn vì xa cha mẹ, mà cháu khóc vì sao không làm lễ cho mau để sớm về nhà chồng đó các bậc trưởng thượng cùng bà con à.
Ông vừa dứt lời thì ai cũng cười rộ lên. Những lời chúc phúc, chúc lành rộn rã như bắp rang ở căn lều dành đãi ăn.
Bên nhà trai, đám cưới cũng được tổ chức thật là rình rang xôm tụ, tưng bừng. Qua cầu đúc Cai Lậy, cặp sát theo đường sông ra miệt Long Tiên, Ba Dừa, Thới Sơn… khoảng 500 thước đường lộ đất. Hai cái nhà đãi lớn tạm thời được dựng che trước ngôi nhà ông Hai Cung. Bên trong đặt khoảng hai mươi mấy chiếc bàn tròn và mỗi bàn 10 ghế đẩu vây quanh. Những bàn ghế nầy mượn ở đình và bên nhà làng, do những người tá điền của ông khiêng vác từ tuần trước ngày đám cưới. Mấy người khác đi chặt tàu lá cây đủng đỉnh, tàu lá dừa, hái bông hoa… để cho những người khéo tay trang hoàng ở cổng, ở các khung cửa sổ trưng bày hình cảnh Phước, Lộc, Thọ, và những chữ như: “Tân Hôn, Loan Phụng Hòa Minh…”. Những bức tranh lớn, nền làm bằng lá chuối non, và dùng hoa, trái, lá, rễ… làm bức tranh nổi “Ngư, Tiều, Canh, Mục”, bức tranh kia là “Long, Lân, Qui, Phụng”. Họ còn dùng những hoa quả kết thành cặp cá hóa long rực rỡ dưới ánh đèn măn-sông. Những chậu bá niên, vạn thọ đặt thành hai hàng dài từ cổng trước vào tới thềm nhà cửa lớn.
Thiện Tố vốn có hoa tay, cắt những nhánh cúc rồi tỉa lá kết lại thành dây cúc hóa phụng, lá cúc khi ráp vào nhau thành con phụng đang bay giữa các chòm mây. Mọi người đều trầm trồ. Chồng của Kiều Liên nói:
– Cậu có biết uốn trúc hóa long, uốn cúc hóa phượng không? Bức tranh ghép nhánh nầy sau đám cưới là dẹp bỏ, đâu còn dùng được nữa.
Thiện Cảm thành thật:
– Uốn cây phải tốn nhiều thời gian. Em chỉ nghe có uốn trúc hóa long thôi, còn uốn cúc hóa phụng thì em chỉ thấy trong hình vẽ, có lẽ do người Tàu tưởng tượng ra. Dù sao, vẽ cúc hóa phụng để thêu trên miệng túi áo sơ-mi cũng đẹp lắm.
Bà Hai Cung chưa biết rõ chuyện uốn, bẻ cây kiểng ra sao, nhưng bà háy thằng rể:
– Mầy đừng khó tính nghe chồng con Ba. Thắng Út của má là văn nhơn tao nhã. Nó mà rớ vô cái gì xấu xí thì cái đó cũng trở thành thanh bai tao nhã hết trọi. Nghệ sĩ đó đa! Khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, các bực học giả trí thức đều biết tới nó.
Rồi bà ngẫm nghĩ nói tiếp:
– Đó cũng là nhờ thằng Thiện Tố và con giáo trưởng chị nó đã giúp nó nên người. Mèn ơi, việc đá gà, đá cá lia thia là chuyện cờ bạc vậy mà thằng Út của tao lấy độc trị độc viết về những bài đá gà đá cá xuất sắc, ai ai đọc bài đó rồi… cũng phải nghĩ nó phong lưu, ngộ thiệt đó chớ.
Bà nhấn mạnh thêm:
– Tao làm đám cưới thằng Thiện Tố rình rang, là để thưởng công cho vợ chồng nó đó đa.
Ở hậu viện thì che tạm cái thảo bạc cao và rộng và dài ra tận sàn lảng, để nấu ăn và rửa chén. Nhà trai nhóm họ đã ba ngày rồi. Từ sáng đến chiều tiệc đãi họ hàng cùng bạn bè, khách khứa… liên tục. Cho nên trong bếp, lửa hồng cháy phừng phừng suốt ngày đêm. Họ làm bò, làm heo, làm gà, vịt, cá, tôm… Các loại gia súc, cá tôm… được nuôi hoặc mua toàn là những thứ tốt, thứ ngon. Ngoài họ hàng và tá điền lớn nhỏ, nam nữ về phụ giúp trong ngoài tổng cộng gần 20 người. Ông bà Hai Cung còn rước thêm hai thợ nấu ăn trứ danh ở làng khác đến soạn tiệc đãi khách khứa suốt ngày nhóm họ và tới hôm rước dâu về. Ông Hai Cung, chủ điền nổi tiếng giàu có mấy đời, và còn là chủ nhà máy chà lúa. Thử hỏi thuở đó đếm trên đầu ngón tay coi trong tỉnh Định Tường có được bao nhiêu cái nhà máy chà như vậy? Nên đám cưới con trai ông phải tổ chức linh đình chớ.
Đội lân địa của làng nhảy múa theo tiếng trống chiêng liên hồi để chào đón mừng hai họ và cô dâu chú rể. Người lớn, con nít đứng hai bên đường xem đông nghẹt. Họ trầm trồ khen ngợi cô dâu chú rể, các phù dâu phù rể, cùng nam thanh, nữ tú v.v…
Họ nhà trai rước dâu về rất sớm, chưa tới 1 giờ. Sau lễ gia tiên, lạy ra mắt cha mẹ, họ hàng bên nhà trai, cô dâu chú rể thay đổi xiêm y để bắt đầu đãi khách đặc biệt.
Khách của ông bà Hai Cung để dành đãi sau khi rước dâu về là những người có chức sắc bên hội đồng làng, dinh quan chánh chủ quận. Mấy thầy cô dạy chung với Cẩm Hương… cùng bạn bè của Thiện Tố ở xa đến, có vợ chồng Cương và mấy người mà Cẩm Hương gặp mặt hôm đi đám cưới Cương cũng đến tham dự đủ mặt.
Đứng trong rèm nhìn Thiện Tố vá Cẩm Hương làm lễ gia tiên, Hồng Ánh kề tai Ngọc Huệ nói nhỏ:
– Chị Ngọc Huệ coi, chị Cẩm Hương đúng là nữ hoàng trong tiệc cưới hôm nay. Chỉ vừa đẹp lại vừa sang.
Ngọc Huệ cười:
– Đúng vậy. Gái tân học mà, không đẹp thì cũng sang.
Riêng Kiều Liên và Kiều Lan thì ganh tị thấy rõ. Kiều Lan bảo em:
– Con Cẩm Hương mặc áo gấm Thượng Hải không bằng tao mặc áo gấm thêu Tô Châu.
Kiều Liên chê bai:
– Áo gấm phải dệt phụng, dệt bướm bằng kim tuyến mới đẹp. Đàng nầy gấm của nó dệt chữ thọ trông lu câm và quê quá.
Thiện Cảm đi ngang nghe hai bà chị thèo lẻo và đa sự của mình, xía miệng vào:
– Gấm thêu ở Tô Châu cũng từ Thượng Hải chở qua đó đa.
Kiều Lan táp liền:
– Sao mầy biết? Ai nói với mầy như vậy? Mầy muốn làm tài khôn dạy đời tao phải không? Đồ cái thằng vô duyên không tiền mà thưởng.
Kiều Liên xỉ ngón tay vào trán em trai:
– Mầy giỏi quá hén. Nhưng sao mầy thi rớt bằng Thành Chung hoài vậy? Thấy cái bản mặt làm ra vẻ ta đây thông thái, trí thức của mầy mà tao ứa gan rồi.
Thiện Cảm cười hề hề:
– Thôi em đi cho khuất mắt hai chị, để hai chị mặc sức nói hành nói tỏi người ta.
Kiều Lan bằng giọng chua hơn giấm, mắng nhiếc em:
– Đồ cái thứ ăn cơm nhà đi nịnh thiên hạ! Mầy chỉ có “chí rận”, chớ trí thức nỗi gì.
Kiều Liên xỉa xói thêm:
– Mầy làm ơn, có rảnh thì vác cái mặt mo đi chỗ khác chơi cho mau, để tao được thở cho mát phèo, mát phổi coi!
Vừa lúc đó, Hồng Ánh và Ngọc Huệ đi ngang qua. Cả hai liếc nhau chúm chím cười. Khi trở vào bếp phụ các bà, các cô nấu nướng. Ngọc Huệ bảo nhỏ với Hồng Anh:
– Em thấy, dạo nầy anh Thiện Cảm hay chọc quê hai chị Kiều. Hễ hai chị ấy càng nổi tam bành lục tặc ảnh càng cười khoái chí tử.
Hồng Ánh cười hờn:
– Hai chị Kiều ganh ghét anh Thiện Tố chưa đã, bây giờ quây qua ganh ghét chồng tui. Còn hai ông anh rể cảm thấy mình thua kém hai thằng em vợ nên cũng tỏ vẻ lạnh lạt với cả hai. Họ tìm cách chê sách do chồng tui viết ra nào là văn chương không bác học, nào là lời lẽ cục mịch, nào là nhơn vật quê mùa, nào là cốt truyện lạt nhách làm họ buồn ngủ. Họ bươi móc hàng ngàn cái lỗi trong tác phẩm của ảnh. Họ chà đạp dẫm nát văn chương ảnh một cách tàn nhẫn, không chút xót thương
Ngọc Huệ cười hí hí:
– Chị Sáu Thu ở gần nhà làng, lỡ trót khen xối xả cuốn “Đồng Ruộng Chờ Anh” của anh Thiện Cảm. Cho nên mỗi khi đến tiệm chạp phô của chú Chệt Mành, hai bà Kiều phải dùng đường khác để khỏi phải đi ngang qua nhà chị Sáu Thu.
Hôm nay là ngày đại lễ của con bà Tư Hiền, cũng là ngày lễ lớn trong cuộc đời người mẹ hẩm hiu như bà. Mặt bà Tư lúc nào cũng tươi rói. Bà vui vẻ chào hỏi khách khứa đến dự. Giờ đây bà được mãn nguyện rồi. Trong những ngày trọng đại cưới vợ cho con, bà Tư luôn diện áo dài… Bà Tư mặc áo xuyến màu nâu sậm in lác đác bông hoa nổi trên mình hàng. Nền xuyến trong vắt ửng chiếc áo túi lót bằng ba-tít trắng bên trong. Bà mặc quần lãnh xiêm, đeo bông mù u vàng, dây chuyền vàng mặt Phật Bà Quan Âm. Tay đeo hai chiếc xuyến trơn. Tóc bà điểm bạc lâm tâm, chải vén vang về phía sau và xức dầu dừa láng bóng.
Bà vợ lớn ông Hai Cung trong buổi lễ tiệc chánh mặc chiếc áo dài nhung màu xanh dương, quần mỹ a Tân Châu, tóc bới hai vòng ba lái không cao, không thấp ôm sát phía sau ót. Bà đeo bông cẩm thạch mặt tròn như bánh men xanh màu lá cây. Sợi dây chuyền vàng của bà bự bản, nặng chịch, với mặt cẩm thạch lớn hình bầu dục bọc vàng chạm trỗ khéo léo. Hai cườm tay bà đeo hai chiếc neo vấn bằng vàng y, mỗi chiếc cũng nặng hơn cả lượng. Sự kiểu cách và điệu đà làm bà tăng thêm phần sang trọng, thật đúng với cương vị của một bà vợ lớn có tài sản và giàu nhứt nhì trong vùng. Cho dù ghét mẹ con Thiện Tố chín xe mười giàn đi nữa, bà Hai Cung hôm nay cũng giả giọng làm vui, miệng dòn khắm khứu chào hỏi khách khứa… để lấy tiếng thơm và hãnh diện ké với xóm làng vì thằng con của chồng đã có ăn học, giờ lại có vợ dạy lớp nhứt ở trường quận nầy nữa.
Hai nàng Kiều Lan, Kiều Liên và vợ chồng Thiện Cảm cũng ăn diện không thua kém ai. Vợ Thiện Cảm mặc áo dài lụa lèo màu hồng nhạt, tiệp với nước da trắng trẻo của nàng. Mặc dù cô hơi mập, nhưng nét mặt thanh tú, mắt tròn to như hai hột nhãn, miệng có duyên, nụ cười rạng rỡ và má lúm đồng tiền. Trông cô xinh xắn và dễ thương, rất xứng đôi với anh chồng có bóng sắc như Thiện Cảm. Lân giúp vui khi rước dâu hôm nay cũng là ý kiến của Thiện Cảm, vì chàng ở trong đội lân và còn là cầu thủ số một trong đội đá banh của làng, mà ông Hai Cung làm hội trưởng từ bấy lâu nay.
Kiều Lan và Kiều Liên muốn nổi bật hơn cả cô dâu, nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh đặt may mỗi người một chiếc áo dài “mốt” bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ, tay phùng cao. Hai cô đều mặc và trang sức giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh… Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng quần áo và trang sức nầy nếu trên một thân mình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt. Khổ nổi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn dù cái bụng không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai mụ xề ngay. Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn để giữ eo thon, mông gọn. Nhưng khổ nổi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa) vợ bé ông ông Bang Quảng Đông dùng chỉ xe trên da mặt để lấy lông măng, cùng tỉa cặp chân mày cong như viền trăng non, như cái móng chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẹp, nên uốn éo mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi xàng qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.
Ngọc Huệ đã phụ với Kiều Liên, Kiều Lan, Hồng Ánh tiếp khách, đãi ăn từ chiều ngày trước. Và hôm nay, sáng sớm cô qua giúp chuẩn bị để rước dâu về thì đãi ăn họ nhà gái và khách khứa. Cô tươi mát trong chiếc áo dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và kẹp bằng chiếc nơ bươm bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo sưu bộ ngọc trai màu ngà voi, gồm có bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay… Ngọc Huệ tô son hồng đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.
Nhưng ai có thể ngờ, sau cặp môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô ăn xàm xạp tối ngày:
Thịt phay nhai ngấu nghiến,
thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn thèm,
chả nem ních sạch bách,
tôm kho gạch cũng chẳng chừa,
dừa cô cũng ưa,
dưa cô cũng thích,
mít cô không chê…
Ai biết được đôi mắt viền đen kia, sáng ngời lóng lánh khi nghe kể chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách… Đây là mẫu thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu lòng từ thiện, kẻ dữ, người hiền đều mến chuộng.
Ba má bà Tư Hiền đã qua đời. Giờ đây bà chỉ còn có 4 chị em (bà, cậu em trai và 2 cô em gái). Họ từ trên kinh xuống dự đám cưới đứa cháu con của bà chị của mình, mà họ kính yêu cũng giống như người mẹ. Vì bà chị nầy lo mọi chuyện lớn nhỏ, đùm bọc cho gia đình và một mực thương yêu các em. Trước ngày đám cưới Thiện Tố, cậu mợ của chàng chở xuống cho con heo nuôi cấn phần riêng cho cháu từ 8 tháng trước. Dì dượng rể cho bầy vịt xiêm bốp-xộp 10 con (loại vịt lớn con, nhiều thịt và mềm). Dượng dì út cho 6 con gà trống thiến, và 4 con gà mái dầu mập ú. Bà Tư Hiền bảo với các em chở hết quà biếu qua bên nhà hương hỏa vì đám cưới sẽ đãi tiệc ở bên đó. Ngoài các thứ đem cho chị để nấu đãi tiệc cưới cháu, các em còn đem cho riêng bà Tư Hiền để dành ăn lâu ngày như là mắm cá lóc, khô cá sặc, khô cá chạch… Lại còn cá rô mề lớn gân bằng bàn tay xòe, cá trê vàng mập ú rộng trong khạp, để bà cặp gắp nướng, dầm với nước mắm gừng hay nước mắm xoài… Bởi họ biết chị mình rất ưa thích những loại khô cá nầy…
Dù bây giờ các em bà Tư mỗi đứa đều có gia đình riêng, ăn nên làm ra, nhưng bà vẫn thương yêu và luôn bù đắp khi họ gặp chuyện tai ương hoạn nạn. Ngày rước dâu về, tiệc tùng đãi khách khứa xong, khi trời vừa nhá nhem tối thì mấy em cuả bà Tư Hiền cũng trở lại nhà hết. Họ ra đi trong đêm tối cho kịp con nước để qua mấy kinh đào không bị mắc cạn. Bà lấy gần hết bánh, trái, chia phần gởi về cho các cháu. Bà đem ra cả thúng áo quần cũ, giầy, dép, nón, khăn… cho các em đem về. Thường thì đồ cá nhân còn tốt nhưng không dùng đến nữa, bà giặt sạch sẽ để dành trong thúng, trong bao, khi nào có người ở đó xuống, hoặc ai lên thì bà gởi về để cho các em, các cháu mặc đi làm cỏ lúa, đi ruộng cũng đỡ khoản tiền mua sắm.
Khi đưa các em xuống bến sông, bà Tư Hiền nhét cho mỗi người một ít tiền để họ về mua heo con, gà, vịt… nuôi mà gầy vốn lại. Dù biết các em bây giờ có tiền dành dụm bộn bàng nhưng họ phải làm lụng cực nhọc lắm mới được như vậy.
Em trai bà đẩy xuồng rời bến. Đứng trên bờ nhìn theo bóng dáng các em, mờ dần lòng bà bồi hồi xúc động… Màn đêm buông xuống, tiếng võng đưa kẽo kẹt và tiếng ru con giọng lanh lảnh ngọt bùi của nhà hàng xóm vọng đến:
“Ầu ơ… tháng bảy tối trời mưa rơi tầm tã.
Vững chắc thâm tình em ngã chị nưng… Ầu ơ…”
Thiện Tố sáng sớm ba hôm sau ngày cưới theo vợ về Lái Thiêu làm lễ phản bái thăm cha mẹ vợ. Cẩm Hương và Thiện Tố muốn chờ ngày lễ nghỉ đón Tết. Có vậỵ hai vợ chồng mới có thể ở lại chơi đôi ba bữa. Còn lần nầy nếu qua bên vợ thì ngày nay đi, mai phải trở về, đường xa mệt nhọc. Vả lại vừa mới đám cưới, bao nhiêu công việc còn bề bộn, phải làm cho xong, như là dọn dẹp mọi thứ trở lại chỗ cũ. Bàn ghế mượn của ai thì khiêng trả cho người đó… Mặc dù những việc tầm thường như vậy và dù có mấy chú tá điền ở lại giúp đỡ, nhưng phải có người lớn trong gia đình đứng chỉ huy và cảm ơn người cho mượn… Những chuyện nầy tuy nhỏ nhặt, nhưng phải cần có Thiện Tố hay Thiện Cảm hoặc cha chàng mới được. Thiện Tố nghĩ rằng, mấy hôm rày ông già mình mệt đừ rồi, để ổng làm nữa, rủi ổng ngã bịnh thì khổ lắm. Nhưng bà má lớn, và bà Tư Hiền bắt con cùng dâu phải đi Lái Thiêu. Vì họ bảo đó là lễ phản bái, cô dâu, chú rể phải về cho trọn lễ và phải xách hai con vịt, rượu, trà lỉnh kỉnh nữa.
Cẩm Hương thầm cảm ơn Thượng Đế đã cho nàng sanh vào một gia đình có cha mẹ và hai em đều là những người tốt, dầu họ không giàu sang phú quý hay quyền cao chức trọng chi đó. Nhưng nàng được đi học suông sẻ, ra trường đi làm ngay, rồi gặp Thiện Tố, để cả hai trở thành vợ chồng. Mặc dù trước ngày thành hôn, họ cũng gặp nhiều phiền muộn, trắc trở. Nhưng vận sự xảy ra không thái quá, không tàn nhẫn, không đoạn trường như biết bao thảm cảnh mà nhiều người đã gặp, bao người đã trải qua.
Bây giờ Cẩm Hương có chồng, ở chung nhà với mẹ chồng. Từ đầu làng tới cuối thôn là dòng họ bên chồng. Dòng họ bên nàng, và bọn “Lục Nữ La Sát”, không nói ra miệng, nhưng ai cũng đều lắc đầu áy náy, lo lắng cho nàng bị hai cô Kiều ăn hiếp và bị bà Hai Cung xéo xắt… Các cô dâu khác, thường chỉ có một bà mẹ chồng thôi mà còn gặp nhiều sự việc phiền phức, đàng nầy Cẩm Hương có tới hai bà mẹ chồng. Cho nên trước mặt hai họ, má nàng khôn khéo gởi gấm con mình cho hai bà sui. Bà nói:
– Con gái tôi sanh ra, nuôi lớn ăn học đàng hoàng, nay có phước phần mới gả vào làm dâu nhà hai chị. Mong hai chị coi cháu như con gái của hai chị. Ông bà ta thường nói “Thương con thì thương dâu…”
Bà Tư Hiền cười:
– Chị không phải lo. Tôi thương dâu hơn thương con trai nữa. Vì con dâu sẽ sanh con nối dòng nối dõi cho họ nhà tôi.
Má lớn của Thiện Tố vo tròn cục thuốc xỉa, lau nhẹ cổ trầu tươm ra mép miệng. Bà điệu đà:
– Thời buổi bây giờ đã đổi khác rồi chớ không phải như thời bọn mình. Chị không phải lo, “Ma bắt coi mặt người ta / Đánh chó phải kiêng chủ nhà “ mà. Vợ của cậu Tố nhà nầy ai mà dám ăn hiếp? Cho dù muốn hiếp đáp cũng chưa chắc ai có cao tay ấn làm được.
Nghe bà Hai Cung nói, Cẩm Hương cười thầm! Còn hai cô Kiều thì trợn trắng tức tối, nhưng đành đứng đó câm miệng lắng nghe.
Khi khách ra về hết rồi, bà Hai Cung sai Hồng Ánh nấu bánh canh cá giò heo để mẹ con bà giải lao. Kiều Liên có vẻ tức tối vu vơ. Còn Kiều Lan thì trầm ngâm nghĩ ngợi. Bà Hai Cung cũng có vẻ suy tư. Bà têm trầu để vào miệng nhai rau ráu. Không ai biết bà đang nghĩ gì, chỉ nghe bà hỏi con gái lớn:
– Má nghe đồn dân Lái Thiêu giàu có lắm, phải không con?
Kiều Lan trề môi:
– Đâu phải mọi người đều giàu đâu má. Vợ chồng ông Ký Tân nghe nói cũng đủ ăn đủ mặc là cùng.
Kiều Liên xí xọn:
– Má chớ thấy mụ Ký Tân ăn nói kiểu cách, ăn mặc bảnh bao rồi tưởng mụ giàu. Trên thế gian nầy có nhiều kẻ bề ngoài lên xe xuống ngựa, nhưng họ thường ở trong nhà húp cháo lỏng.
Kiều Lan bàn:
– Nếu họ giàu, họ gả con gái cho con trai ông Phủ, con trai ông Huyện, còn tệ lắm cũng là con trai ông Cai Tổng, con trai ông Bang Biện, chớ ai mà gả con cho vợ bé ông điền chủ bực trung bao giờ?
Ngồi viết văn bên cửa sổ, Thiện Cảm đã nghe hết. Chàng cằn nhằn:
– Rùm beng quá đi thôi! Rầu quá trời quá đất mà! Tối ngày hễ xúm lại là nói móc người nầy, nói xấu người kia. Ngày nào mấy người không như vậy sẽ ăn không ngon, ngủ không yên. Hãy bớt nói một chút để đức cho con cháu, có được không?
Được dịp, hai chị em cô Kiều châu mỏ sủa thằng em vang rân. Kiều Lan rống lên:
– Thằng khôn nhà dại chợ kia. Lóng rày mầy binh thằng Thiện Tố chầm chập. Bộ nó cho mầy uống máu chó mực, hay máu mèo mun mà mầy hùa theo nó để cắn xé hai con chị của mầy?
Kiều Liên rít the thé:
– Đồ chúa ngục! Bắt chước người ta viết văn. Viết bá láp tầm xàm rồi đâm ra ngu, ra khờ, ruột bỏ ra, da bỏ vào.
Hồng Ánh bưng bình trà và khay bánh thuẩn, bánh bò nướng… từ bếp lên, can gián:
– Chuyện gì vậy? Chồng em đang lúc viết văn, không muốn ai làm om sòm, làm rộn lúc ảnh tâm hứng tìm ý, chớ ảnh đâu có dám hỗn, dám chống lại hai chị.
Bà Hai Cung bực mình, mắng át:
– Tụi bây câm cái miệng lại hết đi! Dầu sao con Cẩm Hương bây giờ cũng là phần tử trong gia đình nầy rồi! Vừa vừa, phải phải thôi nghen, đừng có ăn nói chì chiết, cay đắng quá mà mang khẩu nghiệp đó.
Rồi bà Hai Cung lẩm bẩm một mình “Rõ là thằng Thiện Tố đẻ bọc điều mới cưới được con vợ giỏi, ngoan như vậy. Nó mà cưới con Ngọc Huệ thì tàn đời! Con đó ăn hàng tới sập nhà nát cửa”.
Tuy nhiên, bà Hai Cung cũng thấy mình được an ủi. Thằng con Thiện Cảm của bà viết văn viết báo được nhiều độc giả ưa chuộng. Sách của chàng bán chạy. Mỗi tháng chàng kiếm cũng được 40, 50 đồng, bằng thầy giáo dạy lớp nhứt. Hồng Ánh giúp chồng sao chép bản thảo, sưu tầm, sắp xếp bài vở của chàng đăng báo cùng bài vở tán thưởng các tác phẩm của chàng. Hồng Ánh trang hoàng phòng văn của chồng rất mỹ thuật. Ngoài tranh ảnh và các món ngoạn hảo nàng còn sắm các chậu kiểng đặt 4 góc phòng, ở bên bệ cửa sổ. Sách nào của Thiện Cảm lưu trong tủ sách, nàng cũng đi bọc bìa da, mạ chữ vàng, xếp từng hàng trong tủ kiếng. Tối tối, nàng viết nhựt ký trong quyển tập giấy mỏng màu hường, bìa cứng phết giấy màu tím hoa cà, viền ở gáy sách màu tím sậm.
Thấy con và dâu đầm ấm, thấy văn nghiệp của Thiện Cảm được người thân thích, kẻ quen biết tán thưởng bà thầm cảm ơn vợ chồng Thiện Tố. Nhưng hai nàng Kiều lại trổ mòi ganh ghét thằng em ruột Thiện Cảm hư trước nên sau. Cái “nên” nầy tạo danh vọng cho Thiện Cảm quá lớn lao ngoài sức tưởng tượng của họ. Còn chồng họ thì làm ăn cầm chừng, hễ ló ra là ve gái, uống rượu, bài bạc.
Kiều Lan chì chiết:
– Xì, văn chương gì thằng đó. Câu văn nó suông đuột như thân thể gái già, không ngực không mông gì ráo trọi.
Kiều Liên càm ràm:
– Ngày tối ngồi viết văn như vậy, nếu không ho lao thì có ngày nó cũng nổi cơn điên, phải vào nhà thương Biên Hòa.
Còn bà Hai Cung đi đến đâu cũng khoe:
– Bà con coi đó, thằng con trai tui có văn tài mà vợ chồng tui đâu có dè, cứ ép nó học, làm nó điêu đứng. Tuy nó không có bằng cấp treo ở phòng khách cho oai, nhưng mấy cuốn sách của nó không cần treo trong nhà, mà cũng có mấy quyển sách từ Nam chí Bắc bày bán la liệt, ai ai cũng trầm trồ.
Cuốn sách đầu tiên và cuốn sách thứ nhì của Thiện Cảm được tái bản 4 lần rồi, lần nào vợ chồng Thiện Tố cũng giúp đỡ tiền nong và công sức. Thiện Cảm hốt bạc, nên bồi hoàn mọi phí tổn cho người anh khác mẹ của mình rất sòng phẳng.