- 5. 6 -
Mùa hè đã đi qua. Gió bắt đầu thổi xuyên qua các khe nứt của các bức tường và Laurie luôn cảm thấy lạnh. Một hôm Opal đem về cho cô bé mấy cái áo tay dài, một quần có yếm cùng một áo vest cho mùa đông. Những thứ này không đẹp bằng quần áo mà Laurie có ở nhà. Khi mùa hè trở lại, họ lại mua cho cô nhiều quần áo khác, mấy cái quần soọc, áo tay ngắn và đôi giày san-đan. Một mùa đông khác lại trôi đi. Laurie ngắm nhìn cây cổ thụ trăm tuổi trổ nụ trước cửa nhà, rồi lá phủ khắp các cành cây.
Bic có một máy đánh chữ cũ trong nhà. Tiếng gõ lóc cóc của nó vang đến tai cô khi cô đang bận rửa chén dưới bếp hay lúc cô đang xem truyền hình. Cô rất thích cái âm thanh dó vì cô biết lúc đó hắn ta sẽ không hành hạ cô.
Một lúc sau, hắn bước ra khỏi căn phòng với một xấp giấy trên tay, hắn bắt đầu đọc lớn tiếng những tờ giấy đó cho Opal và Laurie nghe. Lúc nào hắn cũng nói lớn tiếng và luôn kết thúc bằng những từ “Alléliua và Amen!” Và mỗi khi hắn đọc xong, Opal và cô cùng cất tiếng hát. Họ gọi như thế là thực tập những bài hát về Thượng Đế và ngôi nhà của Chúa.
Ngôi nhà. Cô không được nghĩ đến từ này nữa, đó là những gì họ ra lệnh cho cô.
Laurie không được phép gặp bất cứ ai. Chỉ có Bic và Opal mà thôi. Mỗi khi họ có chuyện phải ra khỏi nhà, họ đều nhốt cô dưới hầm. Cô bé rất sợ khi phải ở dưới đó. Trong căn hầm đầy bóng tối và đôi khi bé Laurie thấy chúng động đậy, nỗi khiếp sợ đã khiến cho Laurie phải cố nằm ngủ trên chiếc nệm đặt dưới sàn.
Bic và Opal gần như không bao giờ có khách đến thăm. Nếu có một ai đó đến nhà, họ bắt Laurie phải xuống căn hầm ngay và xích một chân của cô vào trong ống nước, để cô không thể trở lên trên được.
- Và mày cũng đừng nghĩ đến việc la hét, biết không? Bic cảnh báo như thế. Mày sẽ hối tiếc việc làm đó, nhưng dù sao thì cũng không ai nghe được đâu, mày đừng có phí công sức làm gì.
Mỗi khi về nhà, họ thường đem tiền về. Tùy lúc, có khi ít hay nhiều, nhất là tiền lẻ và đồng một đôla mà thôi. Thỉnh thoảng họ chỉ cho phép cô ra chơi ngoài sân vườn phía sau nhà, chỉ cho cô cách nhổ các bụi cỏ dại hay thu lượm trứng trong chuồng gà. Họ cho cô một con gà con và nó trở thành vật cưng của cô. Cô thường chơi với nó khi ra ngoài. Đôi khi họ nhốt nó chung với cô dưới hầm trước khi ra đi.
Một hôm, họ hối hả soạn va li, chỉ mang theo những thứ cần thiết nhất như quần áo, tivi và cái máy đánh chữ của Bic. Bic và Opal hát lớn tiếng, tỏ vẻ rất vui sướng.
- Một đài phát thanh với công suất mười lăm ngàn watts trong bang Ohio đang chờ chúng ta, Bic hớn hở cho biết. Hỡi vùng đất tôn sùng Thánh Kinh, chúng tôi tới đây.
Họ lái xe trong nhiều giờ liền. Nằm co ro trên chiếc băng sau cùng với mấy chiếc va li cũ kỹ, Laurie nghe Opal đề nghị.
- Hay chúng ta vào nhà hàng bên lề đường ăn chút gì đó đi. Không ai để ý đến nó đâu. Mà tại sao người ta lại chú ý đến nó kia chứ?
Bíc đáp lại.
- Em nói phải đấy! Rồi liếc nhìn Laurie ở phía sau – Opal sẽ mua cho mày một miếng Sanwich và một ly sữa. Mày không được phép nói chuyện với bất cứ người nào mày hiểu không?
Họ bước vào một căn phòng rộng lớn có một cái quầy dài và nhiều bàn ghế. Laurie đói đến mức cô đã cảm thấy mùi thịt heo hun khói trong miệng của cô rồi. Nhưng có một điều khác nữa. Cô nhớ là mình đã từng vô một nơi như thế này cùng với nhiều người khác. Một tiếng nấc mà cô không thể kềm được phát ra từ cổ họng của cô. Bic đẩy cô tới trước để cô bước theo Opal và đột nhiên cô bật khóc, khóc to đến mức không kịp thở nữa. Cô thấy người thu tiền nhìn mình. Bic bất ngờ nắm lấy tay cô và lôi ra khỏi nhà hàng, tới chỗ bãi đậu xe, Opal lót tót theo sau.
Bic ném cô thật mạnh lên chiếc băng sau, rồi cùng Opal trèo lên phía trước. Trong khi Opal phóng xe đi thật nhanh, hắn xoay đầu về phía Laurie, cánh tay đưa lên cao. Cô cố hết sức mình để tránh mấy cái tát liền của bàn tay lông lá đó, nhưng với cái đầu tiên, cô đã không còn cảm thấy gì nữa. Cô chỉ buồn cho đứa bé gái đã khóc to đến như thế.
6
1976
Ridgewood, New Jersey
Ngồi cạnh cha mẹ, Sarah xem chương trình trên ti vi về những đứa trẻ mất tích. Phần cuối nói về Laurie.
Người ta chiếu các hình ảnh của bé được chụp một ít lâu trước khi bị mất tích. Một hình ảnh được kỹ thuật hóa cho thấy một con bé có thể như thế này, hai năm sau ngày bị bắt cóc.
Khi chương trình đó kết thúc, Marie Kenyon chạy ùa ra khỏi phòng, hét thật to “Tôi muốn tìm thấy con tôi, tôi muốn tìm thấy con của tôi.”
Mặt mẹ ràn rụa nước mắt, Sarah nghe bố mình nói:
- Có thể chương trình này sẽ là công cụ của một phép màu chăng? nhưng ông cũng không chắc cho lắm.
Một giờ sau đó, chính Sarah trả lời điện thoại của Viên thanh tra cảnh sát Bill Conners của quận Ridgewood, ông luôn coi Sarah như một người lớn vậy.
- Tôi nghĩ chắc cha mẹ cô phải xúc động lắm sau khi xem chương trình đó, có đúng không?
- Dạ phải!
- Tôi không biết có nên cho họ hy vọng không, nhưng chúng tôi vừa nhận được một cú điện thoại, có thể mang đến một tin mừng đấy. Một người thu ngân của một tiệm dành cho các người lái xe đường xa tại Harrisbourg, ở bang Pennsylvanie, quả quyết đã nhìn thấy Laurie, lúc trưa nay.
- Lúc trưa nay à? Sarah hỏi lại mà tưởng chừng như cô không còn thở được nữa.
- Người thu ngân tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy con bé đó khóc nức nở, nhưng không phải vì nhõng nhẽo đâu. Cô khóc nấc như thế là vì muốn kiềm chế mình thôi. Cảnh sát Harrisbourg đã có một bức ảnh hiện tại của Laurie rồi dấy.
- Thế nó đi với ai vậy?
- Một người đàn ông và một phụ nữ, thuộc loại hippy. Chỉ tiếc là lời diễn tả hơi mơ hồ vì bà thu ngân chỉ chú trọng vào Laurie mà thôi, nên không nhìn kỹ hai người kia.
Ông để cho Sarah quyết định xem coi có cần báo lại cho cha mẹ cô biết không.
Sarah cầu nguyện Chúa. Hãy tạo một phép màu giúp cho cảnh sát Harrisbourg tìm lại được Laurie và con sẽ chăm lo cho nó đến trọn đời.
Rồi cô phóng lên cầu thang để cho cha mẹ cô thông tin hy vọng tìm thấy Laurie.