- 42 . 43 -
Sáng thứ sáu vì không thể liên lạc với Laurie được nên Sarah đành gọi cho Susan Grimes.
- Cô làm ơn để lại tin nhắn trên cửa Laurie giùm cho tôi, bảo nó gọi điện đến phòng làm việc của tôi nhé! Chuyện quan trọng lắm đó!
Đến mười một giờ, Laurie gọi đến từ trụ sở cảnh sát.
Một cảm giác tê cứng tiếp nối cho cú sốc mà Sarah vừa nhận được. Cô phải mất vài phút để điện thoại cho bác sĩ Carpenter, báo cáo lại cho ông biết hết những gì đã xảy ra và yêu cầu ông liên lạc với bác sĩ Donnelly. Nói xong cô chụp lấy áo khoác và túi xách, chạy ra xe. Chuyến đi một tiếng rưỡi đồng hồ đến Clinton quả là một nhục hình.
Giọng đứt quãng và hốt hoảng của Laurie đã nói như sau:
- Chị Sarah ơi, ông giáo sư Grant bị ám sát chết rồi. Họ nghi chính em giết chết ông ta. Họ đã bắt em và đem về sở cảnh sát rồi. Họ bảo là em có quyền gọi cho một ai đó.
Câu hỏi duy nhất của chị cho Laurie là:
- Ông ấy chết như thế nào vậy? Nhưng chị đã biết câu trả lời trước khi cô đáp lại. Allan Grant bị đâm chết. Ôi lạy Chúa Lòng Lành, tại sao như vậy chớ?
Sarah đến trụ sở cảnh sát, nơi mà người ta bảo là Laurie đang ở trong phòng thẩm vấn. Sarah xin được gặp cô. Viên trung uý trực biết Sarah là phụ tá công tố viên nên tiếp chị ta khá tử tế.
- Thưa cô Kenyon, người duy nhất được phép gặp cô trong lúc đang bị hỏi cung là vị luật sư của cô!
- Tôi là luật sư, Sarah đáp lại.
- Cô không thể…
- Kể từ giây phút này tôi không còn là phụ tá công tố nữa. Ông có thể nghe tôi xin từ chức đây.
Phòng hỏi cung thật nhỏ hẹp. Một máy phát video cho thấy Laurie đang ngồi trên một chiếc ghế gỗ, mắt nhìn vào ống kính. Hai thanh tra cảnh sát cũng có mặt trong đấy. Khi Laurie thấy Sarah bước vào, liền chạy lại ôm cô.
- Chị ơi, chuyện này thật điên rồ. Em rất tiếc cho giáo sư Grant vì ông ấy quá tốt với em. Hôm qua em rất phẫn nộ vì chuyện các lá thư mà ông ấy tố cáo là do chính em viết. Sarah ơi, chị làm ơn bảo họ hãy mau mau tìm lại tác giả mấy bức thư đó đi. Chắc là con khùng kia đã giết chết ông ta. Nói xong cô bật khóc hết sức thảm thiết.
Sarah ôm cô vào lòng, để đầu Laurie lên vai của mình, tự động ru cô khi nhớ lại một cách mơ hồ là mẹ của họ cũng có các cử chỉ như thế để an ủi họ lúc họ còn bé.
- Cô hãy ngồi xuống đi Laurie, viên thanh tra trẻ nói với giọng cứng rắn. Chúng tôi đã thông báo cho cô biết quyền lợi của mình rồi, anh ta nói tiếp cho Sarah.
Sarah dìu em gái mình về ghế ngồi.
- Chị sẽ ở lại đây với em. Bắt đầu từ bây giờ, chị không muốn em trả lời cho bất cứ một câu hỏi nào hết.
Laurie lấy tay che mặt mình lại. Tóc của cô xõa ra phía trước, phủ kín hết mặt cô.
- Cô Kenyon, tôi có thể nói chuyện với cô được không? Tôi là Frank Reeves. Sarah trông mặt của vị thanh tra lớn tuổi rất quen với chị. Ông ta đã cung khai trước tòa trong một vụ án của chị. Ông ta kéo chị ta ra xa một chút. “Tôi e là chứng cứ quá rõ ràng. Ngày hôm qua, em của cô đã hăm dọa giáo sư Grant. Sáng nay, trước khi người ta phát giác ra thi thể của ông ta, em của cô đã nói trong một lớp học trước mặt rất nhiều sinh viên là ông ấy đã chết rồi. Người ta đã tìm thấy giấu trong phòng cô con dao mà chắc chắn đó là hung khí. Cô đã giặt sạch quần áo và các tấm phủ giường, nhưng vẫn còn nhiều vết máu mờ nhạt. Kết quả của phòng giám nghiệm sẽ chứng minh điều đó cho chúng ta.
- Sarah… ơi.
Sarah quay người lại. Bây giờ cô nhìn thấy một Laurie hoàn toàn khác với cô Laurie em của chị. Một dáng vẻ khác lạ với một giọng của một đứa con nít. Giọng của một đứa con nít ba tuổi “Sarah…ơi” Laurie đã gọi như thế khi cô còn bé. “Sarah…ơi, em muốn con gấu nhồi bông của em”.
Sarah nắm tay Laurie trong lúc người ta đọc cho cô nghe lời buộc tội. Ông chánh án cho biết tiền ký quỹ để tại ngoại sẽ là năm mươi ngàn đôla. Cô hứa với Laurie:
- Chị sẽ làm cho em ra khỏi đây trong một hay hai giờ nữa thôi.
Bị lạnh cóng, cô nhìn cô em Laurie bước đi với đôi tay bị còng, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Gregg Bennett đã đến trụ sở cảnh sát trong khi cô đang điền vào mẫu đóng tiền ký quỹ. “Chị Sarah!”. Cô ngước mắt lên và nhìn thấy bộ mặt của anh chàng cũng xúc động và tuyệt vọng như cô vậy. Cô đã không gặp cậu ta từ nhiều tháng nay. Trước kia Laurie dường như đã quá hạnh phúc với cậu ta.
- Chị Sarah ơi, Laurie tự ý mình cũng không làm hại ngay cả con muỗi. Có một cái gì đó làm cô ấy rối loạn.
- Tôi biết! Tôi sẽ bào chữa với lý do mắc bệnh tâm thần. Một chứng rồ dại bộc phát trong lúc thực hiện án mạng. Khi nói mấy câu này, Sarah nhớ đến tất cả mấy vị luật sư đã từng dùng phương cách bào chữa này mà cô đã đánh tan các luận chứng. Lý do đó ít khi thành công lắm. Cách hay nhất mà người ta có thể đạt được là phải tạo được một mối nghi ngờ đủ mạnh để cứu bị can khỏi án tử hình.
Sarah nhận thấy Gregg đã đặt tay cậu ta lên vai của mình.
- Tôi nghĩ chị nên uống một tách cà phê đi, cậu ta đề nghị. Hình như chị vẫn thích uống đen phải không?
- Đúng vậy!
Cậu ta trở lại với hai ly cà phê đen nóng hổi trong khi chị điền vào trang chót của mẫu in sẵn, rồi sau đó đứng chờ với chị trong khi người ta tiếp nhận nó. Anh chàng này rất dễ thương, Sarah thầm nghĩ. Tại sao Laurie không thể yêu cậu ta được kia chứ? Tại sao lại chọn một người đã có vợ rồi? Có thể nào cô đã chọn Allan Grant làm một người cha thay thế không? Từ từ bình tĩnh trở lại, Sarah mới nghĩ đến ông Grant, đến cách mà ông đã chạy đến khi Laurie ngất xỉu. Có thể nào bằng cách này hay cách khác ông ta muốn quyến rũ con bé không? Có thể nào ông ấy đã lạm dụng cô trong một khoảnh khắc nào đó mà cảm xúc cô đang bị dao động không? Ngay lúc này Sarah mới nhận ra là các luận chứng để bào chữa đang lần lượt được hình thành trong đầu của mình.
Đến sáu giờ mười lăm, Laurie được bảo lãnh cho tại ngoại. Cô bước ra khỏi phòng giam cùng với người canh giữ mặc đồng phục. Khi cô thấy hai người kia, hai chân cô muốn khuỵu xuống nên Gregg phải chạy lại đỡ cô. Laurie rên rỉ khi anh ôm cô rồi đột nhiên cô gào lên “Sarah ơi, đừng để cho anh ta hại em!”
43
Vào lúc mười một giờ sáng thứ tư, chuông điện thoại reo vang trong văn phòng của hãng lữ hành Global nằm trong Toà nhà Madison Arms, trên đường 76 Đông của khu Manhattan.
Karen Grant sắp sửa đi ra ngoài. Bà hơi do dự và nói qua vai của mình:
- Nếu có ai gọi điện cho tôi, hãy nói giùm là tôi sẽ trở về sau mười phút. Tôi có chuyện cần phải làm ngay.
Connie Santini, cô thơ ký của hãng, nhấc máy lên nghe. “Hãng Lữ hành Global xin chào”. Cô lắng nghe. “Bà Karen mới vừa đi khỏi đây và sẽ trở về trong vài phút nữa”. Giọng của cô không êm ái chút nào.
Arrne Webster, bà chủ hãng, đang đứng cạnh tủ hồ sơ. Bà xoay mặt lại. Có thể Corrnie là một cô thơ ký giỏi, nhưng đối với bà, cô chưa đủ nhã nhặn trên điện thoại.
- Cô phải luôn bắt chước giọng nói của người đối thoại với mình, bà rầy la cô. Nếu nó liên quan đến nghề nghiệp, cô có thể yêu cầu sự giúp đỡ của một người khác.
- Phải, bà ta sẽ trở về đây sau vài phút nữa, Connie đáp lại. Có gì đặc biệt không?
Anne bỏ đi lại bàn làm việc của Connie và chụp lấy điện thoại trên tay cô:
- Anne Webster nghe đây, tôi có giúp ích được gì không?
Trong suốt sáu mươi chín năm của bà, rất nhiều lần Anne nhận được tin xấu trên điện thoại, liên quan đến một người bà con hay bạn bè. Khi người đối thoại của bà cho biết ông ta là vị khoa trưởng Larkin của trường đại học Clinton, bà biết chắc chắc là Allan đã gặp nạn rồi.
- Tôi là sếp và là bạn của Karen đây, bà trả lời. Bà ta vừa có chuyện phải ra ngoài hành lang một chút. Tôi sẽ đi gọi bà ta ngay nếu ông muốn.
Bà nghe ông Larkin nói bằng một giọng phân vân.
- Tôi nghĩ tốt hơn hết tôi nên cho bà biết trước. Tôi định đích thân đến báo cho Karen, nhưng tôi rất sợ bà ta hay biết được tin đó qua radio hay một phóng viên gọi cho bà ta trước khi tôi đến nơi.
Bà Anne Webster sửng sốt nghe báo tin vụ Allan Grant bị giết chết.
- Tôi sẽ làm điều đó cho, bà đáp lại.
Bà gác máy với đôi mắt ràn rụa nước mắt rồi kể lại cho Connie.
“Một trong số sinh viên của Allan có viết cho ông ta nhiều bức thư tình. Ông ấy đã trình chúng lên ban điều hành. Ngày hôm qua, một cô sinh viên đã gây một vụ xìcăngđan quá đáng và hăm đọa ông ta. Lúc sáng nay, trong khi Allan chưa đến dạy, chính cô sinh viên đó đã tuyên bố trước mặt mọi người là ông ta chết rồi. Họ tìm thấy ông ta nằm chết trên giường, bị đâm ngay giữa tim. Ôi, tội cho Karen quá!”
- Bà ta về kìa. Connie thốt lên.
Qua khung kính phân chia văn phòng với hành lang chánh, họ nhìn thấy Karen đang đi tới… Bước chân của bà thật nhanh nhẹn với nụ cười nở trên môi. Bộ quần áo theo kiểu Nhật, với các nút bằng hạt trai, làm nổi bật thân hình người mẫu của bà ta. Hiển nhiên là chuyến đi ra ngoài này thật khả quan.
Webster cắn môi lại. Làm cách nào để báo tin này cho bà ta bây giờ? Hay là nói một tai nạn đã xảy ra và chờ cho đến khi họ về đến Clinton rồi hẵng hay? Ồ Chúa ơi, bà cầu nguyện, hãy cho con sức mạnh mà con đang rất cần.
Cửa bật mở.
- Bọn họ đã xin lỗi rồi, Karen tuyên bố bằng một giọng chiến thắng. Họ chấp nhận là do lỗi của họ. Và rồi nụ cười biến mất. Mà Anne, có chuyện gì vậy?
- Allan chết rồi. Sững sờ, Webster nghe những từ này thốt ra từ miệng của mình.
- Allan? Chết à? Giọng của Karen tỏ vẻ ngờ vực, tựa như thể bà không hiểu câu nói vừa rồi. Rồi bà lặp lại “Allan, chết rồi sao?”
Anne Webster và Connie Santini nhìn thấy mặt bà ta trở nên trắng bệt như của một xác chết và cả hai bỏ chạy lại đỡ bà ta. Mỗi người nâng một bên cánh tay, họ giúp bà ngồi xuống cái ghế bành.
- Làm sao vậy? Karen hỏi bằng một giọng đều đều. Bằng xe hơi à? Cái thắng không tốt cho lắm, tôi đã báo cho ông ta rồi. Ông chẳng bao giờ quan tâm đến những chuyện như thế cả.
- Ồ Karen ơi! Bà Webster ôm lấy đôi vai run rẩy của người phụ nữ kia.
Chính Connie Santini cho biết tất cả các chi tiết, gọi điện cho gara, yêu cầu họ mang chiếc xe của Karen đến ngay, lấy các áo choàng, bao tay và túi xách. Karen từ chối lời đề nghị vì phải có một người nào đó ở lại văn phòng công ty.
Karen một mực đòi lái xe cho bằng được.
- Anne, chị không biết đường đâu.
Trong suốt lộ trình, mắt của bà ta ráo hoảnh và bà nói về Allan như thể ông ta vẫn còn sống vậy.
- Đó là người đàn ông dễ thương nhất trên đời, và còn hào phóng nữa chứ. Đó là người đàn ông tao nhã nhất mà tôi từng biết, tôi nhớ lại…
Anne Webster cám ơn trời đã cho dòng xe thưa thớt như thế. Người ta có cảm tưởng rằng Karen được cài vào hệ thống lái xe tự động vậy. Họ đi ngang qua phi trường Newark và tiến vào quốc lộ 78.
- Tôi quen Allan trong một chuyến du lịch, Karen nói tiếp. Tôi hướng dẫn một nhóm khách qua Nhật Bản và vào giờ chót ông mới gia nhập nhóm chúng tôi. Đã sáu năm rồi, trong dịp nghỉ hè. Mẹ ông ấy đã chết trong năm đó. Ông không biết mình phải đi đâu trong dịp lễ Noel mà cũng không muốn ở lại trường đại học. Trong chuyến về, khi chúng tôi đáp xuống phi trường Newark, chúng tôi đã đính hôn. Tôi đặt cho ông ta cái biệt danh “Ông Chips”
Đến gần trưa họ mới về đến Clinton. Chỉ khi thấy vòng rào an ninh quanh ngôi nhà, Karen mới bật khóc.
- Cho đến giây phút này, tôi cứ ngỡ đây là một cơn ác mộng, bà thì thầm.
Một cảnh sát viên chặn họ trên lối đi, nhưng sau đó tránh thật mau để cho chiếc xe đi qua. Đèn flash chớp liên tục khi hai người phụ nữ xuống xe. Anne choàng một cánh tay trợ lực quanh vai Karen, giúp bà ta vượt qua cái khoảng cách vài ba thước đến cửa ra vào.
Trong nhà đầy rẫy nhân viên cảnh sát, từ trong phòng khách, nhà bếp và ngay trong hành lang dẫn đến các phòng. Karen tiến bước trong hành lang.
- Tôi muốn thấy mặt chồng tôi, bà nói.
Một người đàn ông tóc muối tiêu chặn bà lại, rồi dẫn bà ra phòng khách.
- Tôi là thanh tra Reeves, ông tự giới thiệu. Thưa bà Grant, tôi thành thật hối tiếc nhưng chúng tôi đã đem ông ấy đi rồi. Sau này bà sẽ thấy mặt ông.
Karen run lên.
- Chính con nhỏ đó đã giết chết ông ấy? Nó đâu rồi?
- Cô đó đã bị bắt rồi.
- Tại sao nó lại giết chết ông ấy như thế? Ông ấy đã quá tử tế với nó kia mà!
- Cô quả quyết là mình vô tội, bà Grant à, nhưng chúng tôi có tìm thấy trong phòng cô một con dao mà có thể đó là hung khí.
Rồi bà Karen suy sụp hoàn toàn. Anne Webster cũng đã nghĩ đến tình huống này. Người phụ nữ đó hét lên một tiếng thất thanh, nửa cười nửa khóc, và bị ngay một cơn khủng hoảng thần kinh.