THÙNG NƯỚC LÈO Nguyên Tác: BOULE DE SUIF -GUY DE MAUPASSANT
Độc giả ít ai còn lạ với Guy de Maupassant (1850-1893) nên chúng tôi không cần phải giới thiệu nhiều. Ông với Honoré Balzac (1799-1850) là hai tiểu thuyết gia Pháp ở thế kỉ trước được Âu, Mĩ, mà có lẽ cả thế giới khâm phục nhất.
.
Guy de Maupassant
(1850-1893)
Anatole France bảo “nghệ thuật viết truyện của ông hoàn toàn: mạnh mẽ, uyển chuyển mà cân xứng”. Léon Tolstoi khen ông là “đã đạt được những chỗ thâm áo yên lặng của con người”. Còn những tiểu thuyết gia Anh như Joseph Conrad và William Somerset Maugham đều nhận rằng “tài kể chuyện của ông thì không ai bằng”; nhất là Maugham coi ông như bậc thầy của mình, chịu phục rằng nhiều truyện ngắn của ông, không dư mà cũng không thiếu một chi tiết, đem kể ra thì bất kì ai nghe cũng phải mê.
Tác phẩm của ông gồm non hai chục cuốn vừa truyện ngắn, truyện dài (không kể một tập thơ). Nhiều nhà phê bình đồng ý rằng truyện dài hay nhất của ông là Une Vie (Một đời sống); còn truyện ngắn xuất sắc nhất là Boule de Suif[1] mà chúng tôi dịch là Thùng Nước Lèo. Chính truyện ngắn này đã được nhà xuất bản Seghers lựa trong tập Les Vingt meilleures nouvelle française (1956) và nhà Pocket Library trích và ca tụng trong tập: The great short stories of De Maupassant (1955).
Trong khoảng bốn chục trang, tác giả kể cho ta nghe một bi hài kịch thời chiến tranh Pháp – Phổ (1870). Nhân vật gần đủ các giới trong xã hội Pháp thời đó: giới quí phái, giới con buôn trọc phú, giới cách mạng, giới cần lao… nhân vật chính là một gái điếm, mà hạng người còn có liêm sỉ giữ được chút thiên lương lại chính là ả gái điếm đó chứ không phải là bọn thượng lưu như ta tưởng.
Ông không giảng luân lí, không dựng một triết thuyết, không phân tích tâm lí, cơ hồ như cũng không có thắc mắc nào cả, chỉ kể chuyện một cách khách quan, không thương cũng không ghét, mà rất có nghệ thuật, tình tiết xảy ra tự nhiên, đoạn trước gợi ra đoạn sau, đoạn sau giảng thêm đoạn trước, thành thử câu chuyện rất nhất trí, mạnh mẽ, đầy đủ mà hấp dẫn, đọc không thấy chán. Đọc xong ai cũng thấy chua chát và có cảm tưởng rằng tác giả nhìn xã hội mắt một cặp mắt tinh quái, ngạo đời, nhưng không tàn nhẫn.
Riêng chúng tôi, chúng tôi thấy có vài nét hơi đậm, mạnh và bén thật, nhưng kém phần tế nhị; có lẽ đó là một tật chung của tuổi trẻ vì ông viết chuyện đó hồi mới ngoài hai mươi. Những tác phẩm hồi sau giọng đằm khi đã từng trải nhiều, lòng trắc ẩn của ông mới hiện rõ, như trong truyện dài Une Vie chẳng hạn.
Dù sao, văn mỗi tuổi cũng có vẻ đẹp riêng của nó, và Thùng Nước Lèo vẫn đáng là “một trong những bi kịch hay nhất của hậu bán thế kỉ trước”[2].
THÙNG NƯỚC LÈO BOULE DE SUIF[3]
Luôn mấy ngày liền, những mảnh tàn quân đã đi qua châu thành. Không còn phải là một bộ đội nữa mà chỉ là một bầy ô hợp tán loạn. Râu thì dài và bẩn, quân phục thì rách rưới, họ uể oải tiến, chẳng cờ xí, chẳng kỷ luật gì cả. Hết thảy đều có vẻ mệt đừ, không suy nghĩ, quyết định được gì nữa, chỉ do thói quen mà bước, chứ hễ dừng lại là té quị liền vì kiệt sức. Nhiều nhất là bọn bị động viên, hạng người vốn hiếu hòa, yên nhiên hưởng lợi tức đó mang không nổi cây súng; rồi tới bọn dân quân nhỏ bé, nhanh nhẹn, dễ hoảng hốt mà cũng dễ hăng tiết, sẵn sàng chiến đấu mà cũng sẵn sàng đào tẩu; xen vào những bọn đó có vài tên lính chánh qui, quần cụt đỏ đã mệt đừ, còn sót lại sau một trận lớn; một số lính pháo thủ ủ rủ sắp hàng với những bộ binh hỗn tạp đó; và thỉnh thoảng người ta thấy cái nón bóng loáng của một kị binh nặng nề bước mà theo không kịp bọn phóng viên nhanh nhẹn.
Tới phiên những đoàn nghĩa dũng quân đi ngang qua, tên thì rất oai hùng: “Đội trả thù Chiến bại – Đội Công dân của Nhà mồ - Đội Chia phần chết”, mà vẻ mặt thì y như tụi ăn cướp.
Chủ soái của họ, xưa kia buôn nỉ hay buôn lúa, bán mỡ bò hay bán xà bong, do hoàn cảnh mà thành chiến sĩ, nhờ có nhiều tiền hay có bộ râu mép dài mà được phong làm sĩ quan, mình đeo đầy khí giới, bận đồ nỉ, gắn lon, bàn cãi oang oang về những trận đồ, phách lối khoe khoang rằng chỉ có mình là đưa vai ra để chống đỡ nước Pháp hấp hối; nhưng đôi khi họ sợ ngay những lính của họ, bọn đầu trộm đuôi cướp, thường can đảm ghê gớm, phá phách và trụy lạc.
Tụi Phổ sắp vô thành Rouen, người ta bảo vậy.
Đội dân quân, hai tháng nay, thận trọng dò xét trong những cánh rừng bên cạnh, có khi bắn lầm vào lính gác của mình, và mới nghe thấy tiếng động của một con thỏ con ở trong bụi là đã lắp đạn sẵn sàng chiến đấu rồi, bây giờ cũng đã giải tán, ai về nhà nấy. Khí giới của họ, quân phục của họ, tất cả những khí cụ sát nhân của họ trước kia làm cho các cây trụ trên quốc lộ trong một khu rộng ba dặm ở chung quanh phải bở vía, bỗng biến đi đâu mất hết.
Những người lính Pháp cuối cùng mới qua con sông Seine để theo đường Saint-Sever, Bourg-Achard mà tới Pont-Audemer, và ở cuối đoàn, viên tướng tuyệt vọng, vô phương mưu tính cái gì được với bọn tàn quân rời rạc đó, đành bước theo họ, giữa hai sĩ quan hầu cận. Vì chính ông cũng ngơ ngác trong cuộc tan rã lớn lao của một dân tộc quen thắng trận mà rồi thua một cách tai hại mặc dầu khét tiếng hùng dũng.
Rồi thì một không khí trầm lặng, chờ đợi, hoảng hốt, bao phủ khắp châu thành. Nhiều ông trọc phú[4] buôn bán riết rồi hóa ra bụng bự, mất cả khí lực y như một tụi hoạn, lo lắng run rẩy đợi kẻ thắng tới, chỉ sợ chúng cho những cây tiêm nướng thịt và những con dao phay là khí giới thì có mà bỏ mạng với chúng.
Đời sống như ngưng lại; tiệm thì đóng cửa, mà đường phố thì không có tiếng người. Thỉnh thoảng một thường dân thấy cảnh tĩnh mịch đó đâm hoảng, nép vào chân tường mà chạy.
Đợi chỉ thêm lo, nên người ta mong kẻ thù tới phắt đi cho rồi.
Buổi chiều sau cái ngày quân Pháp rút đi, vài tên kị binh Phổ, không biết ở xó nào chui ra, vội vã băng qua châu thành. Rồi một lát sau một đám đen từ dốc Sainte-Catherine tiến xuống trong khi hai đợt sóng xâm lăng xuất hiện trên những con đường Darnetal và Boisguillaume. Cùng một lúc, tiền quân của ba đội đó hợp nhau lại ở Thị Sảnh, và do tất cả những đường phố chung quanh, quân Đức ập tới, trải ra trên đường, bước chân gõ nhịp nhàng vang động.
Trong khi những hiệu lệnh hô lớn bằng một giọng lạ tai, ồ ồ dội lên giữa hai dãy nhà như bỏ hoang, thì sau những cánh cửa sổ khép, có những cặp mắt rình ngó bọn người thắng trận, bọn người do “quyền chiến tranh” mà được làm chủ châu thành, chủ tài sản và sinh mạng. Ở trong căn phòng tối tăm vì đóng kín, dân chúng hoảng sợ như gặp thiên tai, những cuộc biến chuyển tàn hại của trái đất mà kẻ nào khôn lanh, mạnh mẽ tới mấy cũng đành thúc thủ. Vì mỗi lần mà trật tự bị đảo lộn làm mất sự an toàn, mà luật lệ của loài người và vũ trụ không còn che chở được cái gì nữa, mà mọi sự đều bị một sức tàn bạo vô ý thức chi phối, thì cái cảm giác đó lại hiện lên. Một cuộc động đất đè bẹp cả một dân tộc dưới những ngôi nhà sụp đổ; một trận lụt cuốn thây những người nông dân với thây những con bò hay những cây xà nhà bức lìa nóc, hoặc một đội quân thắng trận tàn sát những kẻ dám chống cự lại, lùa bọn tù binh đi, rồi nhân danh lưỡi kiếm mà cướp bóc, và cảm ơn một vị Thần nào đó bằng tiếng đại bác; những cái đó đều là những tai ách khủng khiếp làm cho người ta chưng hửng, hết tin ở lẽ công bình của Thượng đế, hết tin ở sự che chở của Trời và ở lẽ phải của loài người như trong sách thường dạy.
Kế đó những toán người đi gõ cửa từng nhà và biến mất vào trong nhà. Sau khi chiếm đất rồi tới lúc đóng quân. Bổn phận của kẻ thua là phải tỏ ra ân cần với kẻ thắng.
Được ít lâu, sự hoảng sợ lúc đầu đã qua, sự yên tĩnh trở lại. Trong nhiều gia đình, sĩ quan Phổ ăn chung một bàn với chủ nhà. Vài kẻ cũng có giáo dục, tỏ vẻ nhã nhặn mà thương hại cho nước Pháp và bảo rằng không muốn dự cái chiến tranh này, nó tởm lắm. Người ta mang ơn họ đã có thiện cảm với mình, vả lại, biết đâu chừng, sau này chẳng có lúc cần sự che chở của họ. Vị nể họ thì có thể xin bớt được vài miệng phải nuôi. Đã hoàn toàn ở trong tay họ rồi thì làm mất lòng họ làm chi? Hành động như vậy không phải là can đảm mà là táo bạo – Mà các ông trọc phú ở Rouen không còn cái tật táo bạo như hồi xưa, hồi châu thành đó rạng danh vì những cuộc chống cự anh dũng nữa – Sau cùng người ta tự nhủ rằng – và đây là cái lý do tối thượng người ta rút được trong phép lịch sự của Pháp – miễn là ra ngoài đường đừng tỏ ra thân mật với lính ngoại quốc, còn ở trong nhà thì có thể lễ phép với họ được. Ra ngoài, thì là người lạ, mà ở nhà thì cứ vui vẻ chuyện trò; và người Đức mỗi buổi tối lại ngồi sưởi nán thêm một lúc ở bên lò sưởi chung.
Đến ngay châu thành cũng lần lần có vẻ bình thường trở lại. Người Pháp vẫn chưa ra đường nhưng lính Phổ thì lúc nhúc ngoài phố. Với lại, bọn sĩ quan khinh kị bận đồ xanh, tuy ngạo nghễ kéo lê thanh gươm trên mặt đường, nhưng đối với bọn dân chất phác, coi vẻ cũng không khinh họ gì quá lắm, không khó chịu gì hơn bọn sĩ quan truy kích mà năm trước, từng giải khát ở những quán cà phê này.
Nhưng trong không khí vẫn có cái gì, một cái gì tế nhị và bí mật, một không khí lạ, chịu không nổi, như có một mùi gì nó lan ra, mùi xâm lăng. Nó đầy trong các tư gia, trong các công trường, làm cho thức ăn mất vị và người ta có cảm tưởng đi du lịch ở đâu xa lắm, tại những bộ lạc dã man và nguy hiểm.
Tụi thắng trận đòi tiền, rất nhiều tiền. Dân châu thành luôn luôn phải trả; với lại người ta giàu có mà. Nhưng một thương gia càng giàu có, thì lại càng đau khổ vì phải hi sinh của cải khi thấy đồng tiền kiếm ra được vào tay kẻ khác mất.
Tuy nhiên theo dòng sông đi xuôi xuống phía dưới châu thành độ vài ba dặm, về phía Croisset, Dieppedalle hoặc Biessart, những người chèo thuyền hay đánh cá thường kéo lên được ở đáy sông xác một tên Đức bận quân phục; đã trương ra, bị đâm hay đập, liệng đá bể đầu hay từ trên cầu cao xô xuống dòng nước. Bùn sông vùi lấp những cuộc trả thù tối tăm, man rợ, âm thầm đó, nó nguy hiểm hơn những cuộc chiến đấu giữa thanh thiên bạch nhật mà lại không có tiếng vang của danh vọng.
Vì luôn luôn có những người Đại đởm căm thù kẻ ngoại quốc mà sẵn sàng chết cho một lí tưởng.
Sau cùng, thấy bọn xâm lăng mặc dầu bắt châu thành phải phục tòng một kỉ luật sắt, nhưng không có những hành động ghê tởm mà người ta phao lên trong cuộc tiến binh đắc thắng của họ, nên dân chúng bạo dạn lên và bọn thương gia lại thấy cần phải buôn bán, không thể ngồi không được. Vài người có những mối lợi lớn mắc kẹt ở Havre còn do quân đội Pháp chiếm, và họ muốn đi theo đường bộ tới Dieppe rồi xuống thuyền ra hải cảng đó.
Người ta làm quen với sĩ quan Đức, vận động xin viên tướng tổng tư lệnh một giấy phép xuất hành.
Một chiếc xe lớn bốn ngựa đã được giữ trước cho cuộc hành trình đó, mười người đã ghi tên ở nhà chủ xe, và người ta định sáng thứ ba, khởi hành khi còn tối đất để đi cho dân chúng khỏi bu lại coi.
Từ mấy bữa nay, đất đóng giá, cứng ngắc, và vào khoảng ba giờ chiều hôm thứ hai, những đám mây đen từ phương Bắc đùn về rồi tuyết đổ liên tiếp suốt buổi tối và ban đêm.
Bốn giờ rưỡi sáng, hành khách họp nhau ở sân khách sạn Hôtel de Normandie để lên xe.
Họ còn ngái ngủ, quấn mền mà vẫn rét run. Trong bóng tối người ta không thấy rõ mặt nhau; người nào cũng bận những bộ áo lạnh dày cộm và nặng nề, coi y như là những ông mục sư bụng bự lượt bượt trong bộ áo thầy tu vậy. Nhưng có hai người nhận được nhau, rồi một người thứ ba tiến lại, họ trò chuyện với nhau.
Một người nói:
- Tôi dắt nhà tôi theo.
- Tôi cũng vậy.
- Mà tôi cũng thế.
Người thứ nhất nói thêm:
- Chúng tôi sẽ không trở về Rouen nữa và nếu tụi Phổ tiến lại Havre thì chúng tôi sẽ qua Anh.
Khí chất giống nhau nên dự tính của họ cũng giống nhau.
Nhưng sao vẫn chưa thắng xe kìa? Một ngọn đèn nhỏ - do một tên giữ ngựa cầm – thỉnh thoảng ở trong một cái cửa tối om hiện ra rồi lại biến ngay vào trong một cái cửa khác. Ở phía sau nhà có tiếng chân ngựa dậm đất, nhưng nghe không vang vì đất phủ rơm, rồi có tiếng đàn ông nói với ngựa và chửi thề. Tiếng lục lạc leng keng báo rằng người ta lấy bộ cương ra, rồi tiếng đó rung lên, trong trẻo, đều đều, nhịp nhàng theo bước chân ngựa, thỉnh thoảng ngưng một chút rồi thình lình khua động trở lại, tiếp theo là tiếng lục đục của những móng sắt dậm trên mặt đất.
Đột nhiên cửa khép lại. Mọi tiếng ngưng hẳn. Bọn trọc phú lạnh cóng, cứng ngắc, không nói năng gì cả.
Một bức màn tuyết trắng bất tận, liên tục rớt xuống đất, lấp lánh; mọi vật đều mất hình, phủ một lớp bụi như bọt nước đá; và trong cảnh tĩnh mịch của thành phố yên lặng, bị vùi dưới mùa đông, người ta chỉ nghe thấy tiếng sột soạt mơ hồ, chập chờn, không có tên để gọi, của tuyết rơi; nó là một cảm giác hơn là tiếng động, nó là sự xen trộn của những vật rất nhỏ và nhẹ đầy cả không trung, khắp cả mặt đất.
Người đàn ông mang cây đèn hiện ra, tay cầm đầu dây kéo một con ngựa; con vật buồn rầu miễn cưỡng bước. Người đó ghìm con ngựa ở sát càng xe, cột lại, loay hoay một lúc lâu ở chung quanh để thắng cho được chắc, vì một tay mắc cầm đèn rồi, chỉ có một tay là rảnh. Khi người đó quay lại kiếm con ngựa thứ nhì thì nhận thấy rằng hành khách đứng im, tuyết đầy người, bèn bảo: “Tại sao không lên xe mà ngồi, ít nhất cũng khỏi phải hứng tuyết.”
Có lẽ họ không hề nghĩ tới, nay có người nhắc, họ mới ùa lên xe. Ba người đàn ông để cho vợ ngồi trong cùng rồi leo lên theo; những bóng tờ mờ tùm hụp khác lẳng lặng lên chiếm những chỗ còn lại.
Sàn xe phủ đầy rơm, chân họ lún xuống. Những bà ngồi ở trong có đem theo lồng ấp nhỏ bằng đồng, đốt thứ than hóa học lên rồi thì thầm kể những tiện lợi của thứ lồng ấp đó cho nhau nghe, lặp lại những điều mà ai nấy biết thừa rồi.
Sau cùng xe đã thắng xong sáu con ngựa chứ không phải bốn, vì phải kéo nặng. Một tiếng ở ngoài hỏi vô: “Mọi người lên xe cả rồi chứ?” Có tiếng ở trong đáp: “Rồi”. Thế là khởi hành.
Xe tiến chậm, chậm quá, từng bước một. Bánh xe lún xuống tuyết; thùng xe rắc rắc, rên rỉ; ngựa trượt chân thở phì phì; và chiếc roi lớn của người đánh xe, kêu đôm đốp hoài, bay tứ phía, cuốn lại rồi bung ra như một con rắn tong teo, thình lình quất vào một cái mông ngựa tròn, làm cho con vật phải lấy gân mà gắng sức.
Ánh sáng lên lần lần mà không hay. Tuyết không đổ nữa. Một hành khách, dân Rouen chính cống, so sánh tuyết đổ với một trận mưa bông gòn. Một ánh sáng đục lọc qua những đám mây lớn, đen và nặng, làm cho cảnh đồng quê trắng xóa càng thêm phần rực rỡ; đây đó hiện lên một hàng cây lớn đóng giá hoặc một mái nhà tranh phủ tuyết.
Trong ánh sáng ảm đạm của bình minh, hành khách trên xe nhìn nhau.
Ở trong cùng, chiếm những chỗ tốt nhất, vợ chồng Loiseau, buôn rượu ở đường Grand-Pont, đương thiêm thiếp ngủ.
Trước kia làm tài phú cho một nhà buôn, nhà buôn này phá sản, Loiseau mua lại cửa tiệm mà làm giàu. Hắn bán rất rẻ những thứ rượu rất tồi cho các tiệm bán lẻ ở nhà quê và trong giới quen biết thân hay sơ, người ta đều coi hắn là một tên bợm quỷ quyệt, một dân Normand chính cống, mưu mô, vui tính.
Hắn nổi danh xoáy đến nỗi một buổi tối nọ ở quận, ông Tournel, một nhà đặt ngụ ngôn và vè có giọng cay độc và tế nhị, được nhiều người trong miền biết tiếng, khi thấy các bà các cô buồn ngủ cả, mới đề nghị chơi trò “Loiseau bay”[5] rồi danh từ đó bay khắp các phòng khách ở quận, lan ra tới tỉnh, làm cho dân trong tỉnh cười sái hàm suốt một tháng trời.
Loiseau còn có tài khôi hài, thanh nhã và tục tĩu, đủ giọng, và nhắc đến tên hắn thì ai cũng phải bảo:
- Thằng cha đó thật tức cười!
Nhỏ con mà bụng tròn như trái banh, mặt đỏ, râu mép lốm đốm hoa râm.
Mụ vợ cao lớn, cương quyết, to tiếng, quyết định mau, trông nom sổ sách tiền nong trong cửa hàng, nhờ mụ mà cửa hàng hoạt động và vui vẻ. Bên cạnh cặp đó, là lão Carré-Lamadon, đàng hoàng hơn, ở trong một giới sang trọng hơn, được trọng vọng, có địa vị trong nghề buôn bông, làm chủ ba hãng dệt, được thưởng Tứ đẳng Bắc đẩu bội tinh và là nghị viên quận hạt. Trong suốt thời Empir[6]. Lão cầm đầu phe đối lập có thiện chí, đả kích bằng những khí giới lễ độ - như lão nói – mục đích duy nhất là để cho chính quyền có muốn mua chuộc hắn thì phải trả một giá đắt. Mụ Carré-Lamadon trẻ hơn ông chồng nhiều, là niềm an ủi cho những sĩ quan con nhà sang trọng phải đổi đến đóng ở Rouen.
Đối diện với chồng, mụ ta nhỏ xíu rất dễ thương, rất xinh xắn, thu hình trong bộ áo cầu, não nuột ngó phía trong thảm hại của chiếc xe.
Ngồi bên cạnh mụ là ông bà bá tước Hubert de Bréville một trong số những gia đình quí phái kì cựu nhất ở Normandie. Ông bá tước già, rất sang trọng, tướng mạo vốn đã hơi giống vua Henri IV lại được ông rán tô chuốt cho càng giống hệt. Theo một truyền thuyết vẻ vang cho gia đình ông thì vua Henri IV hồi xưa có làm cho một bà trong giòng Bréville mang bầu rồi ông chồng của bà đó nhờ vậy được phong bá tước, làm thống đốc một tỉnh.
Bá tước Hubert là bạn đồng viện với lão Carré-Lamadon, thay mặt cho đảng Orléan ở trong tỉnh. Tại sao mà ông lại cưới con gái một chủ tàu nhỏ ở Nanter, thì tới bây giờ vẫn là chuyện bí mật. Nhưng bà bá tước có vẻ sang trọng tiếp khách rất khéo, có kẻ đồn rằng bà được một người con của vua Louis-Phillipe[7] để mắt tới, thành thử tất cả giới quí phái trong miền rất niềm nở với bà mà phòng khách của bà nổi tiếng nhất tỉnh, khó khăn mới được vô cái nơi độc nhất mà người ta còn giữ được thái độ phong nhã thời cổ đó.
Gia tài của gia đình Bréville, gồm toàn bất động sản, theo thiên hạ kháo nhau, lợi tức được tới năm trăm ngàn đồng mỗi năm.
Sáu người đó, ngồi ở phía trong cùng chiếc xe. Đó là khu của giới có lợi tức, của bọn người lương thiện, có quyền hành, theo tôn giáo và sống có qui tắc.
Do một sự ngẫu nhiên kỳ dị, đàn bà ngồi chung cả một ghế; và bên cạnh bà bá tước có hai bà Phước đương lần tràng hạt lầm rầm tụng kinh Lạy cha và kinh Kính mừng. Một bà Phước đã già, mặt rỗ như tổ ong. Bà kia rất nhỏ yếu, mặt mũi xinh mà bệnh hoạn, ngực lép như người ho lao bị đức tin tàn phá đục rỗng phổi, thứ đức tin nó tạo nên những kẻ cảm tử vì đạo.
Trước mặt hai bà Phước đó là một người đàn ông và một người đàn bà mà mọi người đều chăm chú ngó. Người đàn ông là Cornudet, biệt danh “dân chủ” mà ai cũng biết hắn là ông kẹ của hạng tôn tưởng. Từ hai chục năm nay, hắn nhúng bộ râu đỏ và rậm vào những cốc rượu tại khắp tiệm cà phê dân chủ. Hắn cùng với anh em và bạn bè đã ăn hết cái gia sản khá lớn của cha hắn bán mứt để lại, và hắn nóng lòng đợi Chính phủ Cộng hòa thành lập để nhận một địa vị xứng đáng cho bỏ cái công hắn uống bao nhiêu là rượu dân chủ rồi. Ngày mùng bốn tháng chín[8], có lẽ do một trò khôi hài, hắn tưởng được chức chủ quận, nhưng khi hắn tới nhậm chức, thì chỉ có những tùy phái là làm chủ phòng giấy, họ lại không chịu nhìn nhận hắn và hắn đành rút lui. Thực ra thì hắn tốt bụng, không làm hại ai, thích giúp đỡ người khác, hắn tổ chức sự cự địch một cách hăng hái không ai bì. Hắn sai đào hầm trong các cánh đồng, hạ những cây nhỏ trong các khu rừng bên cạnh, đặt bẫy trên khắp các nẻo đường và khi quân thù sắp tới, khoái chí về những công trình dự bị của mình, hắn vội vàng rút về châu thành. Bây giờ hắn nghĩ nên lại Havre để giúp ích cho quốc gia được nhiều hơn, vì ở đó sắp có những cuộc phòng bị cần thiết nữa.
Còn người đàn bà, một ả trong bọn gái điếm, cũng nổi tiếng, vì còn trẻ mà đã mập, cho nên người ta gọi ả là Thùng Nước Lèo. Nhỏ mà tròn vo, toàn những mỡ, ngón tay húp lên, thắt eo ở những đốt, y như chuỗi dồi ngắn ngủn vậy, da láng bóng, căng thẳng, ngực vĩ đại nhô ra dưới lớp áo; vậy mà coi ả vẫn gợi tình, lắm kẻ đeo đuổi ra phết, vì vẻ tươi tắn của ả làm cho người ta ưa nhìn. Mặt ả như một trái táo đỏ, một nụ mẫu đơn hàm tiếu; và trong cái mặt đó, phía trên, đính một cặp mắt đen nhánh, đẹp lạ, thăm thẳm dưới hàng lông mi dài; phía dưới nở một cái miệng có duyên, nhỏ, cặp môi ươn ướt sẵn sàng đón những cái hôn và hàm răng nhỏ nhắn, trắng bóng.
Người ta bảo ả còn có nhiều đức rất quí nữa.
Khi các bà trong giới lương thiện nhận ra được ả, thì tiếng thì thầm lan đi, người ta nói nhỏ với nhau những tiếng “điếm” “nhục nhã trơ trẽn”, tuy là thì thầm mà lớn đến nỗi ả phải ngẩng đầu lên. Rồi ả ngó chung quanh, vẻ khiêu khích bạo dạn làm cho mọi người tức thì im bặt, cúi đầu xuống chỉ trừ có Loiseau là liếc ả, lòng phấn khởi.
Nhưng rồi ba bà lại tiếp tục truyện trò với nhau; có con điếm đó, họ bỗng thấy thân mật với nhau hơn lên. Hình như họ nghĩ rằng trước mặt cái đồ bán trôn vô sỉ đó, hạng có chồng con tử tế như họ phải đoàn kết lại với nhau; vì ái tính hợp pháp bao giờ cũng khinh bỉ thứ ái tình tự do.
Ba ông cũng vậy, thấy Cornudet thì, vì bản năng bảo tồn mà thân nhau hơn, nói chuyện với nhau về tiền nong bằng một giọng khinh khi kẻ nghèo. Bá tước Hubert kể những tai hại do bọn Phổ gây ra, bò thì bị ăn cắp, mùa màng thì mất mát, ông ra vẻ một ông lớn mười lần triệu phú, bị phá phách như vậy mà không hề núng, có cùng lắm là khó chịu trong một năm thôi. Lão Carré-Lamadon, mà kĩ nghệ bông lung lay nhiều, đã gởi sáu trăm ngàn quan qua Anh, cũng như người ta để dành một trái lê phòng lúc khát vậy. Còn Loiseau thì đã thu xếp để bán cho Quân nhu cục của Pháp hết số rượu xấu còn ở trong hầm, thành thử chính phủ thiếu hắn một số tiền vĩ đại mà lần này đi Havre hắn hy vọng sẽ được lãnh.
Cả ba người đều nháy nhau, thân mật. Tuy giai cấp khác nhau mà cũng như anh em với nhau nhờ có đồng tiền cùng ở trong cái giới của bọn người giàu có, bọn người thọc tay vào túi quần lúc lắc những đồng tiền vàng cho kêu lẻng xẻng mà nghe.
Xe chạy chậm tới nỗi hồi mười giờ sáng vẫn chưa đi được bốn dặm. Đàn ông phải xuống xe ba lần để leo dốc. Người ta đã bắt đầu lo, vì định ăn cơm ở Tôtes mà cái điệu này thì không mong gì tới đó trước khi tối trời được. Ai nấy đều ngó xem có cái quán nào trên đường không khi xe bị lầy trong một đống tuyết và phải mất hai giờ mới thoát ra được.
Đói quá, trí óc người ta mụ đi, mà không thấy bóng một cái quán tồi, một cái tiệm rượu nào cả, bọn chủ quán, chủ tiệm đã hoảng hốt tạm dẹp nghỉ khi hay tin tụi Phổ và tụi lính Pháp chết đói sắp tới.
Bọn đàn ông chạy vô các trại ở bên đường để mua thức ăn, nhưng đến bánh mì cũng không có, vì dân quê nghi ngại đã giấu hết cả rồi, sợ các ông lính không có gì ăn, thấy có cái gì là cướp cái đó.
Khoảng một giờ chiều Loiseau kêu rằng kiến bò bụng quá rồi. Ai nấy cũng ở trong tình trạng của hắn đã từ lâu, và nhu cầu ăn mỗi lúc một tăng đã làm im bặt câu chuyện. Thỉnh thoảng có người ngáp dài, tức thì người khác ngáp theo; mỗi người thay phiên nhau, tùy theo tính tình, cách xử thế và địa vị trong xã hội của mình mà mở miệng ra hoặc kêu răng rắc hoặc kín đáo yên lặng hơn trong khi đưa vội bàn tay lên che cái lỗ miệng hoác có hơi thở bay ra.
Thùng Nước Lèo cúi xuống nhiều lần như để kiếm cái gì ở dưới cùng. Ả do dự một giây, ngó các người chung quanh rồi lặng lẽ ngẩng lên. Mặt mọi người xanh xao và nhăn nhó. Loiseau bảo giá có khúc đùi thịt muối lúc này thì ngàn quan hắn cũng mua liền, Mụ vợ ra dấu như để phản đối, rồi bình tĩnh lại. Hễ nghe nói đến tiêu phí phạm là luôn luôn mụ đau khổ, mụ không hiểu được những lời nói đùa về chuyện đó.
Ông bá tước bảo:
- Tôi thấy khó chịu trong người, tại sao tôi quên không nghĩ tới việc mang theo thức ăn chứ?
Ai cũng tự trách mình như vậy.
Cornudet có một bầu đầy rượu rum; hắn mời mọi người; ai nấy lạnh lùng từ chối. Chỉ có Loiseau chịu uống hai giọt thôi; khi trả bầu, hắn cảm ơn.
Vậy mà cũng đỡ chứ, nóng người lên mà khuây đói được. Nhờ có rượu hắn hóa ra vui tính và đề nghị hành động như bọn người ở trên chiếc tàu nhỏ trong bài hát: là làm thịt hành khách nào mập nhất. Lời nói bóng bảy về Thùng Nước Lèo đó làm chướng tai những người có giáo dục. Không ai đáp; chỉ một mình Cornudet mỉm cười. Hai bà Phước đã ngưng tụng kinh, bàn tay đút sâu vào cổ tay rộng, họ ngồi yên, mắt kiên quyết cuối xuống có lẽ để dâng nỗi khổ mà Chúa bắt họ phải gánh chịu.
Sau cùng, lúc ba giờ chiều, xe qua một cánh đồng mênh mông bất tận, xa xa không thấy làng xóm gì cả, Thùng Nước Lèo vội vàng cuối xuống, kéo dưới băng ra một rổ lớn phủ chiếc khăn trắng.
Trước hết ả lấy trong rổ ra một cái đĩa sứ nhỏ, một cái chén đẹp bằng bạc rồi một cái bát sành lớn chứa hai con gà giò đã cắt sẵn từng miếng, ướp trong thịt đông; người ta còn thấy trong rổ nhiều món ngon khác nữa: ba-tê, trái cây, bánh kẹo, đủ cho ba ngày đi đường mà khỏi phải ăn ở các quán trọ. Bốn cổ chai ló ra khỏi các gói thức ăn. Ả lấy ra một cánh gà rồi nhỏ nhẹ ăn với một thứ bánh nhỏ mà ở Normandie người ta gọi là bánh “Nhiếp chính”.
Ai nấy đều trố mắt ngó ả. Rồi mùi thức ăn tỏa khắp, làm cánh mũi phồng lên, nước miếng chảy ra, mà hàm thì đau thắt lại ở phía dưới tai. Lòng khinh bỉ của các bà đối với con điếm đó hóa ra dữ tợn, như là họ muốn giết ả, hoặc liệng ả xuống đường, trong tuyết, liệng cả chén, rổ và các thức ăn theo ả nữa.
Nhưng Loiseau thì hau háu nhìn cái bát sành thịt gà.
Hắn bảo:
- Khéo quá, bà khéo dự phòng hơn chúng tôi. Có những người chu đáo không quên một việc gì cả.
Ả ngẩng lên ngó hắn:
- Xin mời ông... Nhịn từ sáng đến giờ, chịu sao nổi.
Hắn ngả đầu chào:
- Vâng, tôi chịu không nổi nữa, thú thực vậy, bà cho phép thì tôi không từ chối. Gặp hoàn cảnh nào theo hoàn cảnh nấy, phải không bà?
Rồi liếc xung quanh một lượt, hắn nói thêm:
- Những lúc như lúc này, gặp được người tốt bụng thực quí hóa quá.
Hắn trải một tờ báo ra cho khỏi dơ quần, lấy ra một con dao luôn luôn bỏ theo trong túi, cắm mũi dao vào một đùi gà còn láng những thịt đông, rồi lấy răng xé, nhai, vẻ khoan khoái lộ rõ đến nỗi trong xe phát ra tiếng thở dài não nuột.
Nhưng Thùng Nước Lèo giọng ngọt ngào và khiêm tốn mời hai bà Phước ăn chung với mình. Cả hai bà đều nhận lời liền, lầm bầm ít lời cảm ơn rồi chẳng kịp ngẩng mắt lên nữa, bắt đầu ăn rất nhanh. Cornudet cũng không từ chối lời mời của ả, thế là cả bốn người trải báo lên đùi, làm thành như một cái bàn ăn vậy.
Miệng mở ra, khép lại liên tiếp, nuốt, nhai, ngốn một cách dữ tợn. Ngồi trong góc, Loiseau làm việc rất hăng, khuyên nhỏ mụ vợ nên bắt chước mình. Mụ chống cự một lúc lâu, rồi sau khi thấy ruột đã thắt lại, mụ chịu thua. Lúc đó người chồng mới vui vẻ hỏi “bà bạn đồng hành nhã nhặn của họ” cho phép hắn được tặng vợ một miếng nhỏ không.
Ả mỉm cười chìa cái bát sành ra:
- Dạ được xin ông cứ tự nhiên.
Khi mở chai rượu vang thứ nhất, người ta hơi lúng túng: chỉ có mỗi một cái chén. Đành chùi qua nó đi rồi chuyền tay nhau vậy. Chỉ có Cornudet, có lẽ là muốn lịch sự với ả, đặt môi vào cái chỗ còn ướt môi của ả.
Thấy chung quanh mình người ta ăn uống, mùi thức ăn tỏa ra ngào ngạt, ông bà bá tước De Bréville và ông bà Carré-Lamadon, chịu không nổi các cực hình ghê gớm mà người ta gọi là cực hình Tantale đó[9].
Thình lình người vợ trẻ của nhà công nghiệp thở dài làm cho mọi người quay lại; mụ ta trắng nhợt như tuyết, mắt nhắm lại, đầu cuối xuống; xỉu rồi. Ông chồng hoảng hốt cầu cứu mọi người. Ai nấy luýnh quính, chỉ có bà phước già là đỡ đầu mụ ta lên, dí vào môi chiếc chén bạc của Thùng Nước Lèo, cho uống vài giọt rượu. Thiếu phụ kiều diễm đó cựa cậy, mở mắt ra, mỉm cười, tuyên bố bằng một giọng sắp chết rằng đã thấy dễ chịu lắm. Nhưng để khỏi xỉu một lần nữa, bà Phước buộc mụ uống đầy một ly rượu vang và bảo:
- Tại đói đấy chứ có gì đâu.
Lúc đó Thùng Nước Lèo thẹn thò, lúng túng, nhìn bốn hành khách nhịn đói kia, lắp bắp:
- Trời ơi! Tôi đâu dám; nhưng nếu các ông các bà không chê...
Ả ngưng bặt, sợ xúc phạm họ. Loiseau nói vào:
- Khéo khỉ lắm! Trong những trường hợp như vầy, đều là anh em với nhau cả, phải giúp đỡ lẫn nhau chứ. Thôi đi các bà, đừng làm khách nữa, nhận đi mà. Đêm nay chắc gì đã có nhà để trú chân. Xe mà chạy cái điệu này thì sợ trưa mai vẫn chưa tới Tôtes.
Người ta còn do dự, không ai dám lãnh cái trách nhiệm “vâng”.
Nhưng ông bá tước giải quyết ngay vấn đề. Ông quay lại ngó cô ả mập và thẹn thò nọ, rồi giọng rất quí phái, ông bảo:
- Chúng tôi xin nhận lời, cảm ơn bà.
Chỉ có bước đầu là khó khăn. Đã liều rồi thì người ta cứ phăng phăng tới, gần hết rổ thức ăn. Chỉ còn một cái ba-tê gan, một cái ba-tê sơn ca, một miếng lưỡi hun khói, những trái lê Crassane, một ổ bánh ngọt thơm Pont l’Évêque, những chiếc bánh bông lan, một chén đầy dưa chuột và hành ngâm dấm, vì ả ưa đồ sống như mọi người đàn bà khác.
Không lẽ ăn của ả mà không nói chuyện với ả. Cho nên phải chuyện chớ, mới đầu còn giữ kẽ, sau thấy ả biết điều, lễ phép, người ta hóa tự nhiên hơn. Bà De Bréville và mụ Carré-Lamadon, rất lịch thiệp, tỏ vẻ lễ nhượng một cách nhã nhặn. Nhất là bà bá tước có cái thái độ hạ cố dễ thương của những bà rất quí phái mà không có sự tiếp xúc nào có thể làm hoen ố được, rõ ra con người lịch sự. Còn cái mụ cao lớn Loiseau tâm hồn cục cằn, vẫn ương ngạnh, nói thì ít mà ăn thì nhiều.
Tất nhiên người ta nói về chiến tranh. Người ta kể những chuyện kinh khủng của tụi Phổ, những hành động anh hùng của Pháp, và bọn người chạy trốn này đều khâm phục sự can đảm của những người ở lại. Rồi tới những chuyện tư, và Thùng Nước Lèo thành thực cảm động – bọn gái điếm khi tả những cơn giận dữ tự nhiên của mình, thường có giọng hăng hái như vậy – kể những nguyên do bắt ả phải rời Rouen:
- Mới đầu em tưởng có thể ở lại được. Nhà có đầy thức ăn. Thà chịu nuôi mấy thằng lính còn hơn là bỏ xứ mà không biết đi đâu. Nhưng khi em thấy tụi Phổ đó thì em chịu không nổi nữa! Chúng làm cho em dóa lên; và em đã tủi nhục khóc suốt ngày. Em mà là thân nam nhi thì phải biết! Đứng ở cửa sổ em ngó chúng và chị ở của em ghì tay em lại cho em khỏi liệng đồ đạc vào đầu vào cổ chúng. Rồi có đứa lại ở nhà em; em nhảy lại bóp cổ đứa thứ nhất. Bóp cổ chúng cũng không khó gì hơn bóp cổ những kẻ khác! Và nếu không có một đứa nắm tóc em kéo lại thì em đã bóp chết thằng đó rồi. Rồi sau em phải trốn đi. Gặp được cơ hội, em thoát thân liền nên mới có ngày hôm nay.
Người ta khen ả lắm. Người ta mến ả, có ai đâu mà gan như ả. Cordunet vừa nghe vừa mỉm cười tán thưởng, đại lượng như một sứ đồ, một linh mục ca tụng Chúa vậy, vì tụi dân chủ râu dài này nắm độc quyền tôn giáo. Rồi tới phiên hắn thuyết bằng một giọng khoa trương học trong những tờ bố cáo dán đầy tường; cuối cùng là một đoạn hùng hồn đả kích kịch liệt “tên bợm Badinguet”[10].
Thùng Nước Lèo tức thì nổi giận vì ả vào phe Bonaparte. Đỏ gay như trái anh đào, ả bất bình, lắp bắp:
- Để các ông lên thay họ đi coi! Có mà loạn! Chính các ông đã phản người ta! Nếu bọn đểu giả các ông mà lên cầm quyền thì thiên hạ phải bỏ xứ mà đi.
Cornudet thản nhiên mỉm cười một cách ngạo nghễ, tự cao, nhưng người ta cảm thấy rằng hắn sắp văng tục nếu như ông bá tước không xen vô tuyên bố một cách có uy thế rằng tất cả những ý kiến thành thực nào cũng đáng tôn trọng, và nói mãi ả mới chịu dịu xuống. Bà bá tước và mụ chủ hãng dệt, thuộc bọn người đàng hoàng nên trong thâm tâm vốn ghét Chính thể Cộng hòa mà chẳng cần suy nghĩ gì; vốn ưa như mọi người đàn bà, những Chính phủ lòe loẹt, độc tài, thành thử dù không muốn mà cũng có thiện cảm với cô gái điếm biết tự trọng nọ, vì tình cảm của ả giống với tình cảm của hai bà.
Rổ thức ăn đã nhẵn. Mười người ăn, làm gì mà chẳng hết; người ta tiếc rằng sao rổ không lớn hơn chút nữa. Câu chuyện cũng tiếp tục thêm một lát, nhưng từ khi ăn xong thì chuyện cũng nguội dần.
Đêm đổ xuống, lần lần hóa tối mò; trong lúc tiêu hóa người ta càng thấy lạnh, và cô ả mập như vậy mà cũng run lên. Bà De Bréville cho ả mượn cái lồng ấp mà than đã thay nhiều lần từ sáng, và ả nhận liền vì chân muốn cóng rồi. Mụ Carré-Lamadon và mụ Loiseau đưa lồng ấp của mình cho hai bà phước.
Người đánh xe đã thắp đèn. Người ta thấy rõ một đám hơi nước ở trên mông đẫm mồ hôi của những con ngựa buộc bên gọng xe; và hai bên đường, tuyết như trải lần ra dưới ánh sáng phản chiếu di động của các ngọn đèn.
Trong xe tối om, không phân biệt được gì nữa; nhưng thình lình giữa Thùng Nước Lèo và Cornudet có một cử động; và mắt Loiseau soi bói, trong bóng tối, thấy Cornudet, né vội ra một bên như bị thoi ngầm một cái mạnh.
Phía trước, ở trên đường đã hiện ra những đốm lửa nhỏ. Sắp tới Tôtes. Xe đã chạy 11 giờ, kể thêm 2 giờ cho ngựa nghỉ ăn lúa bốn lần hết thảy là 13 giờ. Xe vô thị trấn rồi ngừng trước khách sạn Hôtel du Commerce.
Cửa xe mở ra. Một tiếng động quen thuộc làm mọi hành khách giật mình: tiếng bao gươm cà trên mặt đất. Rồi có một tiếng tên Đức la cái gì đó.
Xe đã ngưng hẳn rồi mà không ai xuống như sợ hễ ra khỏi xe là bị giết. Rồi người đánh xe hiện ra tay cầm một cây đèn thình lình rọi vào tới phía trong cùng, ánh sáng chiếu trên hai hàng đầu người lố nhố, ngơ ngác, miệng há hốc, mắt trợn trừng, vừa ngạc nhiên vừa hoảng hốt.
Đứng bên người đánh xe, trong ánh sáng, là một sĩ quan Đức, trẻ mà rất cao, tóc hung hung, bộ quân phục khít người như một thiếu nữ bận coóc-xê, chiếc nón lưỡi trai dẹp đánh xi bóng láng, chụp nghiêng trên đầu, có vẻ một anh bồi trong khách sạn Anh. Râu mép hắn dài quá mức, cứng, vuốt nhọn, và đâm ngang ra mỗi bên, ở đầu là một sợi nhỏ xíu, hung hăng, không rõ tới đâu là hết; bộ râu đó như đè nặng ở hai mép, kéo xệch hai bên má ra, làm cho môi có một nếp nhăn hạ xuống.
Hắn nói tiếng Pháp, mời hành khách xuống xe, giọng lơ lớ cứng ngắc:
- Xuộng xe cho, xuộng hệc.
Hai bà Phước tuân lệnh trước nhất, những thánh nữ đó vốn nhu mì, quen mọi sự khuất phục rồi. Rồi tới ông bà bá tước, vợ chồng nhà công nghiệp Loiseau ra sau, đẩy mụ vợ to lớn ra trước. Mới đặt chân xuống đất, vì khôn khéo hơn là vì lễ phép, hắn đã chào ngay “kính chào ông”. Viên sĩ quan Đức xấc láo như những kẻ có đủ quyền sinh sát, chỉ ngó hắn mà không thèm đáp.
Thùng Nước Lèo và Cornudet mặc dầu là ngồi gần cửa mà bước xuống sau cùng, nghiêm trang ngạo mạn trước mặt kẻ thù. Ả rán tự chủ và bình tĩnh; còn lão “dân chủ” thì bàn tay run run, bi thảm, hành hạ bộ râu dài, hung hung của mình. Họ muốn giữ vẻ đàng hoàng, vì biết rằng trong những cuộc gặp gỡ như vậy, mỗi người lãnh một chút trách nhiệm thay mặt cho xứ sở của mình, cả hai đều bất bình trước thái độ mềm mỏng của những bạn đồng hành, ả thì rán tỏ ra dũng cảm hơn những bà đứng bên, những bà trong giới lương thiện; còn lão nọ thì thấy rằng mình phải làm gương cho người, tiếp tục, bằng thái độ, cái sứ mệnh kháng chiến mà lão đã bắt đầu thi hành khi đào phá đường để cản địch.
Người ta vô nhà bếp rộng lớn của lữ quán và viên sĩ quan Đức bảo trình giấy phép của viên tướng tư lệnh, trong đó có ghi tên, tướng mạo vả nghề nghiệp của mỗi hành khách hắn ngó mỗi người rất lâu, so sánh xem có đúng với những lời ghi không.
Rồi thình lình hắn bảo: “Tược”, rồi biến mất.
Lúc đó người ta mới khoan khoái. Lại đói nữa, bảo nấu xúp. Phải nửa giờ mới nấu xong, và trong khi hai người ở gái có vẻ lăng xăng về món xúp thì họ đi coi phòng. Các phòng đều ở trong một hành lang dài, phía cuối có một cái cửa ra vào lắp kính ghi số.
Sau cùng người ta mới ngồi vào bàn ăn thì chủ quán đích thân vô. Trước kia lão buôn ngựa, người mập, bị bệnh suyễn, thở phì phì, khàn tiếng, đờm khò khè trong họng. Ông thân lão truyền cho lão cái tên Follenvie.
Lão hỏi:
- Ai là cô Elisabeth Rousset?
Thùng Nước Lèo giật mình, quay lại:
- Tôi.
- Thưa cô, viên sĩ quan Phổ muốn nói chuyện với cô ngay bây giờ.
- Nói chuyện với tôi?
- Vâng nếu cô phải là cô Elisabeth Rousset.
Ả lo lắng, suy nghĩ một giây, rồi từ chối hẳn:
- Phải, nhưng tôi không đi.
Chung quanh ả có vẻ xôn xao, ai nấy bàn tán, hỏi nhau tại sao có lệnh đó. Ông bá tước lại gần:
- Bà lầm rồi, bà từ chối như vậy có thể gây ra những nỗi khó khăn ghê gớm chẳng riêng cho bà mà cho cả những bạn đồng hành của bà nữa. Không nên chống cự lại với những kẻ mạnh hơn mình. Bá cứ đi đi, chắc chắn không có gì nguy hiểm đâu, có lẽ chỉ là còn thiếu một nghi thức nào đó thôi.
Mọi người đều nói vào, người ta năn nỉ ả, hối thúc ả, thuyết giáo ả và sau cùng thuyết phục ả; vì ai nấy đều sợ ả mà bướng thì sinh ra nhiều sự rắc rối. Ả bảo:
- Vì các ông các bà mà tôi phải nghe lời đấy!
Bà bá tước nắm tay ả:
- Và chúng tôi cảm ơn bà.
Ả đi ra người ta đợi ả về rồi mới ăn.
Người ta buồn rầu vì tại sao viên sĩ quan Đức không gọi mình mà lại gọi cô ả dữ tợn, nóng nảy đó, và nghĩ thầm nếu tới phiên mình phải gọi thì sẽ trả lời những câu hèn hạ ra sao.
Nhưng độ mười phút, ả trở về, hổn hển, đỏ mặt lên, giận đến nghẹt thở. Ả lắp bắp:
- Quân chó má, quân chó má!
Mọi người vội vàng hỏi, nhưng ả làm thinh; vì ông bá tước hỏi gặn quá, ả đáp rất nghiêm trang:
- Không, chuyện đó không liên quan gì tới các ông các bà cả, tôi không thể nói được.
Người ta ngồi chung quanh một liễn xúp cao ngào ngạt mùi thơm bắp cải. Mặc dù có vụ kinh hãi đó, bữa cơm cũng vẫn vui. Rượu tần ngon, cặp Loiseau và hai bà Phước uống thứ đó cho rẻ tiền. Những người khác đòi rượu vang; Cornudet đòi rượu bia. Hắn có một lối đặc biệt để mở nút ve, làm cho rượu xùi bọt lên, rồi cầm nghiêng cái ly mà ngắm, soi lên ánh đèn để ngó kĩ màu rượu. Khi hắn uống, bộ râu dài, một màu với thứ rượu quí của hắn, run run lên như cảm động vì âu yếm; mắt hắn lác đi không rời ly rượu một chớp, và hắn có vẻ làm tròn cái nhiệm vụ độc nhứt, mà trời giao cho hắn đó. Trong đầu hắn, hắn đã hòa hợp, liên kết với nhau hai cái đam mê nó ám ảnh hắn suốt đời: rượu bia và Cách mạng; và nhất định là hắn không thể uống cái này mà không nghĩ cái kia.
Vợ chồng Follenvie ngồi ăn ở cuối bàn. Người chồng thì rên như một cái đầu máy bể, khò khè trong ngực, thành thử không vừa ăn vừa nói được; mụ vợ trái lại không lúc nào ngớt miệng. Mụ kể tất cả những cảm tưởng của mụ khi tụi Phổ tới; kể chúng làm cái gì, nói những gì; mụ rất ghét chúng trước hết vì tốn tiền cho mụ, sau nữa vì mụ có hai người con trai trong quân đội. Mụ nói nhiều nhất với bà bá tước, lấy cái việc hầu chuyện một bà quí phái làm vinh hạnh lắm.
Rồi mụ hạ giọng để kể những chuyện khó nói, và người chồng thỉnh thoảng ngắt lời:
- Im miệng đi, mụ Follenvie.
Nhưng mụ chẳng thèm nghe, cứ tiếp tục.
- Thưa bà, tụi nó chỉ ăn khoai và thịt heo, rồi lại thịt heo và khoai. Mà đừng tưởng là chúng sạch nhé.
- Không đâu! Vô phép bà, chúng bậy bạ ra khắp chỗ. Và nếu bà thấy chúng luyện tập hằng giờ, hằng ngày; chúng nhóm lại trong một cánh đồng; rồi đi tới đi lui, quay bên này, quay bên kia. Nếu chúng cày ruộng hoặc đắp đường ở xứ của chúng thì cũng đỡ! Nhưng thưa bà, không, tụi nhà binh đó không ích lợi gì cho ai cả! Dân chúng phải nuôi họ để họ học cách tản sát! Tôi chỉ là một người đàn bà thất học, nhưng thấy họ hủy hoại thể chất mà cứ dậm chân từ sáng tới tối như vậy, tôi tự nhủ: Khi có những người phát minh được biết bao nhiêu điều để giúp ích nhân loại, thì tại sao có những kẻ chịu khó nhọc để làm hại người như vậy! Nghĩ mà coi, có gì khả ố bằng cái việc giết người không, dù là giết tụi Phổ hay tụi Anh, tụi Ba Lan, tụi Pháp? Ai làm hại mình mà mình trả thù, thì mình có lỗi và chính phủ xử mình; nhưng khi người ta tận diệt con trai chúng ta như giết bầy thú, giết bằng súng, thì lại tốt vì ai giết được nhiều thì được thưởng huy chương. Thật là tôi không còn hiểu chút gì nữa.
Cornudet lớn tiếng:
- Chiến tranh là dã man khi người ta tấn công một xứ láng giềng yên ổn; nhưng nó là một bổn phận thiêng liêng khi người ta bảo vệ tổ quốc.
Mụ chủ quán cuối đầu xuống:
- Phải, khi tự vệ thì lại khác; nhưng tất cả những ông vua tự ý gây chiến, thì có nên đem giết cả đi không?
Cặp mắt Cornudet bừng lên:
- Hay! Một nữ công dân đáng khen lắm.
Lão Carré-Lamadon suy nghĩ lung. Mặc dù vốn tôn sùng những tướng tá nổi danh, lão thấy mụ nhà quê đó có lương tri, và lão nghĩ: bao nhiêu cánh tay ở không, tốn kém tai hại đó; bao nhiêu sức lực phải nuôi báo cô mà chẳng sản xuất được gì cả đó, nếu đem dùng vào những công trình kĩ nghệ lớn lao cần hằng thế kỉ chưa xong, thì có phải là lợi cho quốc gia biết bao không.
Nhưng Loiseau đã đứng dậy, lại nói thầm với chủ quán. Lão này cười, ho, khạc; bụng bự của lão dội lên dội xuống,khi nghe Loiseau khôi hài, và lão hỏi mua sáu thùng nhỏ rượu vang, giao vào mùa xuân khi nào tụi Phổ đã đi hết.
Mới ăn xong, ai nấy đi ngủ liền vì mệt lữ.
Nhưng Loiseau vì đã để ý nhận xét, cho vợ đi nằm rồi, mới đi lại phía cửa lúc thì ghé tai lúc thì ghé mắt vào lỗ khoá để rán tìm ra được cái gì mà hắn gọi là “bí mật của hành lang”.
Khoảng một giờ sau hắn nghe có tiếng sột soạt, vội vàng ngó, và thấy Thùng Nước Lèo bận cái áo choàng bằng vải xanh viền ren trắng. Ả cầm một cái giá đèn, tiến về phía cuối hành lang, chỗ có con số lớn. Nhưng ở bên cạnh, một cánh cửa hé mở và vài phút sau, ả trở về thì Cornudet bận quần tuột dải đeo, đi theo ả. Họ nói nhỏ với nhau rồi ngừng lại. Ả như cương quyết ngăn không cho hắn vô phòng. Khổ tâm thay, Loiseau nghe không rõ gì cả; nhưng sau cùng họ lớn tiếng, và lão bắt được vài lời. Cornudet hăng hái năn nỉ.
Hắn bảo:
- Thì có làm sao? Cô điên hả?
Ả đáp giọng bực tức:
- Không được, ông ơi, có những lúc không làm những chuyện đó được; với lại, ở đây mà làm vậy thì xấu hổ lắm.
Hắn không hiểu, hỏi tại sao.
Ả càng tức, lớn tiếng:
- Tại sao ư? Ông không hiểu tại sao ư? Khi có tụi Phổ ở trong nhà, biết đâu chừng, ngay ở phòng bên cạnh?
Hắn làm thinh. Hạng đĩ đó mà cũng ái quốc, biết mắc cỡ, có kẻ thù ở bên thì không chịu ân ái. Thái độ đó chắc đã đánh thức cái phong thể suy nhược của hắn, vì sau đó, hắn chỉ ôm ả hôn thôi, rồi rón rén về phòng mình.
Loiseau bừng bừng lên, rời lỗ khoá, nhảy nhót trong phòng, hai chân đạp vào nhau, chụp cái nón vải vào đầu, giở tấm “ra” phủ bộ xương cứng ngắt của mụ vợ, hôn mụ, đánh thức mụ dậy hỏi:
- Yêu anh không cưng?
Rồi thì cả nhà hoá tĩnh mịch. Nhưng chẳng bao lâu từ một phía nào đó, không biết là từ hầm rượu hay từ cái trang, phát ra một tiếng ngáy mạnh, độc điệu, đều đều một tiếng ồ ồ và kéo dài, khừ khừ như tiếng nồi súp-de sôi sùng sục vậy.
Lão Follenvie đã ngũ.
Vì đã định tám giờ sáng hôm sau khởi hành nên người ta họp nhau ở trong bếp; nhưng chiếc xe – mà cái mui vải đỡ cả một nóc tuyết – đứng trơ trọi giữa sân, không có ngựa, cũng không có người đánh xe. Người ta đi kiếm tên này ở chuồng ngựa, ở chỗ chứa rơm, ở chỗ để xe mà không thấy. Mọi người quyết định đi lùng khắp thị trấn. Họ ra chỗ công trường, mà phía sau là nhà thờ; hai bên là những căn nhà nhỏ có lính Phổ. Người lính thứ nhất họ thấy đương gọt khoai. Người thứ nhì ở xa hơn, đương cọ rửa một tiệm hớt tóc. Một người nữa râu kín tới mắt ôm một đứa nhỏ đương khóc, ru nó ở trên đùi để dỗ nó nín; và những mụ nhà quê to lớn mà chồng ở trong “quân đội chiến đấu” ra dấu cho những kẻ thắng trận ngoan ngoãn đó, bảo làm việc này việc khác: bửa củi, đổ nước nóng lên bánh, xay cà phê: một người lính giặt cả quần áo cho chủ nhà, một bà cụ tàn tật nữa.
Ông bá tước ngạc nhiên hỏi một người phụ thủ ở trong nhà thờ bước ra. Con chuột già của giáo đường này đáp:
- Tụi đó không độc ác đâu; người ta bảo chúng không phải là người Phổ. Chúng ở một xứ nào xa hơn nữa, tôi không biết ở đâu; chúng để vợ con lại ở nhà, chúng đâu có ham chiến tranh. Tôi chắc rằng vợ con chúng ở nhà cũng đương khóc chồng và cha; ở xứ họ cũng như xứ mình, dân chúng thật điêu đứng. Ở đây, lúc này, người ta chưa đến nỗi khổ lắm, vì tụi lính đó không làm hại gì ai cả mà chúng cũng làm mọi việc như ở nhà chúng vậy. Thưa ông, cùng nghèo khó với nhau cả thì phải giúp đỡ lẫn nhau chứ… Chỉ các ông bự mới gây chiến thôi.
Cornudet thấy kẻ thắng và kẻ bại mà lại hoà hợp thân mật với nhau, tỏ vẻ bất bình, rút về quán trọ, không ra đường nữa. Loiseau nói đùa: “Họ sinh sản lại”. Carré-Lamadon nghiêm trang hơn: “Họ sửa sang lại”. Nhưng vẫn không thấy tên đánh xe. Sau cùng người ta tìm thấy hắn trong một quán cà phê, đương thân mật nhậu nhẹt với tên lính thị vệ của viên sĩ quan. Ông bá tước lớn tiếng hỏi:
- Đã ra lệnh cho chú thắng xe hồi tám giờ sáng, chú quên ư?
- Phải, nhưng rồi sau tôi lại nhận được lệnh khác.
- Lệnh ra sao?
- Lệnh không được thắng xe.
- Ai ra lệnh đó cho chú?
- Viên chỉ huy Phổ.
- Tại sao?
- Tôi không biết. Lại mà hỏi ổng. Người ta cấm tôi thắng xe và tôi không thắng xe. Đó, có vậy thôi.
- Chính viên sĩ quan bảo chú như vậy?
- Không, chủ quán truyền lệnh xuống cho tôi.
- Bao giờ?
- Tối qua, khi tôi sắp đi ngủ.
Ba người đàn ông trở về, lo ngay ngáy.
Họ muốn gặp chủ quán Follenvie nhưng chị ở bảo ông chủ bị bệnh suyển, bao giờ cũng mười giờ sáng mới dậy. Và ông chủ còn cấm ngặt không được đánh thức trước giờ đó, trừ khi có hoả tai.
Họ lại muốn gặp viên sĩ quan, nhưng vô phương, mặc dù hắn cũng ở trong quán, vì chỉ có Follenvie là được phép gặp hắn về những vấn đề dân sự. Họ đành phải đợi vậy. Phụ nữ về phòng làm những việc lặt vặt hoặc nói chuyện tầm phào. Cornudet ngồi dưới lò sưởi cao, lửa cháy ngùn ngụt ở bếp. Hắn bảo đem xuống cho hắn một cái bàn nhỏ, một chai bia, rồi hắn đốt ống điếu. Ống điếu đó được bọn dân chủ coi trọng ngang với hắn, hình như người ta cho rằng nó đã phụng sự Cornudet tức thị cũng là phụng sự quốc gia.
Nó rất đẹp, bằng đá bọt, sái thuốc đóng đen, đen bằng răng chủ nhân nó, nhưng nó thơm, cong lại, bóng láng, tay hắn cầm quen rồi và có nó thì diện mạo của hắn mới đủ bộ. Hắn ngồi yên, lúc thì ngó ngọn lửa trong lò, lúc thì nhìn bọt rượu bia viền miệng ly; và mỗi lần hớp xong, thì hắn lại khoan khoái lùa những ngón tay dài, gầy vào mớ tóc nhờn của hắn, đồng thời hít những bọt rượu bám ở râu mép.
Loiseau lấy ý rằng ngồi hoài tê chân, nên đi chào khách tại các quán rượu nhỏ ở trong miền. Ông bá tước và lão chủ xưởng dệt nói chuyện chính trị, tiên đoán về tương lai nước Pháp. Một ông thì tin ở giòng họ D’Orléans, một ông thì tin ở một vị cứu quốc còn mai danh nào đó, một vị anh hùng sẽ xuất đầu lộ diện khi nào mọi sự đều thất vọng: một Du Guesclin, một Jeanne D’Arc biết đâu chừng? Hoặc một Nã Phá Luân đệ nhất khác nữa… À! Nếu hoàng tử mà không còn nhỏ như vậy! Cornudet nghe họ, mỉm cười, như người biết rõ vận mạng rồi. Khói thuốc ống điếu của hắn toả ra, thơm cả nhà bếp.
Đồng hồ gõ mười giờ, Follenvie hiện ra. Người ta vội vàng hỏi, thì lão chỉ lặp đi lặp lại lời này hai ba lần mà không thay đổi một tiếng:
- Sĩ quan bảo tôi như vầy: “Ông Follenvie, ông phải cấm người ta ngày mai thắng xe cho những hành khách đó. Không có lệnh của tôi thì họ không được đi. Nghe chưa? Có bấy nhiêu thôi”.
Rồi người ta muốn gặp mặt sĩ quan. Ông bá tước sai người mang lên cho hắn một tấm thiếp trên đó lão Carré-Lamadon đã ghi thêm tên và tất cả chức tước của mình. Sĩ quan Phổ nhắn rằng ăn cơm trưa xong, nghĩa là khoảng một giờ, hắn sẽ bằng lòng cho hai người đàn ông đó vô nói chuyện.
Các bà ló mặt ra, mặc dầu lo lắng nhưng ăn cũng được vài miếng. Thùng Nước Lèo có vẻ đau và bối rối lạ.
Họ vừa uống cà phê xong thì tên lính hầu vô gọi họ. Loiseau nhập bọn với hai người kia; người ta muốn lôi Cornudet đi theo nữa cho thêm phần long trọng nhưng hắn dương dương tuyên bố rằng nhất định không liên lạc gì với tụi Đức. Và hắn lại xuống bếp ngồi dưới lò sưởi, gọi một chai bia nữa.
Ba người đàn ông lên gác, được dẫn vô căn phòng đẹp nhất của quán. Viên sĩ quan nằm dài trên ghế bành, chân gác lên lò sưởi, hút một ống điếu dài bằng sứ, khoác một cái áo mặc ở trong nhà đỏ rực mà chắc hắn đã xoáy được trong căn phố bỏ trống của một nhà trọc phú quê mùa nào. Hắn đứng dậy, cũng không chào, không ngó họ. Đúng là thói thô bỉ của tụi quân thắng trận.
Một lúc sau hắn mới hỏi:
- Cạc ông muộng gì?
- Ông bá tước đáp:
- Thưa ông chúng tôi muốn khởi hành.
- Không.
- Ông cho phép chúng tôi hỏi lí do gì vậy?
- Lị do là tôi không muộng.
- Thưa ông, chúng tôi kính cẩn thưa ông hay rằng vị tướng tư lệnh của ông đã cho phép chúng tôi đi lại Dieppe; và tôi nghĩ rằng chúng tôi không làm cái gì để cho ông phải nghiêm khắc với chúng tôi như vậy?
- Tui không muộng. Có phậy thui. Thui cạc ông ti xuộng.
Cả ba cuối đầu chào rồi rút lui.
Buổi