MƯA Tác giả: W. SOMERSET MAUGHAM-Nguyên tác Rain
Nhà Cardinal đã xuất bản trong loại Pocket Book một cuốn nhan đề là Short Stories (Truyện ngắn), gồm hai mươi hai truyện ngắn hay của các danh sĩ Âu Mĩ (Anh, Pháp, Mĩ, Nga…) trong thế kỉ trước và thế kỉ này. Mỗi tác giả, nhà xuất bản chỉ lựa một truyện, và trong số hàng trăm truyện ngắn của W. Somerset Maugham, nhà xuất bản đã lựa truyện Mưa (Rain)[1].
.
William Somerset Maugham
(1874-1965)
Danh của Somerset Maugham vang lừng khắp thế giới. Ông mất năm 1965 thọ 91 tuổi (sanh năm 1874 ở Paris, nhưng là người Anh).
Mới đầu ông làm y sĩ, sau bỏ nghề, xoay qua viết văn, thất bại luôn mười một năm, có lúc phải nhịn đói. Bạn bè khuyên trở lại nghề đỡ đẻ, nhưng không có gì lay chuyển được ý chí sắt đá của ông là lưu danh trong văn học Anh.
Rồi ông bắt đầu thành công nhờ kịch Lady Frederich, có tiền đi du lịch Đức, Pháp, Y-Pha-Nho. Nhờ du lịch nhiều, có tài nhận xét, thấu tâm lí con người, ông sáng tác rất nhiều: khoảng hai chục vở kịch, một chục truyện dài (những chuyện nổi danh nhất là: Of Human bondage[2], The moon and sixpence, The Magican), nhiều du kí và vô số truyện ngắn.
Năm 1959, ông cho xuất bản tác phẩm cuối cùng của ông, nhan đề Points of View gồm nhiều tiểu luận rồi gác bút luôn, nghĩ dưỡng già, chu du khắp thế giới một lần nữa và có ghé Sàigon. Ông là tiểu thuyết gia già nhất thế giới: tác phẩm của ông đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, bán được khoảng 60 triệu cuốn.
Có lẽ ông đã học thuật viết truyện ngắn của Guy de Maupassant. Trong cuốn Points of View, ông ca tụng Guy de Maupassant là viết truyện ngắn rất hay, không ai sánh kịp.
Phê bình truyện La Parure của Maupassant, ông bảo rằng “ta có thể đem truyện ấy ra kể trong khi ăn hoặc trong phòng hút thuốc trên chiếc tàu, và mọi người đều chăm chú nghe… Cốt truyện được mô tả một cách ngắn nhưng đầy đủ, sáng sủa”.
Ông cũng khen Guy de Maupassant có tài viết một truyện hai lần, một lần dài vài trăm chữ, một lần dài vài ngàn chữ, mà đọc bài thứ nhất, không thấy một chữ nào thiếu, đọc bài thứ nhì, không thấy một chữ nào thừa.
Cả hai thuật đó, thuật hấp dẫn và thuật không thiếu không thừa, William Somerset Maugham đã áp dụng được trong truyện Mưa.
Mới đầu ông đặt cho truyện cái nhan đề là Sadie Thompson. Viết xong, ông coi là một truyện tầm thường, không nhớ tới nữa; rồi một hôm đưa cho người bạn đọc, người này thích quá, khuyên ông soạn thành kịch. Ông nghe lời, không ngờ thành công ngoài sức tưởng tượng: diễn trên bốn trăm rưỡi lần, đem lại cho ông một số tiền là bốn chục ngàn Anh kim, theo giá chính thức hiện nay[3] là tám triệu bạc Việt Nam. Riêng ở Nữu Ước, kịch đó đã được diễn luôn trên hai năm. Một lần, một số nhà phê bình nổi danh ở Nữu Ước đã bầu kín để lựa mười kịch hay nhất thì kịch Hamlet của Shakespeare đứng đầu sổ rồi tới kịch Mưa.
Chúng tôi xin dịch truyện đó dưới đây để độc giả thưởng thức. Truyện có nhiều kịch tính. Đọc được non nửa truyện, sau phần giới thiệu khung cảnh và nhân vật, ta biết trước được sẽ có một cái gì bất thường xảy ra, ta hồi hộp theo dõi, đoán thế này, đoán thế nọ; tới gần cuối truyện, ta đã yên trí là việc sẽ xảy ra như vậy; rồi đột nhiên ta chưng hửng, vì cái chết bất ngờ của nhà truyền giáo, ta không hiểu nguyên do tại đâu và mãi đến hàng áp chót, đọc tới lời chửi của cô ả Thompson, ta bỗng hiểu ra hết, bao nhiêu thắc mắc của ta trong mươi trang trước bỗng được cởi tung ra cả; và nhớ lại những nét mặt, cử chỉ, ngôn ngữ của mỗi nhân vật, ta thấy nhất thiết chi tiết nào cũng hợp lí, hàm súc, chứa đựng một dụng ý của tác giả. Cái tài dựng truyện của William Somerset Maugham ở chỗ đó.
Trước khi đọc truyện, chúng ta cũng nên hiểu qua quan niệm về nghệ thuật của ông. Maugham là một trong số rất ít nhà dám tự nhận rằng mình chỉ là một người kể truyện. Ông nghĩ rằng một tiểu thuyết gia cũng như một thi sĩ, một hoạ sĩ, một nhạc sĩ, đừng nên chủ trương “văn dĩ tải đạo”. Cứ sáng tác cho nghệ thuật, làm vui người đọc, người nghe, người nhìn, rồi đôi khi có vô tình công kích cuộc sống, thì những độc giả thông minh sẽ tự rút trong tác phẩm ra được một bài học.
Ông lấy thí dụ tập truyện ngắn Plain tales from the hills (dịch ra tiếng Pháp là: Simples contes des collines) của Rudyard Kipling. Trong tập đó, Kipling tả những thường dân Ấn Độ và những sĩ quan Anh, “với tấm lòng khâm phục chất phác của một kí giả xuất thân trong đám thường dân mà quáng mắt về những cái mình duyên dáng” trong đời sống quí phái của giới cầm quyền Anh tại Ấn. Hồi mới xuất bản, có ai cho tập truyện đó là một bản cáo trang chỉ trích nhà cầm quyền đâu; nhưng ngày nay đọc lại ta thấy rằng ngay từ hồi đó, cái mầm suy vi của người Anh ở Ấn đã hiện ra rồi, và không sớm thì muộn, người Anh phải rút ra khỏi Ấn. Tiểu thuyết gia Chekhov của Nga cũng vậy: chỉ mô tả một cách khách quan cảnh điêu đứng của dân Nga, lòng vô tư lự của hạng quí phái Nga, mà đủ cho ta thấy tình trạng đó thế nào cũng đưa đến một cuộc cách mạng đẫm máu.
Có thể rằng bạn không đồng ý với Maugham về quan niệm trên: đừng nhắm cái Thiện mà nhắm cái Mĩ và cái Chân – tất nhiên, muốn vậy, nhà nghệ sĩ phải nhận rằng truyện của ông rất hấp dẫn, làm cho ta miên man suy nghĩ, rút ra được nhiều kinh nghiệm, đôi khi một bài học nữa. Như truyện Mưa này, mới đọc xong tôi tưởng bi kịch xảy ra chỉ vì những cơn mưa dai dẳng, phủ phàng, tinh quái ở Pago-Pago, nó làm cho thần kinh con người chịu không nổi, mà con người không tự chủ được mình nữa, nhưng xét lại thì tôi thấy chính ông Davidson cũng có cái lỗi là quá tin ở mình. Tôi còn nghĩ thêm rằng cái chính sách người da trắng dùng để cải hoá người da đen sớm muộn gì cũng phải thay đổi. Nhưng sao tôi lại làm một việc việc vô ý thức như vậy, tranh phần phán đoán của độc giả, phản lại chủ trương của tác giả, và thu hẹp ý nghĩa của tác phẩm lại.
MƯA[4]Đã gần tới giờ đi ngủ và sáng hôm sau người ta sẽ trông thấy bờ. Bác sĩ Macphail đốt thuốc hút, rồi nghiêng mình ra mạn tàu, tìm chòm sao chữ thập ở phương Nam. Sau hai năm ở ngoài mặt trận - ông bị một thương tích lâu lành - ông vui vẻ được nghỉ ngơi yên tĩnh ít nhất là mười hai tháng tại Apia, và ngay chuyến đi này đã làm cho ông khoan khoái rồi. Vì hôm sau có nhiều hành khách xuống Pago-Pago, nên tối hôm đó, người ta tổ chức một cuộc khiêu vũ, và tiếng dương cầm e é còn vang trong tai ông. Nhưng ở trên boong tàu, thì đã yên lặng. Cách chỗ ông đứng chừng vài bước, bà Macphail nằm trên chiếc ghế dài, đương nói chuyện với ông bà Davidson. Ông tiến lại phía đó, ngồi vào chỗ sáng, lột nón ra. Người ta thấy đầu ông hơi sói, tóc hung hung đỏ, mặt có tàn nhang cũng hung hung; ông khoảng tứ tuần; gầy, mặt choắt, có vẻ tỉ mỉ, hơi gàn; ông nói giọng Tô Cách Lan, nhỏ nhẹ, bình tĩnh.
Cặp Macphail và cặp Davidson - một gia đình truyền giáo - thân với nhau không phải vì thanh khí mà vì gặp nhau hàng ngày ở trên tàu. Họ có một điểm gần nhau là cùng ghét hạng hành khách ngày đêm đánh bạc và uống rượu trong phòng hút thuốc.
Trong số hành khách, ông bà Davidson chỉ làm quen với ông bà Macphail, điều đó là cho bà Macphail hãnh diện; mà bác sĩ Macphail, nhút nhát chứ không ngây thơ, cũng hơi cảm động về thịnh tình của cặp Davidson. Nhưng vốn có óc dị nghị, nên ban đêm, trong phòng riêng, bác sĩ thường chỉ trích ông bà Davidson.
Bà Macphail vừa chải kĩ mớ tóc mượt, vừa kể:
- Bà Davidson tự hỏi nếu không có vợ chồng mình thì không biết làm sao chịu nổi chuyến đi này. Bà ta bảo rằng khắp trên tàu, ông bà chỉ muốn làm quen với tụi mình thôi.
- Anh lại cứ nghĩ rằng một nhà truyền giáo đâu phải là một nhân vật quan trọng gì mà khó tính đến thế!
- Không phải là khó tính. Em hiểu lòng bà ta lắm. Ông bà ấy mà phải tiếp xúc với hạng người thô lỗ ở trong phòng hút thuốc thì chịu sao nổi?
Bác sĩ cười ngạo:
- Vị sáng lập ra tôn giáo của họ không chấp nhất tới như vậy.
Bà vợ đáp:
- Em van mình biết bao lần rồi, rằng đừng đem tôn giáo ra mà giễu. Anh Alec à, em không ưa cái tính đó đâu. Anh chỉ nhận thấy mặt trái của kẻ khác thôi.
Bác sĩ đưa cặp mắt xanh nhạt liếc nhìn bà vợ và làm thinh. Sống chung với nhau, ông đã có kinh nghiệm rằng muốn cho yên thân thì nên nhịn vợ một chút. Ông thay quần áo, xong trước, leo lên cái giường treo trên cao rồi lấy sách ra đọc để dỗ giấc ngủ.
Sáng hôm sau, khi ông lên trên boong thì tàu đã tới sát bờ. Ông chăm chú ngó. Sau đường viền trắng như bạc ở bãi biển, nổi lên những ngọn đồi cây cối um tùm. Trong bụi dừa rậm và xanh mọc lan tới gần bờ nước, ẩn hiện những chòi lá của thổ dân, và đây đó một ngôi nhà thờ nhỏ ló ra rực rỡ trắng. Bà Davidson tiến lại, đứng bên cạnh bác sĩ. Bà bận đồ đen, cổ đeo một dây chuyền vàng, đầu dây lủng lẳng một chiếc thánh giá xinh xinh. Bà nhỏ con; tóc đen, không bóng, chải, vén kĩ; mắt lồi sau một cặp mắt kính kẹp mũi, không gọng. Mặt dài như mặt ngựa, nhưng không có vẻ đần mà trái lại, có vẻ rất lanh lợi, linh hoạt như con chim. Nhất là tiếng nói the thé, sang sảng, không uốn giọng của bà làm cho ai cũng để ý tới. Nó đập vào tai ta một điệu đều đều, tàn nhẫn như tiếng động một cái máy khoan, đến bực mình.
Cặp môi mỏng của bác sĩ rán nhoẻn ra:
- Tới đây, bà có cảm giác là tới nhà rồi chứ?
- Những đảo san hô của chúng tôi thấp hơn miền này. Đây là đất hỏa sơn. Còn phải đi biển mười ngày nữa mới tới.
Ông Macphail vui tính, bảo:
- Trong miền này thì đảo san hô với đất hỏa sơn cũng là kế cận nhau cả, như phố trên phố dưới, ở xứ mình.
- Ông nói cũng hơi quá, nhưng quả thật là ở miền biển Nam này, quan niệm về không gian có hơi khác. Vậy lời của ông cũng không sai hẳn.
Bác sĩ Macphail thở dài nhẹ nhàng.
Bà Davidson nói tiếp:
- Đáng mừng là chúng tôi không phải truyền giáo ở đây. Nghe nói miền này công việc khó khăn lắm. Những tàu cặp bến làm cho dân chúng láo nháo cả lên; lại thêm có một quân cảng nữa, ảnh hưởng tai hại tới thổ dân. Trong khu vực chúng tôi, không có những khó khăn ấy. Tất nhiên có một vài con buôn, nhưng chúng tôi rán kìm họ được, nếu họ kháng cự thì chúng tôi sẽ làm cho họ chịu không nổi mà phải tự ý đi nơi khác.
Sửa lại cặp kính, bà ta ngó quanh đảo, vẻ tàn nhẫn.
- Ở đây công việc của nhà truyền giáo thật là vô vọng. Tôi không ngớt cảm ơn Chúa đã tránh cho vợ chông tôi phải chịu sự thử thách đó.
Bản đồ Samoa thuộc Mĩ
Khu truyền đạo của ông Davidson gồm một nhóm cù lao ở phía bắc Samoa; vì đảo nọ cách xa đảo kia nên ông dùng ghe máy, đi hằng ngày đường, để bà ở lại tổng hành dinh chỉ huy giáo hội. Nghĩ đến cái lối chỉ huy đắc lực của bà mà bác sĩ rùng mình.
Bằng một giọng không có sức nào át nổi, bà mạt sát sự trụy lạc của thổ dân, làm cho ta ghê tởm kịch liệt mà thấm thía. Cái lối thẹn thùng của bà thật cũng lạ. Ngay từ hồi mới quen nhau, bà đã rỉ tai bác sĩ:
- Ông ạ, hồi chúng tôi tới đảo, tục lệ cưới hỏi của họ nó chướng làm sao ấy, đến nổi tôi không dám tỏ cho ông nghe. Nhưng tôi sẽ kể cho bà nghe rồi bà kể lại cho ông.
Thế là hai bà, bà Davidson và bà Macphail, xích ghế lại gần nhau, nghiêm trang nói chuyện với nhau khoảng hai giờ đồng hồ. Bác sĩ Macphail đi bách bộ qua lại cho khí huyết lưu thông, bắt nghe được lời thì thầm liếng thoắng thao thao bất tuyệt của bà Davidson; thấy vợ há hốc miệng ra, nước da nhợt nhạt, ông biết rằng bà khoái nghe câu chuyện ghê tởm đó lắm. Ban đêm, trong phòng riêng, bà vợ hổn hển kể lại hết cho chồng nghe.
- Thế nào? Tôi nói có đúng không? Bà Davidson thốt lên một cách đắc ý vào sáng hôm sau. Có bao giờ ông được nghe những chuyện ghớm ghiếc như vậy không? Làm sao mà tôi dám kể thẳng cho ông nghe được! Mặc dầu ông là bác sĩ.
Rồi bà ta dò xét nét mặt của Macphail xem câu chuyện có gây kết quả như mình muốn không.
- Ông hiểu rằng hồi mới tới, chúng tôi lợm giọng chứ? Ông tưởng tượng giùm tôi, trong khắp các làng xóm, không làm sao kiếm được một thiếu nữ ngoan.
Bà ta nói tiếng “ngoan” đó bằng một giọng nghiêm khắc ngụ một ý nghĩa riêng.
- Vợ chồng tôi suy nghĩ kĩ rồi quyết định rằng việc đầu tiên phải làm là cấm ngặt khiêu vũ. Dân bản xứ họ mê cái đó lắm.
Bác sĩ Macphail đáp:
- Hồi trẻ tôi cũng không ghét môn khiêu vũ.
- Tối qua, nghe ông rủ bà nhảy một bản tôi cũng đã đoán được rằng ông không ghét môn đó. Trong chỗ vợ chồng cũng vui vui. Trong cái nhốn nháo như vậy, đừng nên chen chân với họ làm gì!
- Thế nào là nhốn nháo?
Bà Davidson lườm bác sĩ qua cặp kính kẹp mũi mà không trả lời, cứ tiếp tục:
- Trong giới người da trắng thì khác, nhưng tôi đồng ý với nhà tôi là, thật là khó coi khi ông chồng đứng bên mà nhìn người khác ôm vợ mình mà nhảy. Tôi thì từ hồi cưới tới giờ, không hề nhảy lấy một bước. Mà cái lối khiêu vũ của dân bản xứ khác hẳn. Nó không những trái luân thường mà còn đưa tới sự trụy lạc nữa. Thật là nhờ Trời, chúng tôi đã diệt được rồi. Có nói mà không ngoa rằng tám năm nay, trong khu vực của chúng tôi, không có một người nào khiêu vũ nữa.
Tàu đã tới bờ, bà Macphail lại nhập bọn. Thình lình tàu quẹo rồi chầm chậm tiến vô. Hải cảng rộng đủ chứa một hạm đội; chung quanh là những ngọn đồi xanh, cao, dựng đứng lên. Dinh của viên Thống đốc ở cửa biển, dưới ngọn gió khơi thổi vào, giữa một khu vườn. Ngọn cờ đầy ngôi sao và sọc ngang phấp phới nhè nhẹ. Tàu chạy ngang qua hai ba nhà quan cư xinh xắn, một sân quần vợt, rồi ghé bờ, bên cạnh nhiều kho hàng. Bà Davidson lấy tay chỉ một tàu buồm đậu cách đó hai ba trăm thước, bảo sẽ đáp tàu đó đi Apia. Thổ dân ở khắp nơi trong đảo ùa lại, ồn ào, vui vẻ, hoặc để coi, hoặc để bán hàng cho những hành khách đi Sydney. Họ đem lại những trái khóm, những nải chuối lớn, những thứ vải tapa, những kiểu chuỗi dây răng cá mập, vỏ ốc, chén kava, và những kiểu xuồng chiến nhỏ xíu. Lính thủy Mĩ ăn vận đàng hoàng, sạch sẽ, râu mới cạo, mặt sáng sủa, đi đi lại lại như một nhóm công chức. Trong khi phu khuân đồ của họ lên bờ, ông bà Davidson và ông bà Macphail nhìn đám đông. Ông bác sĩ nhận xét những mụn lở loét ghê tởm không sao lành được, mà đa số trẻ em và thanh niên bản xứ mắc phải. Cặp mắt nhà nghề của ông sáng lên khi ông thấy - lần ấy là lần đầu - những con bệnh mắc chứng da sùi lên như da voi, chân tay họ sưng vù, to lớn nặng nề dị thường. Đàn ông và đàn bà đều quấn cái lava-lava.
Bà Davidson nói:
- Thứ y phục đó thật sỗ sàng. Nhà tôi bảo phải cấm ngặt thứ đồ đó mới phải. Những kẻ chỉ quấn mỗi một miếng khăn đỏ ở bụng thay cho quần áo thì còn có tinh thần đạo đức, luân lí gì nữa.
Bác sĩ Macphail lấy khăn thấm mồ hôi ở trán, đáp:
- Nó hợp với khí hậu chứ.
Khi họ lên bờ, ánh nắng đã oi ả mặc dầu lúc đó còn sớm. Chung quanh là đồi, thành thử Pago-Pago khuất gió.
Bà Davidson nói tiếp, giọng như xé tai người ta:
- Trong những cù lao của chúng tôi, chúng tôi đã cấm tuyệt cái lava-lava. Chỉ còn vài người già cả bận nó thôi; còn đàn bà thì bận áo choàng mà đàn ông thì bận quần và áo nịt. Ngay từ hồi mới tới, nhà tôi đã tuyên bố như vậy trong một tờ thuyết trình: “Ngày nào mà con trai trên mười tuổi vẫn không bận quần thì ngày đó đạo Ki-tô vẫn chưa gọi là thắng được trên những đảo này”.
Nhưng cặp mắt nhanh như cắt của bà Davidson đã ngó những đám mây đen đương đùn lên ở cửa biển. Đã bắt đầu có vài giọt mưa.
Bà khuyên:
- Nên kiếm chỗ trú mưa thôi.
Họ theo đám đông chạy lại một cái xưởng lợp bằng tôn uốn, và mưa đổ xuống như trút nước. Được một lúc ông Davidson lại. Khi ở dưới tàu, mặc dù đối đãi với ông bà Macphail một cách rất lễ độ, ông ít giao du hơn bà vợ, chỉ đọc sách. Ông ít nói, gần như lầm lì, vì đạo bác ái mà gắng sức tỏ ra vui tính, chứ bản tính ông kín đáo, gắt gỏng là khác nữa. Bộ dạng kỳ dị: rất cao mà gầy, chân lêu nghêu, má hóp, gò má nhô, môi dày, có vẻ da đục, trái hẳn với nước da nhợt nhạt của ông. Tóc để rất dài. Mắt đen, sâu hoắm, trông thấy mà ghê; bàn tay tuyệt đẹp mà có vẻ mạnh mẽ lạ. Đặc biệt nhất là nhìn ông, ta có cảm giác rằng ông cố nén một ngọn lửa bừng bừng trong nội tâm. Cảm giác đó làm cho ta khó chịu. Không thể nào thân mật với con người như vậy được.
Ông lại báo tin không may. Bệnh sởi, một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thường làm cho dân Kamaka chết, đương phát ở đảo, và một thủy thủ trên chiếc tàu chạy Apia mà họ sẽ đáp, đã mắc bệnh đó. Người ta đã chở bệnh nhân lên bờ, đợi hết thời gian kiểm dịch; nhưng ở Apia người ta đều đánh điện tới cấm tàu vào bến cho tới khi biết chắc là bệnh không phát ra ở tàu nữa mới thôi.
- Thế là chúng ta phải ở lại đây ít nhất là mười ngày.
Bác sĩ Macphail bảo:
- Ở Apia người ta cần tôi gấp mà.
- Gấp cũng phải chịu. Nếu dưới tàu không còn người nào mắc bệnh nữa thì tàu mới được phép chở những hành khách da trắng đi, còn những người bản xứ thì phải đợi ba tháng nữa.
Bà Macphail hỏi:
- Ở đây có khách sạn không?
Ông Davidson mỉm cười:
- Tuyệt nhiên không.
- Thế thì làm sao bây giờ?
- Tôi mới nói với ông Thống đốc. Trên bãi biển, một nhà buôn có phòng cho mướn: tôi đề nghị hễ ngớt mưa một chút, chúng ta lại đó coi liền. Đừng hòng có tiện nghi đâu đấy. Miễn có được một cái giường để nằm và một cái mái để che là quí rồi.
Nhưng mưa vẫn chưa muốn ngớt và họ đành khoác áo mưa, che dù, đi đại. Thực ra không phải là một thành phố, chỉ có một dãy công sở, vài cửa hàng, rồi phía sau là ít nhà lá của thổ dân lúp xúp trong đám dừa và chuối. Đi độ năm phút là tới ngôi nhà họ kiếm. Nhà bằng cây, có hai từng, từng nào cũng có hiên rộng, mái lợp tôn uốn. Chủ nhà là một người lai tên Horn, vợ là người bản xứ, chung quanh là một bầy con còn nhỏ da ngăm ngăm; họ mở một cửa tiệm ở từng dưới bán đồ hộp và vải. Phòng cho mướn không có đồ đạc gì cả. Phòng của ông bà Macphail chỉ có mỗi một cái giường tồi tàn, với một cái mùng rách, một cái ghế khập khiễng và một cái bồn rửa mặt. Họ ngó quanh mà ngán ngẩm. Mưa vẫn không ngớt.
Bà Macphail bảo:
- Em chỉ lấy ra những đồ cần thiết thôi nhé?
Bà đương mở va-li thì bà Davidson nhanh nhẹn bước vô, không có vẻ gì buồn bực về cảnh tồi tàn của phòng. Bà ta khuyên:
- Trước hết, bà lấy kim chỉ mà vá ngay cái mùng lại đi, bà ạ; không thì đêm không thể nào nhắm mắt được đâu.
Bác sĩ Macphail hỏi:
- Muỗi dữ vậy kia à?
- Mùa này là mùa muỗi mà. Tới Apia, trong những buổi tiếp tân của ông Thống đốc, ông sẽ nhận thấy rằng người ta đưa cho mỗi bà một cái áo gối để bao chân cho khỏi bị muỗi đốt.
Bà Macphail thở dài:
- Nếu ngớt mưa cho mình được một lúc nhỉ! Trời có nắng lên, tôi mới vui dọn dẹp lại cái phòng này được chứ.
- Đợi cho hết mưa thì còn lâu, Pago-Pago là nơi mưa nhiều nhất trên Thái Bình Dương. Cái vịnh này, những đồi kia, đều giữ mưa lại. Đương giữa mùa mà.
Bà hết nhìn ông Macphail tới bà Macphail, cả hai đều đứng trơ trơ mỗi người một nơi như kẻ mất hồn, rồi cắn môi suy nghĩ. Cái cặp nhu nhược này thấy họ mà bực mình. Bẩm tính hoạt động, bà Davidson thấy tay ngứa ngáy, phải lăng xăng dọn dẹp lại căn phòng giúp họ.
- Đâu, đưa cho tôi kim chỉ đi. Tôi vá mùng lại cho trong khi bà mở va-li lấy đồ. Bữa cơm trưa vào lúc một giờ đấy nhé. Còn bác sĩ thì xuống bến xem người ta có đặt những đồ đạc cồng kềnh của ông vào một chỗ khô ráo không. Ông còn lạ gì dân bản xứ này nữa, chúng có thể xếp đại nó ở giữa trời lắm.
Ông Macphail lại khoác áo mưa xuống thang. Ở cửa, Horn đang nói chuyện với một người thủy thủ trưởng và một cô hành khách đi hạng nhì mà bác sĩ đã gặp nhiều lần ở dưới tàu. Thủy thủ trưởng nhỏ bé, nhăn nheo, dơ dáy lạ lùng, ngả đầu chào ông khi ông đi qua, và nói:
- Cái bệnh sởi thật là tai hại. Bác sĩ đã mướn được phòng rồi?
Macphail thấy giọng đó hơi sỗ sàng, nhưng vốn rụt rè nên không tỏ vẻ bực mình.
- Phải, chúng tôi đã mướn được phòng ở trên lầu.
- Cô Thompson cũng phải tới Apia với ông. Nên tôi dắt cô ấy lại đây.
Vừa nói vừa lấy ngón tay chỉ một ả đứng bên cạnh. Khoảng hai mươi bảy tuổi, mập, thô, ả bận áo dài trắng và đội một chiếc nón lớn cũng trắng. Bắp chân mập mạp của ả đeo vớ sợi, lòi ra khỏi đôi giày cổ cao bằng da dê sơn trắng bóng. Ả cười tình với bác sĩ, rồi nói, giọng khàn khàn:
- Thằng tướng này đòi cứa cổ em đấy, cái phòng khốn nạn đó mà đòi đồng rưỡi một ngày.
Người thủy thủ trưởng nói:
- Tôi bảo chú rằng cô ấy là bạn thân của tôi. Cô ấy không thể trả trên một đồng, thôi thì nhận cái giá đó đi.
Chủ tiệm mập mạp, bình tĩnh mỉm cười, ngọt như mía:
- Ông Swan à, nếu vậy thì tôi rán làm vui lòng ông. Để tôi bàn với nhà tôi xem, có thể được thì hạ giá một chút.
Cô ả Thompson nói:
- Thôi đi, đừng giở trò khỉ ra nữa. Quyết định phắt đi. Tôi trả chú một đồng một ngày đấy, không thêm một trinh.
Macphail mỉm cười, thấy cô ả trơ trẽn trả giá như vậy, ông ta phục quá. Ông thuộc vào hạng người không ưa trả giá, thà chịu hớ chứ không muốn cò kè thêm bớt. Chủ tiệm thờ dài.
- Nể lời ông Swan quá; vâng, thì tôi nhận.
Cô ả đáp:
- Ừ, biết điều đấy. Thôi vô! Tôi đãi các người một chầu rượu. Có thứ huýt-ky chính hiệu trong cái xắc này đây. Anh Swan, đem giùm vô. Bác sĩ nữa, vô cho vui.
- Thôi, cảm ơn. Tôi còn phải đi xem hành lí của tôi ra sao.
Nói xong, Macphail đi ra đường; mưa ở ngoài biển hắt vào; bờ bên kia mù mịt.
Ông ta gặp hai ba người bản xứ bận lava-lava, che cây dù lớn. Họ uyển chuyển, cử động khoan thai, đi đứng ngay ngắn. Khi họ ngang qua ông, họ mỉm cười chào bằng ngôn ngữ của họ.
Tới bữa, ông trở về tiệm. Bàn ăn đã dọn trong phòng khách, một phòng để trưng bày chứ không phải ở, buồn tẻ, hôi hám, chung quanh tường bày những hàng ghế bành ngay ngắn, rất có thứ tự; giữa trần thòng xuống một cây đèn treo mạ vàng, bao giấy lụa vàng để che ruồi. Ông Davidson vắng mặt. Bà Davidson giảng:
- Nhà tôi lại thăm ông Thống đốc; chắc ăn cơm trong dinh.
Một thiếu nữ bản xứ bưng ra một đĩa bò. Ít phút sau, chủ nhân vô phòng soát lại xem còn thiếu cái gì không.
Bác sĩ Macphail bảo:
- Ông Horn, ông mới thêm một khách trọ phải không?
- Cô ta chỉ mướn phòng thôi ạ, cơm nước tự lo lấy.
Horn liếc nhìn hai bà khách vẻ khúm núm:
- Tôi để cô ấy ở tầng dưới, như vậy khỏi có sự chung chạ mà phiền đến hai bà.
Bà Macphail hỏi:
- Có phải cô ta cũng ở tàu lên không?
- Thưa bà vâng, đi hạng nhì ạ. Cô ấy tới Apia để làm chân thu tiền nào đó.
- Vậy à?
Khi chủ nhà ra, Macphail nói:
- Ăn một mình trong buồng thì chắc buồn lắm.
Bà Davidson hỏi:
- Nếu là một hành khách hạng nhì thì như vậy cũng là chuyện thường. Ai đấy nhỉ?
- Lúc tôi ở dưới nhà, người thủy thủ trưởng dắt cô ta lại. Tên cô ta là Thompson.
Bà Davidson hỏi:
- Phải cô ả tối hôm qua khiêu vũ với hắn không?
- Có lẽ. Tôi cũng không biết rõ. Chắc đúng như vậy.
Bà Davidson nói:
- Hạng hư thân mất nết.
Rồi họ nói qua chuyện khác. Ăn xong, mệt mỏi vì sáng hôm đó dậy sớm, họ chia tay nhau, về phòng riêng nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, trời vẫn xám, mây vẫn thấp, nhưng không mưa, họ dạo chơi trên con đường lớn mà người Mĩ xây dọc bờ vịnh.
Khi về tới nhà thì ông Davidson cũng vừa mới về, ông bảo:
- Có lẽ chúng ta phải ở lại đây đến nửa tháng. Tôi đã bàn cãi với ông Thống đốc, ông ấy bảo không có cách nào khác.
Bà Davidson ngó chồng, vẻ ái ngại nói:
- Nhà tôi nóng về khu vực để làm việc lắm.
Davidson đi đi lại lại trong hiên, nói tiếp:
- Chúng tôi vắng mặt một năm rồi; tôi ngại rằng dưới sự chỉ huy của các mục sư bản xứ, giáo hội không còn giữ được kỉ luật nữa. Phải nhận rằng họ tốt, sùng đạo, sợ Chúa; đức tin thành thật của họ có thể làm cho nhiều người tự cho là ngoan đạo ở xứ mình phải mắc cỡ. Nhưng họ thiếu nghị lực một cách thảm hại. Họ chống cự được một lần, hai lần thôi, không thể nào kiên nhẫn hơn được. Dù họ là người đáng tin cậy tới mấy, mà giao cho họ thay mình thì rồi thế nào cũng có chỗ hỏng.
Ông ta nói xong, đứng lại. Thân hình gầy mà cao, cặp mắt sáng ngời trong một gương mặt xanh xao, có vẻ uy nghi lắm. Tấm lòng thành thực hiện rõ trong cử chỉ hăng hái, giọng nói trầm trầm, sang sảng.
- Tôi tin rằng bổn phận tôi vạch rõ. Phải hoạt động, hoạt động gấp. Nếu cây mà đã mục rồi thì phải cưa liệng vô lửa.
Tối hôm đó, họ không ăn cơm mà uống trà và ăn bánh ngọt. Trong phòng khách nghiêm trang, các bà ngồi đan, bác sĩ hút thuốc; còn nhà truyền giáo thì kể cho họ nghe hoạt động của mình trên các đảo.
- Hồi chúng tôi mới tới, thổ dân không có quan niệm về tội lỗi, phạm tất cả những giới luật của Thiên Chúa mà không ngờ. Nhiệm vụ khó khăn nhất của tôi là dạy cho họ hiểu thế nào là điều ác.
Ông bà Macphail biết rằng ông Davidson đã truyền giáo năm năm ở quần đảo Salomon trước khi gặp bà ấy. Hồi đó bà truyền giáo ở Trung Hoa. Họ về xứ sở nghỉ phép và gặp nhau ở Boston, trong một cuộc hội nghị các nhà truyền giáo. Họ cưới nhau rồi được phái tới miền này luôn cho tới ngày nay.
Trong khi chuyện trò với ông Davidson, ông bà Macphail có cảm giác là con người đó bất khuất, can đảm lạ lùng. Vừa truyền giáo, vừa làm y sĩ, ông phải đi tới đảo này, đảo khác bất kì lúc nào. Mùa mưa, trong những cơn giông tố, ngồi trong một chiếc thuyền đánh cá voi còn nguy thay, mà người ta thường lái chiếc ca-nô lại đón ông đi. Hễ có người bị tai nạn hay ốm đau, thì không khi nào ông do dự. Trên mười hai lần rồi, ông phải chống cự với sóng gió, ở giữa biển, ban đêm; và nhiều lần bà vợ tưởng mình đã thành quả phụ.
Bà ta kể:
- Thỉnh thoảng tôi năn nỉ ông ấy đừng đi hoặc đợi cho bớt sóng gió rồi hãy đi, nhưng vô ích! Nghị lực sắt đá, hễ quyết định thì không có gì ngăn cản được.
Davidson lớn tiếng:
- Làm sao mà tôi có thể bảo thổ dân họ tin ở Chúa được nếu chính tôi, tôi không làm gương cho họ? Trong cơn nguy mà họ cho gọi tôi thì họ biết rằng thế nào tôi cũng tới, trừ phi là một việc ngoài sức của con người. Thử nghĩ coi, Chúa có lẽ nào bỏ tôi không khi tôi làm việc cho Ngài? Ngài mà ra lệnh thì gió sẽ dậy, sóng sẽ gầm.
Macphail vốn nhút nhát. Không thể nào ông ta quen được tiếng đạn vèo vèo trên miệng hầm; và khi ở tiền tuyến, có lần ông gắng tự chủ cho tay khỏi run, đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, làm mờ cả cặp kiếng. Cho nên nhìn nhà truyền giáo, ông hơi rùng mình, bảo:
- Tôi ước sao có thể nói rằng không hề biết sợ một cái gì.
Davidson bẻ ngay:
- Tôi ước sao ông có thể nói rằng ông tin Chúa.
Tới đó, ông ta nhớ lại những buổi đầu tiên hai vợ chồng sống ở quần đảo.
- Đôi khi vợ chồng tôi ngó nhau mà nước mắt ròng ròng trên má! Làm việc không ngừng suốt ngày đêm mà cơ hồ không có kết quả. Không có nhà tôi không biết tôi đã ra sao. Khi tôi mềm lòng, chán nản, nhà tôi làm cho tôi can đảm lại, tin tưởng lại.
Bà Davidson e lệ cúi mặt xuống, cặp má hốc hác bỗng ửng lên một chút. Tay bà run run. Không nói năng gì cả.
- Không có ai giúp chúng tôi cả. Cô độc trong cảnh tối tăm, cách cả ngàn cây số mới có người đồng hương. Mỗi lần thấy tôi tuyệt vọng, thì nhà tôi ngưng may vá, mở Thánh Kinh ra đọc cho tới khi nào sự bình tĩnh trở lại tâm hồn của tôi như giấc ngủ trở lại cặp mi em bé thì mới thôi, lúc đó gấp kinh lại, nhà tôi bảo: “Dù họ không muốn thì ta cũng cứ cứu họ”. Và mạnh mẽ tin trở lại ở Chúa, tôi đáp: “Phải nhờ Chúa phò hộ, anh phải cứu họ, anh phải cứu họ”.
Ông ta lại đứng bên cạnh bàn như đứng trước một cái giá đặt kinh.
- Bản chất của họ truỵ lạc quá rồi, đến nỗi không thể nào giảng cho họ thấy cái truỵ lạc của họ được. Những hành động mà họ cho là tự nhiên thì chúng tôi phải biến đổi thành tội lỗi; chẳng những sự gian dâm, nói dối, ăn cắp, mà ngay như sự lõa lồ, thói khiêu vũ, không lại nhà thờ, cũng là tội lỗi. Tôi đặt ra cái luật rằng đàn bà mà để hở ngực, đàn ông mà không mặc quần là có tội.
Bác sĩ Macphail ngạc nhiên hỏi:
- Làm cách nào vậy?
- Dùng cách phạt tiền. Tất nhiên chỉ mỗi một cách làm cho người ta hiểu rằng một hành động nào đó là tội lỗi; cách đó là cách phạt họ nếu họ làm hành động đó. Vậy tôi phạt tiền họ nếu họ không tới nhà thờ, nếu họ khiêu vũ hoặc ăn bận không đứng đắn. Tôi đặt ra một tà-ríp; tội nào cũng phải chuộc bằng tiền hay bằng công. Rốt cuộc họ hiểu.
- Có khi nào họ không chịu nộp phạt không?
- Làm sao có thể như vậy được?
Bà Davidson mím đuôi môi, tiếp lời chồng:
- Dám chống cự ông Davidson thì phải là gan cóc tía.
Bác sĩ ngó ông bạn, vẻ suy nghĩ. Tuy thấy chướng tai mà còn do dự chưa dám chỉ trích.
- Ông đừng quên là tới nước cùng, tôi có thể đuổi họ ra khỏi giáo đường nhé!
- Họ sợ hình phạt đó à?
Ông Davidson xoa tay nhè nhẹ, mỉm cười:
- Vô phương bán dừa, và đi chài về hết chia phần. Gần chắc chắn là chết đói. Họ sợ lắm chứ!
Bà Davidson góp ý:
- Sao mình không kể chuyện Fred Ohlson cho ông bà nghe?
Nhà truyền giáo nhìn bác sĩ bằng cặp mắt nẩy lửa:
- Fred Ohlson là một con buôn Đan Mạch lập nghiệp ở đảo từ lâu. Nhờ buôn bán, hắn khá giàu và thấy chúng tôi tới, hắn không vui. Hắn quen làm mưa làm gió, mua dừa của thổ dân muốn trả sao thì trả, có khi trả bằng hàng hóa, có khi trả bằng rượu huýt-ky. Vợ hắn là người bản xứ, mà hắn công nhiên lừa vợ. Lại thêm cái tật say sưa. Tôi cho hắn cơ hội sửa tính, nhưng hắn không nghe lại còn cười ngạo tôi nữa.
Khi nói những lời cuối cùng đó, giọng Davidson trầm hẳn xuống, rồi ông ta ngừng một hai phút. Người ta đoán có cái gì kinh khủng sắp xảy ra.
- Trong hai năm, hoàn toàn phá sản, công lao cóp nhặt trong một phần tư thế kỉ tiêu tan hết. Bị áp đảo, sau cùng hắn phải lại tôi, thảm hại như một tên hành khất, năn nỉ tôi cho hắn giấy tàu về xứ ở Sydney.
Bà Davidson nói:
- Phải thấy cái bộ mặt của hắn lúc đó! Xưa kia khỏe mạnh đẹp đẽ, bệ vệ, dõng dạc, bây giờ nhận không ra nữa, tay chân run lẩy bẩy. Hắn đã hóa thành một ông già, mau quá!
Davidson chăm chú ngó trong bóng tối. Mưa lại đổ. Bỗng có tiếng ở nhà dưới đưa lên, ông ta quay lại ngó vợ, như có ý hỏi: “Cái gì vậy?”. Một chiếc máy hát phát ra một điệu ồn ào như nghẹt mũi, chướng tai.
Ông ta hỏi:
- Cái gì vậy?
Bà vợ sửa lại cặp kính kẹp mũi.
- Có một cô hành khách hạng nhì mướn phòng ở dưới nhà. Có lẽ tiếng hát ở phòng đó phát ra.
Họ yên lặng nghe. Rồi có tiếng người khiêu vũ. Rồi âm nhạc ngưng bặt, tiếng nút chai nổ lốp bốp, trong khi tiếng cười nói vang lên.
Bác sĩ Macphail bảo:
- Chắc cô ta đãi tiệc từ biệt bạn bè dưới tàu. Tàu nửa đêm nhổ neo thì phải?
Ông Davidson làm thinh. Rồi ngó đồng hồ, hỏi vợ:
- Mình về phòng chứ?
Bà ta đứng dậy, gấp đồ đan lại, đáp:
- Vâng, về.
Bác sĩ hỏi:
- Giờ này mà đi ngủ, e sớm chăng?
Bà Davidson đáp:
- Chúng tôi còn phải đọc kinh. Bất kỳ ở đâu, chúng tôi cũng phải đọc một chương Thánh Kinh trước khi đi nằm, đọc hết những lời chú giải nữa ông ạ, rồi lại bình luận với nhau cho thấu nghĩa. Một cách luyện tinh thần rất công hiệu.
Hai cặp vợ chồng đó chia tay nhau. Ở lại trong phòng, vợ chồng bác sĩ ngồi im một lát, rồi chồng bảo vợ:
- Anh muốn đi kiếm cỗ bài đánh chơi vài ván.
Bà vợ chăm chú ngó chồng, do dự. Câu chuyện của gia đình nhà truyền giáo làm cho bà không được yên lòng; bà không dám thú với chồng rằng bà ngại họ trở lại lắm, thấy mình đánh bài sẽ coi mình ra sao. Ông chồng trở về với cỗ bài, bà nhìn ông chơi một mình mà nơm nớp sợ. Ở nhà dưới, cuộc chè chén say sưa vẫn tiếp tục.
Sáng hôm sau, trời hơi đẹp, cặp Macphail tìm cách tiêu khiển cho qua cái nửa tháng ngồi không ở Pago-Pago này.
Họ xuống bến, mở rương lấy ít cuốn sách ra. Ông chồng lại thăm bác sĩ giải phẫu, giám đốc bệnh viện thủy quân và được dẫn đi coi các phòng ở bệnh viện.
Lại chào ông Thống đốc mà không gặp, để thiếp lại. Giữa đường gặp cô Thompson, Macphail gở nón chào, cô ta vui vẻ, ồn ào đáp lễ “Chào bác sĩ”. Cô ả cũng bận chiếc áo dài trắng như hôm trước. Đôi giày cao gót, láng, để hở cặp giò mập mạp đó, trong cái khung cảnh này mới chướng mắt làm sao!
Bà Macphail nói:
- Ở cái xứ này mà ăn bận như vậy, coi sao được? Con người thô bỉ!
Về đến nhà, thấy cô ả đương chơi dưới mái hiên với một đứa trẻ da sạm.
Macphail nói nhỏ với vợ:
- Trò chuyện với cô ta vài câu; cô ta lẻ loi ở chốn này; mà mình làm ra vẻ như không thấy, cứ làm lơ thì không nhã.
Bà Macphail cũng hay e lệ, nhưng luôn luôn chiều ý chồng, nên cũng hỏi cô Thompson một câu vớ vẩn:
- Hình như chúng ta ở trọ một nhà với nhau.
Cô ả đáp:
- Thật là tệ hại, há! Chui rúc trong cái chuồng ngựa này; vậy mà họ còn bảo tôi may mắn lắm mới kiếm được một căn phòng đấy. Không lẽ mà mình đi ở cái chòi của tụi bản xứ; chứ lại đó như tụi khác còn hơn. Tại sao mà họ không cất khách sạn nhỉ?
Họ nói với nhau vài câu nữa. Cô Thompson nói bô bô, miệng quai ra chỉ mong có người để kể lể, nhưng bà Macphail không biết nói gì thêm, bảo:
- Thôi, tôi phải lên phòng.
Tối hôm đó, tới bữa cơm, Davidson đưa tin:
- Có hai anh lính thủy ở trong phòng con đó. Nó làm quen họ cách nào nhỉ?
Bà Davidson nói:
- Chắc ả không khó tính lắm.
Cả bọn đều mệt mỏi vì suốt ngày ở không.
Macphail thở dài:
- Phải ở lại đây tới nửa tháng, không biết rồi tình trạng chúng mình sẽ ra sao?
Nhà truyền giáo đề nghị:
- Phải lập chương trình cho mỗi ngày. Tôi sẽ bỏ ra vài giờ để học, ít giờ để tập thể dục, bất kì mưa nắng - mùa mưa thì đợi nắng làm sao được? - thì giờ còn lại thì tiêu khiển.
Macphail nhìn bạn, không có vẻ tin lắm. Chương trình đó nặng quá đối với ông. Trong khi họ ăn món thịt bò - nhà bếp chỉ biết nấu có mỗi món đó - thì máy hát lại vang lên.
Khách khứa của cô Thompson cùng lớn tiếng hát một bản đương được thiên hạ hoan nghênh, nhưng rồi giọng oang oác của cô ả lấn át hết. Họ la hét, đùa giỡn.
Hai gia đình rán tiếp tục chuyện trò, nhưng rồi cũng phải chú ý tới tiếng li cụng nhau, tiếng ghế lết trên sàn. Chắc có thêm khách tới.
A, một dạ hội rồi đây.
Hai ông đương bàn cãi với nhau về y khoa thì bà Macphail bỗng chen vô:
- Không biết cô ta có chỗ đâu mà chứa bấy nhiêu người?
Óc bà ta vơ vẩn đâu đâu. Davidson nhăn mặt lại. Mặc dầu đương nói chuyện về y khoa mà trí não ông cũng hướng về phía dưới. Thình lình trong khi bác sĩ tả vài chứng bịnh mà ông có dịp nhận xét trên mặt trận Plandre, thì nhà truyền giáo đứng phắt ngay dậy, thốt một tiếng lớn.
Bà Davidson hỏi:
- Cái gì đó, mình?
- Hiển nhiên rồi! Sao mà mình không nghĩ tới chứ? Con đó ở Iwelei ra mà!
- Vô lí!
- Nó đáp tàu ở Honolulu. Rõ ràng quá rồi. Và nó kiếm ăn ở đây. Ở đây!
Ông ta dằn mạnh vào hai tiếng cuối, vẻ khinh bỉ.
Bà Macphail hỏi:
- Iwelei là cái gì?
Cặp mắt sâu hoắm của Davidson nhìn trừng trừng bà Macphail, giọng ông ta vang lên vì ghê tởm:
- Cái xóm quỉ ở Honolulu, xóm bình khang. Một vết dơ trên nền văn minh của chúng ta.
Iwelei của đầu tỉnh. Từ hải cảng đi vào những ngõ hẻm, trong bóng tối, qua một cái cầu lung lay, tới một đại lộ vắng vẻ đầy ổ gà, rồi thình lình vô một khu có đèn sáng trưng. Hai bên đường có những xưởng sửa xe hơi, những quán cà phê rực rỡ, mà quê mùa, ồn ào tiếng đàn, tiếng ca, những tiệm hớt tóc và tiệm bán thuốc hút. Không khí có cái gì như kích thích, chờ đợi khoái lạc.
Con đường lớn đó chia xóm Iwelei làm hai, mỗi bên có những con đường ngang nhỏ. Quẹo vào những con đường này là thấy hàng dãy nhà, mà nhà nào nhà nấy xinh xắn, đẹp đẽ, sơn xanh, cách nhau bằng những lối đi rộng và thẳng. Cái vẻ đều đặn, xinh đẹp, ngăn nắp đó mà lại tiết ra một cái gì làm cho ta cái cảm giác ghê tởm; vì không ở đâu mà sự mua son bán phấn lại tổ chức có hệ thống như ở đây. Chỉ có ít ngọn đèn rải rác trên những lối đi, thành thử nếu ánh đèn trong nhà không chiếu qua cửa sổ thì ngoài đường sẽ tối tăm. Đàn ông dạo tới dạo lui, ngó những cô ả ngồi ở cửa sổ đương thêu thùa hoặc đọc sách, làm bộ không để ý đến khách qua đường. Đàn ông cũng như đàn bà thuộc đủ dân tộc: nào là người Mĩ, nào là những lính thủy ghe bến, tụi lính tình nguyện trên chiến hạm, say mèm, rồi tụi săng đá da trắng và da đen đóng đồn trên đảo, bọn Nhật Bản đi từng nhóm hai ba người, bọn Hạ-Uy-Di, bọn Trung Hoa áo dài lượt bượt, bọn Phi Luật Tân đội những chiếc nón kì cục; hết thảy đều lầm lũi, như ngạt thở. Tình dục sao mà tẻ.
Davidson hống hách quát tháo:
- Ổ trụy lạc trâng tráo nhất trên Thái Bình Dương. Đã bao lâu nay, các nhà truyền giáo mạt sát sự đồi bại đó và sau cùng báo chí trong miền cũng phải lên tiếng. Mà ty cảnh sát không chịu diệt. Họ viện lẽ rằng không sao tránh được cái xấu xa đó, vậy thì tốt hơn là dồn vào một khu cho dễ kiểm soát. Sự thực là họ ăn tiền. Đúng vậy, những chủ quán cà phê, tụi ma cô và chính tụi điếm nữa hối lộ họ. Nhưng rồi rốt cuộc họ cũng phải hành động.
Macphail nói:
- Tôi có đọc tin trên báo Honolulu.
- Đúng ngày chúng tôi tới thì xóm Iwelei với tất cả cái tội lỗi, cái nhục của nó bị diệt hẳn. Toàn dân khu đó bị đưa ra tòa… Tại sao mà lại không nhận ngay ra được con điếm đó kia chứ?
Bà Macphail bảo:
- Bây giờ nghe ông nói tôi mới nhớ rằng cô ta xuống tàu vài phút trước khi tàu chạy. Lúc đó tôi đã nhận thấy cô ta có vẻ không lương thiện.
Vẫn giận dữ, Davidson la:
- Làm sao mà nó dám tới đây, kìa? Tôi không khi nào tha thứ điều đó.
Rồi ông ra rảo cẳng bước ra cửa.
Bà Macphail hỏi:
- Ông định làm gì vậy?
- Bà muốn tôi làm cái gì nữa bây giờ? Phải làm ngưng cái đó lại chứ. Tôi không để cho chúng nó biến cái nhà này thành... thành...
Ông ta kiếm một tiếng để khỏi làm hai bà mắc cỡ. Cảm xúc làm cho mắt ông sáng ngời, nước da đã tái lại tái thêm.
Bác sĩ nói:
- Hình như có ba bốn người đàn ông ở dưới đó. Xuống lúc này e có khinh xuất chăng?
Vị cố đạo lườm bác sĩ, vẻ khinh bỉ, rồi chẳng nói chẳng rằng, chạy ra khỏi phòng.
Bà vợ bảo:
- Ông chưa biết tính nhà tôi, không có sự nguy hiểm nào về bản thân mà có thể ngăn cản ông ấy được khi thực hành nhiệm vụ.
Bà ta ngồi, tay chắp lại vì kích thích mạnh, lưỡng quyền cao đỏ ửng lên, rán nghe xem cái gì xảy ra ở dưới. Cả ba đều lắng tai nghe. Thấy tiếng Davidson xuống cầu thang bằng cây rồi mở cửa. Thình lình tiếng ca ngưng bặt nhưng máy vẫn hát vẫn ồ ồ một bản thô lỗ. Có tiếng Davidson vang lên, tiếp ngay là tiếng một vật nặng rớt xuống, âm nhạc ngừng. À, thì ra ông đã gạt cái máy xuống sàn. Rồi có tiếng Davidson với tiếng the the của cô Thompson; sau cùng là tiếng ồn ào, như có nhiều người cùng gào hét một lúc, bà Davidson thở dài, hai bàn tay nắm chặt lại. Macphail nhìn hết bà nọ đến bà kia, không biết nên làm gì. Ông không muốn xen vào chuyện đó, nhưng có lẽ hai bà mong ông xuống chăng? Rồi như có cuộc ẩu đả. Tiếng động bây giờ rõ ràng hơn. Ông Davidson đã bị họ hất ra ngoài rồi chăng? Cửa đóng lại cái rầm. Yên lặng một chút, rồi có tiếng ông Davidson leo cầu thang, trở về phòng.
Bà Davidson bảo:
- Tôi đi kiếm nhà tôi.
Bà ta đứng dậy, đi ra.
Bà Macphail dặn:
- Nếu tôi giúp được bà việc gì thì bà kêu tôi nhé.
Khi bạn đi khỏi, bà nói:
- Em mong rằng ông ấy không bị thương.
Bác sĩ hơi gắt:
- Khi không ông ấy xen vô làm cái gì chứ?
Họ yên lặng ngồi xuống. Được vài phút, tiếng khiêu khích của máy hát lại làm họ giật mình. Có những giọng khàn khàn ngạo nghễ hát một bài tục tĩu.
Hôm sau bà Davidson xanh xao, mệt nhọc. Bà than là nhức đầu. Vẻ bà già đi, sọm lại. Bà kể chuyện với bà Macphail rằng cả đêm ông chồng không ngủ được, trằn trọc ghê gớm rồi năm giờ sáng xuống phố. Họ hắt một li rượu bia vào ông làm cho quần áo ông bê bết. Nghĩ đến cô Thompson, mắt bà Davidson sáng lên, bà bảo:
- Con đó sẽ chua xót hối hận rằng đã dám coi thường ông Davidson. Lòng ông ấy rất tốt, sẵn sàng giúp đỡ mọi người; nhưng đối với tội lỗi thì ông rất nghiêm khắc, và khi cơn giận chính đáng của ông đã bùng lên thì thật là ghê ghớm.
Bà Macphail hỏi:
- Ông nhà tính làm gì đây?
- Tôi không biết, nhưng tôi không ở vào địa vị con đó.
Bà Macphail rùng mình. Trong thái độ quyết tin đắc ý ấy có cái gì rất đáng sợ. Vì hôm đó hai bà có việc cùng đi với nhau, nên họ song song xuống cầu thang. Ngang qua cửa phòng để ngỏ của cô Thompson, họ thấy cô bận một cái áo ngủ dơ dáy, đương nấu nướng cái gì trên lò.
Cô ta nhanh nhẩu:
- Mạnh giỏi? Sáng nay ông Davidson đã bớt chưa?
Họ làm thinh bước qua, mặt vênh lên, như không trông thấy ả.
Tiếng cười chế nhạo vang lên, làm cho họ đỏ mặt. Bà Davidson thình lình quay lại:
- Sao chị dám ăn nói với tôi như vậy hả? Chị mà chửi tôi thì tôi đuổi chị ra khỏi nơi này, nghe!
- Này, tôi có mời ông Davidson lại chơi với tôi không? Mà ông ấy tới?
Bà Macphail vội nói nho nhỏ:
- Kệ nó, đừng đáp.
Khi đi xa rồi, không còn nghe được gì nữa, họ mới ngừng lại. Bà Davidson giận dữ gần như nghẹt thở:
- Quân này cả gan thật, cả gan thật!
Khi trở về nhà, họ gặp cô ta mặc đồ rất bảnh, dạo ở bến. Chiếc nón rộng lớn, hoa rực rỡ, có vẻ khiêu khích. Đi ngang, cô ả gọi, giọng đùa cợt, làm cho hai bà ngượng chết đi, và hai người lính thủy Mĩ thấy vậy, cười ngạo. Về tới nhà thì mưa lại bắt đầu đổ.
Bà Davidson cười cay chua:
- Bộ đồ vía của nó sẽ hư hết.
Giữa bữa cơm trưa thì ông Davidson về, ướt như chuột lột, nhưng không chịu thay quần áo. Im lặng rầu rĩ, ông ta nuốt vài miếng rồi chăm chú nhìn những hạt mưa nghiêng nghiêng. Bà vợ kể chuyện hai lần gặp ả Thompson ông cũng không đáp, chỉ cau mày một chút, tỏ rằng có nghe.
Bà Davidson đề nghị:
- Mình có nên nói với chủ tiệm đuổi nó ra khỏi nhà này không? Không thể để cho nó chửi chúng mình được.
Macphail hỏi:
- Bảo cô ta đi đâu bây giờ?
- Lại ở với tụi thổ dân ấy.
-Thời tiết như vầy mà ở trong chòi thì bất tiện lắm.
Nhà truyền giáo nói:
Tôi đã ở chòi nhiều năm.
Khi đứa ở gái bưng món ăn xen thường ngày, tức món chuối chiên lên, Davidson quay lại, bảo nó:
- Xuống hỏi cô Thompson khi nào cô ấy có thể tiếp tôi được.
Đứa ở e lệ cúi đầu rồi đi ra.
Bà Davidson hỏi:
-Tại sao mình lại muốn thăm nó?
- Anh có bổn phận phải nói với cô ta. Anh không muốn hành động trước khi cho cô ta cái cơ hội cuối cùng là để cải tà qui chính.
- Mình không biết nó mà. Nó chửi mình cho mà xem.
- Thà cô ta cứ chửi. Cứ khạc nhổ vào mặt tôi này. Linh hồn của cô ta bất diệt, và anh phải gắng hết sức tìm đủ mọi cách để cứu vớt linh hồn đó.
Tiếng cười ngạo mạn của cô ả như vẫn còn văng vẳng bên tai bà Davidson.
- Nó sa đọa quá rồi.
- Sa đọa quá đối với lòng từ bi của Chúa ư?
Cặp mắt ông bỗng sáng lên và giọng ông hóa ra êm ái, uyển chuyển:
- Không khi nào! “Khi một kẻ tội lỗi sa xuống thấp hơn cái hạ từng của Địa ngục, thì tình yêu của Chúa Kitô cũng tới kẻ đó được”.
Đứa ở trở lên với câu trả lời:
- Cô Thompson gởi lời chào Cha Davidson; cô ấy sẽ vui lòng tiếp người, miễn là người đừng lại phá trong những giờ làm việc của cô ấy.
Nghe lời nhắn đó, ai nấy im lặng, không khí lạnh lẽo. Bác sĩ mím môi để khỏi mỉm cười sợ làm chướng mắt bà vợ: lời lẽ khiêu khích như vậy làm mà cho là vui được! Tới cuối bữa không ai nói với ai nửa lời. Rồi các bà đứng dậy, lấy kim chỉ ra. Từ đầu chiến tranh, bà Macphail đã đan vô số khăn bao mũi[5] và lúc này bà đương đan một cái khác. Chồng bà đốt ống điếu. Ngồi lì ở chỗ cũ, ông Davidson ngó mặt bàn, vẻ suy nghĩ lung. Sau cùng ông đứng dậy lẳng lặng đi ra. Họ nghe thấy tiếng ông xuống cầu thang và giọng khiêu khích của cô Thompson: “Mời vô!” khi ông ta gõ cửa. Một giờ sau ông ta mới trở ra.
Macphail ngó mưa trút. Thần kinh ông không chịu nổi nó nữa rồi. Ở bên Anh mưa lặng lẽ, nhẹ nhàng rớt xuống đất; ở đây mưa tàn nhẫn đến phát ghê; người ta tưởng đâu như trong mưa có cái ranh mãnh của những sức man dã của hóa công. Không phải là một trận mưa rào, mà là một cơn lụt, một cơn hồng thủy nó đập vào nóc tôn như tiếng búa đều đều, không ngớt, làm cho người ta hóa điên lên! Quả thực là có sự cuồng nộ trong cái mưa đó. Thỉnh thoảng người ta muốn gào lên, bảo nó ngừng đi nhưng rồi khốn khổ, thất vọng, người ta ngồi phịch xuống, uể oải, như là gân cốt bỗng sụm xuống.
Khi Davidson trở về, Macphail quay lại, và hai bà đều ngẩng đầu lên.
- Tôi đã thử đủ cách, đã khuyên nó cải tà qui chính. Con quỉ!
Ông ta ngưng nói. Bác sĩ thấy mắt ông ta tối lại và vẻ mặt xanh xao hóa cứng rắn, nghiêm khắc.
- Bây giờ thì tôi sẽ vung cây roi mà Chúa Ki tô đã dùng để trục xuất bọn đổi tiền và bọn sét-ti ra khỏi đền của Đấng Tối Cao.
Ông ta mắm môi, cau cặp mày đen, đi đi lại lại trong phòng.
- Nó có chạy trốn đến chân trời thì tôi cũng đuổi theo đến cùng.
Thình lình ông ta quay lại rồi chạy ra khỏi phòng. Người ta lại nghe thấy ông xuống cầu thang.
Bà Macphail hỏi:
- Ông ấy làm gì thế này?
- Tôi không biết.
Bà Davidson gỡ cặp kính kẹp mũi để lau.
- Khi nhà tôi làm việc cho Chúa thì không khi nào tôi hỏi han gì cả.
Nói xong rồi thở dài.
- Bà làm sao vậy?
- Nhà tôi không biết giữ sức, kiệt sức mất thôi.
Người chủ nhà cho bác sĩ hay kết quả đầu tiên của Davidson. Macphail đang đi ngang cửa tiệm, thì Horn bước ra bắt chuyện, vẻ mặt lo lắng dữ.
- Cha Davidson trách tôi sao lại cho cô Thompson mướn phòng, nhưng trước kia tôi đâu có biết cô ấy là ai. Có kẻ nào lại mướn phòng thì tôi chỉ cần biết kẻ ấy trả nổi tiền phòng hay không. Mà cô ta đã trả trước một tuần.
Bác sĩ không muốn liên lụy vào vụ đó.
- Nghĩ cho cùng thì ông là chủ nhà. Ông cho chúng tôi ở trọ cũng là may cho chúng tôi rồi.
Horn dò xét bác sĩ, vẻ nghi ngờ. Macphail bênh vực Davidson tới cái mức nào? Rồi hắn ngập ngừng, tiếp:
- Tất cả các nhà truyền giáo đều vào phe với nhau. Khi các ông ấy tấn công một con buôn nào thì chỉ còn cách là đóng cửa tiệm rồi bỏ xứ.
- Ông ấy có yêu cầu ông đuổi cô ta đi không?
- Không, miễn là cô ta có thái độ đàng hoàng. Ông ấy bảo không muốn tỏ vẻ bất công đối với tôi. Tôi đã hứa không cho cô ấy tiếp khách nữa. Tôi mới bảo cô ấy đây.
- Cô ta nghĩ sao?
- Cô ta chửi vào mặt tôi.
Chủ nhà lúng túng vụng về trong chiếc quần trắng cũ. Cô Thompson này khó xử quá.
- Có lẽ cô ta sẽ dời chỗ. Không được tiếp khách nữa thì ở đây làm cái gì, phải không ông? - Cô ta đi đâu bây giờ, vô ở trong một cái chòi nào đó ư?
Vả lại lưới tầm sắt của các nhà truyền giáo đã bổ xuống thì có người thổ dân nào dám chứa cô ta nữa.
Bác sĩ nhìn mưa.
- Đợi tạnh làm gì, hoài công!
Tối hôm đó trong phòng khách, Davidson kể lại hồi ức ở trường Trung học. Nhà nghèo, ông ta phải làm đủ các việc kì cục trong các vụ nghỉ để có tiền ăn học.
Dưới nhà yên lặng. Cô Thompson ngồi một mình trong căn phòng nhỏ. Bỗng có tiếng máy hát. Cô vặn lên để khiêu khích mà cũng để có vẻ bớt cô liêu, nhưng chẳng có ai ở đó để ca, thành thử nghe nó buồn như một tiếng kêu gọi chới với. Davidson không để ý tới. Thản nhiên, ông tiếp tục câu chuyện dài ông đương kể. Máy hát vẫn chạy. Cô Thompson thay đĩa hoài. Hình như cảnh tịch mịch ban đêm làm cho cô ta chịu không nổi.
Không khí oi bức và nặng nề. Ông bà Macphail chợp mắt không được. Nằm cạnh nhau, mắt mở thao láo, họ nghe tiếng muỗi vo ve đến bực mình ở ngoài mùng.
Bà Macphail thì thầm:
- Cái gì vậy?
Bên kia bức vách, có tiếng ai đều đều, hăng hái, khẩn khoản. Tiếng ông Davidson. Ông ta lớn tiếng cầu nguyện cho linh hồn cô Thompson.
Hai ba ngày trôi qua. Bây giờ gặp nhau ngoài đường, cô Thompson không chào hoặc mỉm cười với họ một cách thân mật, mỉa mai nữa, mà làm bộ như không thấy, mũi hếch lên trời, môi bĩu, mặt nhăn nhó, bự phấn.
Chủ nhà cho ông Macphail hay rằng cô ta rán kiếm chỗ khác để ở mà không ra. Đêm đến, cô lại quay cho hết loạt đĩa của mình, nhưng rõ ràng rằng là cái vui đó giả tạo. Điệu giật giật thê thảm vang lên như một hành khúc tuyệt vọng vậy.
Đêm chủ nhật, khi ả bắt đầu cho máy chạy thì ông Davidson nhắn chủ nhà bảo ả ngưng lại tức thì vì hôm đó là ngày của Chúa. Người ta gỡ dĩa ra. Căn nhà lại tịch mịch trở lại, chỉ còn nghe tiếng mưa lộp độp đều đều trên mái tôn.
Hôm sau chủ nhà kể lại với ông Macphail:
- Tôi ngờ rằng cô ta hoang mang. Cô ta không rõ thâm ý của ông Davidson ra sao và đâm hoảng.
Cũng buổi sáng hôm đó, Macphail đã gặp cô Thompson, ngạc nhiên vì vẻ mặt cô ả trước kia vênh váo bây giờ đã thay đổi hẳn. Y như một con vật bị tróc nã. Horn liếc mắt nhìn bác sĩ:
- Chắc ông cũng không ngờ rằng ông Davidson đương nghĩ một mưu sâu nào chứ?
- Không. Tôi không biết chút gì hết.
Câu hỏi đó làm cho Macphail ngạc nhiên. Chính ông ta cũng có cảm tưởng rằng Davidson hoạt động gì đó bí mật, như dệt một cái lưới chung quanh cô ả, kiên nhẫn, tỉ m?