← Quay lại trang sách

Chương 3

Đối với tôi chẳng lạ chút nào khi gặp người đàn ông có hai tên và tôi có thể nhớ lại một cảm giác nổi bật là hắn ta còn có thể nói được, bởi vì đó là điều quan trọng để khám phá bất kỳ một người con cháu nào của hắn ta. Các quận miền quê của Queensland đầy dẫy những người đàn ông như Stevie. Tôi đã quen rất nhiều thuỷ thủ rời bỏ thuyền mình và đến làm việc nhiều năm cho các trại chăn nuôi súc vật dưới những tên khác. Trong đó có một hai người chồng bỏ trốn khỏi những cuộc hôn nhân không thể chịu đựng nổi từ một đô thị nào đó. Công an cũng biết những người đàn ông này cùng những tình huống của họ nhưng đã làm ngơ, vì lao động da trắng trong các trại chăn nuôi càng ngày càng hiếm. Cũng như ông Liên Chi với rau cải và hoa anh túc, họ chẳng có gì phải truy tố một người lao động giỏi như thế, trừ phi có gì bắt buộc họ phải thi hành mà thôi.

Tôi buộc miệng hỏi:

- Anh David Aderson, anh có gia đình chưa?

Rồi ạ!

Ông ta thì thào Mấy con?

Hai.

Trong cơn sốt và mệt mỏi, tôi bỗng cảm thấy thư thái lạ vì đã có thời gian đặt thẳng vấn đề Khi anh vào Bệnh viện, tôi sẽ viết thư cho vợ anh, và tin cho chị ấy biết tin tức về anh. Vậy chị ấy ở đâu?

Letchworth.

Ở đâu vậy?

Ngoại ô Canberra.

Tên nhà và tên đường?

Three Ways ở đường Yarrow.

Cơn sốt bệnh hành hạ tôi nên chẳng có gì là phi lý cả Tôi sẽ viết thư cho chị ấy ngay khi chở anh đến bệnh viện.

Này người Úc gốc Anh ơi!

Ông ta nói lí nhí, có lẽ muốn nói là mục sư người Anh ơi. Sau đấy, ông ta nói tiếp

- Cô ấy cũng đến từ nước Anh Thế cô ta là người Anh rồi! người miền nào?

Oxford

Ông ta trả lời

- Cha mẹ cô ấy ở Oxford, thuộc miền Boars Hill. Nhưng chúng tôi lại ở Buck House Ngay cả khi tôi mệt mỏi, tôi cũng hiểu rằng chuyện ấy là vô nghĩa. Chẳng có gì quan trọng trong việc ông già kể cho tôi nghe. Ông ta cũng chẳng lập gia đình, kể cả người vợ Anh ở Oxford, và ông ta cũng không có nhà ở Canberra. Đấy chỉ là những ảo giác, được thêu dệt từ thế giới mộng mơ mà ông ta đã chìm đắm vào do thuốc mạnh hay rượu làm lung lạc. Ngán ngẩm vì đã khám phá ra việc này, tôi tự bắt buộc phải tập trung vào vấn đề và cố gắng giải quyết. Tôi bảo với ông ta:

- Hãy cố gắng nói sự thật đi!

Ông ta không trả lời, nhưng bàn tay của ông ta ngọ nguậy trong tay tôi và lúc sau ông mới hỏi:

- Con đang ở đâu đây Cha?

Anh đang ở nhà của ông Liên Chi ở Dorset Downs

Tôi trả lời:

- Chúng tôi phải giữ anh ở đây, nhưng sẽ đưa anh đến Bệnh viện vào sáng mai. Trên đường còn ngập nhiều nước quá nên không thể đi đêm nay.

Có khi ông thều thào chẳng đâu vào đâu:

- Hồn bướm bay ra khỏi ta, lang thang khắp nẻo trong lúc ta đang ngủ. Ông Liên Chi bảo với tôi như thế. Điều đó thật là huyền hoặc.

Có lẽ vì hút hay vì bệnh mà ông ta đi quá đà, điều đó cũng không mấy hay. Giờ đây mắt tôi đã quen với ánh sáng mờ nên tôi thấy được Xơ Finlay đang làm gì. Xơ đang ngồi cạnh bàn, một cánh tay đang đặt trên ấy và đầu Xơ đang tựa trên cánh tay, hình như Xơ đang ngủ say. Tôi cũng thấy vui trong lòng vì Xơ đã trải qua một ngày nhọc mệt và giờ đây không lí do gì cả hai chúng tôi lại thức cùng một lúc. Cứ để cho Xơ nghỉ ngơi và lấy lại sức khi cần Tôi cũng không thấy ông Liên Chi đâu cả, có lẽ ở phòng bên. Mùi nhang cháy nhàn nhạt đang lan toa? quanh tôi trong lúc tôi ngồi trong bóng tối và tôi nghĩ có lẽ ông ta đang thắp mấy cây nhang mới trước tượng Phật. Mưa vẫn còn rây trên mái tôn nhưng mây không còn dày đặc như trước, và với đôi mắt đã quen với bóng đêm của tôi, tôi có thể thấy được con đường nhỏ dẫn tới bãi đất trống cạnh rừng, từ chỗ tôi ngồi xuyên qua cửa lớn. Các bầy thú vẫn còn ở đấy, chúng đứng sát vào nhau, con ngồi con đứng, ở khoảng cách còn thấy rõ. Có lẽ trong đêm tối chúng đã tiến gần hơn để được nhìn rõ căn nhà mặc dầu đèn đóm đã tắt hết cả.

Stevie đang ngồi ở giường, thình lình nói:

- Nơi này là vùng đất Dorset Downs?

Đúng vậy!:

Tôi trả lời:

- Từ nhà đến con sông Dorset chỉ cách mười lăm dặm thôi, đấy là nơi anh đang ở với ông Liên Chi Ông ta lại thì thầm, chẳng ăn nhập vào đâu Tôi sinh ra ở đây. Cha tôi là một người lái trâu.

Kể cũng kỳ thật, bao nhiêu sự kiện và ảo giác lẫn lộn trong đầu ông ta. Có thể tin được chăng khi cha ông ta là một nhân viên phụ trách ở trại chăn nuôi hay có thể là một người lái trâu bò trong khi chính ông ta lại kết hôn với một cô gái ở Oxford? Tôi cũng đã nhớ lại cái địa chỉ ở Canberra mà ông ấy đã nói cho tôi biết, nhưng chẳng giống gì với người vợ và gia đình đã sống ở đấy. Thật ra sau đấy tôi nghĩ chẳng có gì quan trọng. Tôi có thể đến bưu điện là tìm ra tông tích của ông ta ngay, vì hằng tháng ông vẫn lãnh lương hưu ở đấy. Một vài bưu điện nhà nước cũng lưu trữ những chi tiết về đời sống của ông ta. Thật ra, Trung sỹ Donovan có lẽ cũng biết được khá nhiều về ông ta. Tôi chỉ việc hỏi Trung sỹ ấy.

Tôi bệnh, phải không?:

Ông ta hỏi:

- Ở Dorset Downs, phía trên của Gulf Country?

Đúng vậy?:

Tôi trả lời:

- Chúng tôi sẽ đưa anh đến bệnh viện vào ngày mai.

Nhờ Cha giúp cho một việc:

Ông ta nói thều thào. Tôi phải cúi xuống thật sát mới nghe rõ:

- Nhờ Cha đánh điện cho Rosemary ở Letchworth. Tư lệnh phó không quân Watkins. Được không, Cha? Tư lệnh phó không quân Watkins. Nhớ nói là gặp cho được tư lệnh phó không quân Watkins không lực Hoàng gia Uùc. Nhớ đưa Nữ hoàng về Invergarry bằng máy bay không lực hay bằng trực thăng cũng được.

Dĩ nhiên đây chỉ là những ảo giác, một mớ hỗn độn của kí ức chiến tranh. Invergarry là một địa điểm thật sự. Đấy là sân bay của oanh tạc cơ đậu trong thế chiến thứ hai, từ đấy những pháo đài bay Liberafors cất cánh thả bom quân Nhật ở Timor và Tân Guinea. Tôi biết hai sân bay này vì có hai phi đạo rất lớn rải hắc ín dấu trong rừng, sân bay mãi mãi vẫn còn tốt. Từ năm 1946, máy bay không đáp xuống đây nữa, trừ máy bay cấp cứu đến để chở những người bị thương trong trại chăn nuôi đi. Ơû đấy chẳng có nhà, chẳng có cơ sở, chẳng có người, chẳng có gì ngoài heo rừng và chuột túi.

Sáng mai Cha sẽ lo liệu

Tôi nói:

Bây giờ cố mà ngủ đi!

Hình như tôi thấy ông ta trăn trở luôn luôn trong đêm tối.

Con phải liên lạc cho được với Rosemary:

Ông ta thì thầm, đôi khi có tiếng nức nở:

- Phải gặp cho được nàng. Chuyện vô lí. Nàng phải đem tôi ra khỏi đây.

Tôi chẳng làm gì được cho ông ta. Tôi cầm tay của ông ta và lắng nghe tiếng nức nở trong đêm trường. Cái chết đôi khi có thể đến trong trạng thái buồn khổ nhất. Sau một lúc tôi hỏi ông ta:

- Nếu anh không ngủ được, để tôi nhờ bác Liên Chi tiêm cho anh vài điếu?

Tôi biết Xơ Finlay sẽ cho phép nếu thuốc phiện giúp ông ta ngủ yên Tôi đâu cần hút:

Ông ta nói nho nhỏ:

- Đừng làm thế. Tôi cần gặp Rosemary.

Ông ta lăn lộn trên giường trong cơn mê sảng, còn hơn cả người bị chứng bại liệt. Tôi thì cơn khát đang hành hạ, nửa tỉnh, nửa mê tôi đứng dậy đi đến bên bàn, uống một hơi dài nước lụt. Khi tôi di chuyển qua căn phòng, tôi cảm thấy như lướt đi trên không, tôi chẳng còn cảm giác đôi chân chạm đất và nghe tiếng bước chân. Khi cầm cái ly lên, tôi không biết nó nằm trong tay mình. Cơn sốt đã hành hạ tôi và cơ thể tôi mồ hôi đổ ra như tắm. Aùo quần tôi ướt sũng và dính lại mỗi lần tôi di chuyển. Tôi chẳng nghĩ ra được điều gì cả. Sau khi uống nước xong, tôi lang thang trong phòng tìm cho ra cây đèn bấm vì tôi muốn bật lên để nhìn ông Stevie trên giường. Nhưng tôi vẫn không tìm thấy cây đèn bấm đâu và rồi hình như chẳng có gì quan trọng nữa, tôi đi trở về ngồi xuống ghế và tiếp tục nắm lấy bàn tay lạnh giá của ông ta.

Ông ta vẫn trăn trở, thì thào những điều khó hiểu. Dầu tôi cúi sát, để lỗ tai vào miệng ông ta, nhưng vẫn không thểå hiểu được gì, trừ cái tên Rosemary được lập lại nhiều lần. Tôi ngồi thẳng lên, băn khoăn buồn bã, không biết xử trí như thế nào. Sự khẳng định của ông ta về cái tên làm tôi cảm thấy âu lo. Rất có thể một phần trong những chuyện viễn vông kia là đúng sự thật và thật sự Ông ta đã có vợ tên Rosemary đã sinh trưởng tại nước Anh. Dầu đã uống nhiều nước, nhưng môi tôi vẫn thấy khô, khô đến nỗi không mở miệng ra được.

Làm cách nào anh gặp được cô ấy?

Tiếng mưa rơi đều trên mái tôn làm át tiếng nói của ông ta nên tôi không nghe rõ. Một lúc sau, có tiếng của ông ta trả lời:

- Sau chiến tranh tôi được thuyên chuyển về Boscombe Down và sau đấy lại được đổi về White Waltham. Tôi gặp nàng ở Hoàng cung.

Trong cơn mê sảng tôi hỏi ông ta:

- Cung nào?

Hoàng cung Buckingham. Nữ hoàng ở đấy, thưa Cha.

Dĩ nhiên theo sự hiểu biết của tôi, chuyện ấy chẳng nghĩa lý gì cả. Ông ta mê sảng thì tôi cũng chẳng hơn gì! Tôi nghĩ rằng tất cả đều là nhảm nhí nhưng tôi quá mê sảng và hoang mang nên không thể suy nghĩ chính xác tại sao như thế. Tôi ngồi đấy, cầm bàn tay của ông ta và suy nghĩ rằng, giá như giờ này Xơ Finlay còn thức, nghe được những gì ông ta nói, ắt hẳn Xơ đã hành động một phần nào làm cho tôi đỡ khó khăn hơn. Trong lúc này, tôi có thể mê đi vì cơn sốt, nên giữa hai chúng tôi chỉ là nói chuyện vẩn vơ, chứ không phải là một cuộc đối thoại, như thế dễ hơn.

Tôi hỏi:

- Boscombe Down ở đâu?

Ơû Anh, tây Luân Đôn:

Ông ta trả lời, đấy là nơi thử nghiệm máy bay của không lực Hoàng gia. Tuy ở trạng thái mê sảng, tôi đã cố nhớ ra ông ta đã từng là phi công tham chiến ở Pháp hồi đệ nhất thế chiến, nên cũng có thể ông ta đã đến nơi ấy. Ông ta nói đấy là một nơi rất lớn ở một phi trường, bộ chỉ huy gồm nhiều kỹ sư và các nhà khoa học, thử nghiệm những loại máy bay này. Phi công là một tập thể gồm nhiều quốc tịch trong Liên hiệp Anh vì mỗi quốc gia chọn một số phi công xuất sắc nhất để gởi đến Boscombe Down, nên có rất nhiều phi công Anh, Canada, Uùc, Aán độ, Rhodesie và nhiều quốc tịch khác nữa, cùng làm việc, cùng bay thử nghiệm những máy bay này và cùng sống chung trong cư xá sĩ quan.

Tôi ngồi đấy, đầu váng vất và hỗn độn, lắng nghe những ý nghĩ kì quặc của ông ta, trong lúc mưa vẫn rơi đều trên mái làm át các âm thanh khác. Ông ta nói rằng đã từng có mặt ở đấy trong sáu tuần để bay thử nghiệm hằng ngày và lần đầu tiên đã gặp được không đoàn trưởng Cox. Trước đó từ sáng sớm, ông ta bay thử nghiệm lên đến độ cao tám mươi ngàn bộ trong chiếc máy bay chiến đấu và phóng xuống ở độ cao thấp hơn, nhưng hệ thống lạnh không được hoàn hảo nên ông ta đã đổi hướng bay và giảm vận tốc còn lại bốn mươi ngàn bộ vì nhiệt độ Ở trong buồng lái không thể chịu nổi. Ông ta bay lên và thử lại lần nữa và cố giữ đường phóng xuống cho tới độ cao ba mươi hai ngàn bộ. Ông ta hạ cánh sau một giờ mười phút bay và cảm thấy rất mệt mỏi. Những dòng chữ tường trình ấy, giờ đây những chi tiết còn rõ nét trong trí nhớ của ông, sau đấy ông đã trở về cư xá sĩ quan tắm rửa và thay áo quần. Và rồi ông đến phòng ăn tập thể để ăn trưa.

Cùng bay với ông lúc ấy có hai phi công khác:

Một từ Hải quân và một từ không lực Hoàng gia như ông. Từ phòng ngoài đã thấy hai người bạn đứng với vị sĩ quan chỉ huy và một vị không đoàn trưởng mà ông chưa biết tên. Vị sĩ quan gọi ông lại và giới thiệu ông với ông Cox Đây là phi đội trưởng Anderson.

Không đoàn trưởng thật sự là người Anh, một sĩ quan thuộc loại già dặn, hơi gầy nhưng chắc chắn và đẹp trai với cung cách lịch thiệp. Ông ta nói:

- Chào anh, tôi có tên trong điện thoại niên giám. Anh uống gì nào?

Stevie trả lời:

- Nước cà chua, thưa Đại tá.

Có bay chiều nay chăng?

Stevie lắc đầu:

- Tôi đáp để chếch lại hệ thống lạnh. Phải đưa máy bay vào xưởng gấp, chắc không kịp bay ngày mai.

Uống thêm nước sêri nhé!

Dạ, xin cảm ơn, tôi không quen.

Ông ta nhận ra rằng không đoàn trưởng đặc biệt chú ý công tác vừa rồi ông đã thực hiện trên chiếc đấu cơ và muốn biết rõ hơn nữa về sự việc đã xảy ra. Mở đầu câu chuyện, David Anderson luôn luôn cảnh giác tránh né một câu hỏi trực tiếp bằng cách pha trò rất khôn khéo khiến chỉ huy trưởng và không đoàn trưởng đều cười. Chỉ huy trưởng nói:

- Thôi, được rồi Anderson. Anh có thể nói chuyện với Đại tá Nói hết ư, chỉ huy trưởng?

Ưø, thì nói hết. Chúng ta sợ gì mà không nói hết!

Họ cùng ăn cơm trong phòng ăn sĩ quan. Qua câu chuyện, David càng thấy rõ, sự lưu tâm chính của không đoàn trưởng là đặt vào những chuyến bay thí nghiệm của chiếc máy bay mới chế tạo Havilland 316, sau này còn được gọi là De Havilland Ceres. Đây cũng là sự lưu tâm của nước Uùc nữa. Trước khi rời khỏi Laverton để đến nước Anh để theo học khoá này, David đã được phỏng vấn ở Canberra do bộ trưởng hàng không Uùc. Vị bộ trưởng này đã nói cho David biết về loại máy bay chở thư tín này và sau đó bắt đầu những cuộc bay thử nghiệm ở Anh, và chính vị bộ trưởng đã tin cho ông biết hãng hàng không Uùc, Quatas, đã đặt mua sáu chiếc máy bay mới ra lò để bắt đầu cho dịch vụ chuyển thư tín bằng máy bay từ nước Anh. Cũng vì đơn đặt hàng ấy và cũng vì loại máy bay này hấp dẫn đối với không lực hoàng gia Uùc cho mục đích khác nữa, ông bộ trưởng đã viết thư cho Bộ hàng không ở Luân Đôn và yêu cầu cho phi đội trưởng Anderson được tham gia càng nhiều càng tốt trong các cuộc bay thử nghiệm ở Boscombe Down. Cho đến nay, David không làm một việc gì ngoài việc bay thử nghiệm Tuy nhiên, chiều hôm ấy, ông ta đã cùng không đoàn trưởng Cox và phi công thử nghiệm trong cơ xưởng, giám sát chiếc máy bay mới trong nhà chứa máy bay. Chiếc máy bay đưa thư được thiết kế để bay từ Anh đến Uùc, chỉ dừng lại một lần ở Colombo, nửa đường từ Luân Đôn đến Canberra. Vận tốc máy bay vào khoản năm trăm gút ở độ cao năm mươi ngàn bộ, nên chuyến bay từ Anh đến Uùc được thực hiện độ hai mươi giờ, chở theo ba tấn thư từ. Nhà chế tạo đã để mắt vào các thị trường khác nhờ loại máy bay đường dài và nhanh này, nên đã thiết kế một thân máy bay lớn đủ để chở hai mươi hành khách, thay vì chở hàng, cho nên loại máy bay 316 là loại máy bay có khả năng đa dụng.

Mãi cho tới chiều hôm ấy David Anderson mới khám phá ra lí lịch của vị sĩ quan mà ông ta đã cùng sinh hoạt chiều hôm ấy. Trong phòng ăn sĩ quan, ông đã hỏi chỉ huy trưởng buổi hẹn với không đoàn trưởng có mục đích gì và ông cũng còn lo ngại vì sự thiều dè dặt khi nói chuyện với đại tá không đoàn trưởng một cách tự do.

Vị chỉ huy trưởng nói:

- Ông ta là tư lệnh của phi đoàn Nữ hoàng, anh không biết sao?

David lắc đầu. Ông ta hiểu lờ mờ rằng, vị trí hiện tại và công tác thực hiện các chuyến bay cho Hoàng gia, nhưng về mặt tổ chức thì ông chưa rõ lắm.

Phi đoàn ấy là gì, thưa đại tá? Họ có phi cơ riêng không?

Vị chỉ huy trưởng lắc đầu, ông ấy nói:

- Giờ thì chưa có. Ngày trước họ cũng thường đi như thế. Ngày nay họ thuê bao từ các hãng hàng không hay mượn máy bay của không lực Hoàng gia. Trên danh nghĩa, có một tổ chức độc lập trả tiền cho chi phí này ngoài ngân quỹ dành riêng do chính phủ cấp cho nhà vua chi tiêu, nhưng ngày nay tổ chức ấy chẳng còn gì ngoài một cô thư kí đánh máy kết toán chi phí ấy vào ngân sách Hoàng gia. Họ có một nhà chứa máy bay ở phi trường White Waltham và một ít thiết bị mặt đất. Hoàng tử xứ Gales cũng có một máy bay hiệu Auster nhưng nay đã bán rồi.

David không có ở nước Anh lâu, nên không biết hết các phi trường và cũng chưa bao giờ đến White Waltham. Ông ta hỏi:

- Đó là phi trường dân sự phải không?

Vị sĩ quan gật đầu:

- Gần Maidenhead. Ơû đấy yên tĩnh và gần kề với Windsor.

Nửa tháng sau David gặp lại đại tá Cox nhiều lần. Ngày tiếp theo, David được phân phối bay thử nghiệm chiếc máy bay đưa thư và đại tá Cox ham thích chiếc máy bay ấy lắm. Khi David bắt đầu bay thử như là phi công phụ, ông ta nhận ra rằng đại tá Cox thường xuyên làm hành khách trong thân máy bay trống sau lưng ông ta với những nhà quan sát thử nghiệm khoa học có các thiết bị đầy đủ. Nhiều lần khi công tác thử nghiệm đã xong và trươcù khi đáp, nhờ sự thúc đẩy của phi công chính, David nhường chỗ cho đại tá Cox vào lái chiếc 316 một lúc. Ông ta vẫn còn là một phi công vững vàng, dù tóc đã hoa râm và đã ngoại ngũ tuần.

Khi công tác này tiến hành được một tháng, David ngạc nhiên nhận được giấy mời dùng bữa tối tại nhà đại tá không đoàn trưởng. Ông ta sống trong căn nhà nhỏ xây theo kiểu hậu bán thế kỷ 18 trong vùng Windsor, ở giữa một sào đất tiếp giáp với đại công viên Windsor, cho nên căn nhà nhìn ra một bãi đất trống rộng lớn và bầy nai thường ăn cỏ đến tận bờ rào. Đó là một căn nhà nhỏ nhưng rất bề thế, trang trí mỹ thuật và dễ thu hút, đó là căn nhà sỡ hữu của Hoàng gia. Ông Frank Cox sống với vợ và ba con nhỏ ở đây, trong cách sống nhân hậu và trang nhã mà trước đây David chưa từng thấy.

Bữa tiệc tối có hơi trịnh trọng nhưng cung cách như thế thì chẳng trịnh trọng chút nào đối với người Uùc. Những thực khách khác là ông bà thiếu tá Macmahon và một người em gái của bà đại tá Cox. Macmahon là một người đàn ông trạc bốn lăm, năm mươi tuổi, cùng khuôn đúc với đại tá không đoàn trưởng, vui tính, dễ dãi, nhưng trong công việc thì rất lão luyện vì đã đi nhiều. Rõ ràng là ông ta cũng đã đến Uùc và trong câu chuyện ông đã có nhưng nhận xét về nội tình nước Uùc. David cũng không biết rõ ông ta là ai và đang làm gì nhưng cũng có phần nào thắc mắc về ông ta.

Cũng giống như các phi công thử nghiệm, David cũng là một người lái thuyền buồm sành sỏi. Hầu như phải ở lại nước Anh trong một năm, nên ông ta dự định mua một chiếc thuyền buồm năm tấn để chạy trên sông Hambble, và ông sắp sửa thoa? thuận giá cả. Ông ta cũng nhận ra cả hai ông Macmahon và đại tá Cox cũng là những tay chơi thuyền buồm, điều này cũng làm cho họ ràng buộc với nhau và cho phép ông ta vẫn tiếp tục câu chuyện về đề tài ấy. Họ cũng thảo luận nhiều về chuyện bay bổng và cuộc chiến mới đây khi ông ta làm quyền tư lệnh không đoàn, trách nhiệm về phi đội oanh tạc đảo Lữ Tống. Đối với David Anderson, buổi tối qua thật nhanh và vui vẻ, điều ngạc nhiên đối với ông ta là hút xong điều xìgà, thì đã mười một giờ đêm, đã đến lúc ra về và lái chiếc xe thể thao nhỏ bé trở về Boscombe Down.

Một tuần hay mười ngày sau, ông ta nhận được thư từ phủ cao uỷ Uùc khuyên nên đến thăm vị cao uỷ tại toà đại sứ Uùc và hẹn gặp vào buổi sáng. Cũng có chút ít ngạc nhiên và thắc mắc chưa biết việc gì xảy đến, ông ta xin nghỉ một ngày và đi Luân Đôn và đến trình diện vị Cao uỷ, ông Harry Ferguson. Khi ông đến nước Anh, ông cũng đã gặp ông Ferguson trong vài phút, cho mãi đến nay mới gặp lại Ông Ferguson đứng dậy khỏi bàn viết để chào David. Vì là người Uùc nên ông ta tin vào việc dùng tên thánh Vào đi, David. Tôi đang mong gặp anh. Ông ta mời David ngồi vào một cái ghế thoải mái đặt cạnh bàn và tự mình ngồi xuống một ghế khác, đó là người đàn ông vui tính, có hơi nặng kí trong bộ comlê làm việc.

Sau khi mời thuốc David, ông ta nói:

- À, đối với công việc ở Boscombe Down anh có thích không?

Chàng phi công trả lời:

- Tôi chưa thấy công việc nào tốt hơn thế. Hiện tại tôi đang bay thử nghiệm 316 rất nhiều.

David cứ nghĩ là ông Ferguson muốn biết về đơn đặt hàng của hãng Qantas Tôi biết, loại máy bay này tốt, phải không?

David trả lời:

- Cũng được đấy, tuy cũng có nhiều khiếm khuyết cần tìm cho ra, nhưng cũng không quan trọng gì!

Tôi hiểu. Thế anh làm việc ở đấy có thích không?

Thích lắm chứ:

- David trả lời đầy vẻ tự tin.

Anh có muốn đổi đi nơi khác không?

Tôi không nghĩ là tôi thích thế!:

Viên phi công trả lời:

Chưa có công việc nào tốt hơn công việc tôi đang làm hiện tại. Thế công việc mới là công việc gì?

Anh đã chứng kiến vô số công việc của ông Frank Cox mới đây, phải không?

Đại tá không đoàn trưởng Cox? Ông ấy cũng đã có mặt ở đấy nhiều lần, cùng bay chiếc 316. Tôi cũng đã có đến dùng cơm tối tại nhà ông ấy một lần.

Tôi biết rồi!:

Ông ta suy nghĩ một chốc rồi nói:

- Thế anh có muốn gia nhập phi đội Nữ hoàng không?

David nhìn ông ta ngạc nhiên:

- Tôi à? Đội bay Nữ hoàng?

Ông Ferguson chậm rãi trả lời:

- Đấy chỉ là lời đề nghị thôi David ạ! Họ muốn nêu lên vấn đề của anh trước khi tham khảo ý kiến của tôi, trong trường hợp chính phủ Liên bang và không lực Hoàng gia Uùc phản đối, tôi sẽ liên lạc với Canberra về chuyện ấy, còn phía chúng tôi chẳng có gì phản đối cả, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào anh. Có nghĩa là anh phải bị gián đoạn công vụ, dĩ nhiên, nhưng anh đâu có bị cho thôi việc khỏi không lực. Nói cách khác là anh được thăng cấp ngay chỉ huy trưởng phi đội với lương và trợ cấp ở cấp bậc mới theo tiền tệ của Uùc. Nhưng anh được biệt phái cho công tác đặc biệt của phi đội Nữ hoàng.

David ngồi trầm ngâm một phút, suy nghĩ về điều kiện kì lạ này, không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vinh dự và một sự khen thưởng về khả năng làm việc của ông ta nhưng ông ta không niềm nở lắm. Cũng giống tất cả công dân Uùc, ông ta tôn kính Hoàng gia, nhưng trải qua sự nghiệp trong giới cung đình là một việc khác.

Ông ta tò mò hỏi:

- Tại sao họ lại chọn tôi? Có bao nhiêu phi công giỏi ở khắp nước Anh cơ mà. Những người này vì không có máy bay mà thôi!

Như thế đủ rồi, ông bạn ạ!:

Vị cao uỷ nói tiếp:

- Tôi không biết là anh hiểu đến mức nào những vụ việc đang xảy ra. Anh có biết Hạ viện đã quyết toán ngân sách đệ trình một máy bay De Havilland 316 dành riêng cho phi đội Nữ hoàng?

Một hồi ức không rõ ràng với bức ảnh chụp nhỏ nhắn trong tờ Máy bay đã làm động não chàng phi công Tôi nhớ là tôi đã đọc bài báo nói về chiếc máy bay ấy.

Ông Ferguson gật đầu:

- Nước Canada cũng đang làm một việc tương tự như thế.

Thật vậy sao?:

Viên phi công băn khoăn hỏi:

- Thế thì phi đội Nữ hoàng sẽ có hai chiếc 316?

Cũng có thể…

Ông Ferguson ngần ngại trả lời:

- Nếu anh muốn đảm trách công việc này, David, việc trước tiên anh phải học tập là luôn luôn đứng ngoài chính trị. Dĩ nhiên, cũng có vài việc anh cần phải biết, nhưng công việc của anh là càng suy nghĩ ít những công việc ấy càng tốt và chỉ mãi lo về chuyện bay thôi.

Viên phi công gật đầu:

- Tôi chẳng bao giờ để chính trị quấy rầy.

Thế là tốt:

Vị cao uỷ ngừng một lát, suy nghĩ rồi nói:

- Lúc mới bắt đầu phi đội của Hoàng đế được thành lập vào những năm ba mươi, máy bay còn nhỏ và không quá đắt tiền. Số tiền trợ cấp cho nhà vua và Hoàng gia được quốc hội biểu quyết theo quy định bằng tiền mặt lớn hơn bây giờ nhiều. Số máy bay ấy là tài sản của Hoàng cung và mặc nhiên Vua có quyền hạn phân phối, đi đâu khi Vua cần, vào bất cứ lúc nào, mà không cần tham khảo một ai:

Dừng một lát ông ta nói tiếp:

- Từ đấy máy bay càng phát triển và đắt giá khó mua nổi và bảo trì. Quỹ hỗ trợ Hoàng gia cũng bị giảm xuống đối với quyền mua sắm. Trong bao nhiêu năm, máy bay dùng trong các chuyến đi của Hoàng gia đã được quốc gia đài thọ. Ông ta liếc nhìn David:

- Anh có hiểu đấy là chuyện kín không, phi đội trưởng?

Thưa ngài, tôi biết.

Thế thì…như người ta đã đề nghị, đội bay Nữ hoàng được huỷ bỏ vì vấn đề kinh tế. Cho nên Hoàng gia phải thương lượng với bộ chỉ huy vận tải của không lực Anh quốc khi nào cần sử dụng hàng không. Lời đề nghị này là một bước phát triển khi chiếc 316 rất thuận tiện cho Hoàng gia khi muốn đi từ Hoàng cung đến cơ sở toa. lạc của Hoàng gia tại Canberra trong hai mươi giờ hay đến cơ sở toa. lạc của Hoàng gia ở Ottawa chưa đầy sáu giờ.

Ông ta dừng lại:

- Chính phủ Liên bang:

Tiếng nói của ông nhỏ đi:

Cũng như chính phủ Canada, chúng tôi nghĩ rằng thật là sai lầm khi tự do đi lại của vương triều trong liên hiệp Anh dầu sao cũng bị kiểm soát do chính phủ Anh thông qua không lực Anh, tuy nhiên nói chung sự kiểm soát này có lẽ sẽ được áp dụng. Để ngăn chặn tình trạng trên phát sinh trong chính phủ ta và rồi chính phủ Canada, mỗi nước tự nguyện đưa vào phi đội của Nữ hoàng một chiếc 316 và phải chịu tất cả phí tổn bảo trì và máy móc hiện hữu. Nữ hoàng chấp nhận sự tự nguyện dâng tặng này và Nữ hoàng còn yêu cầu tất cả nhân viên phi hành phải do người Canada hay người Uùc đảm trách. Cho nên công việc này mới được giao cho anh, David. Anh là sĩ quan đã được chọn lựa để làm cơ trưởng cho chiếc máy bay ấy, đại diện cho nước Uùc.

David ngồi thừ người ra một lúc suy nghĩ. Anh ta cũng chẳng nồng nhiệt cho lắm với công việc này. Điều ấy có nghĩa là, lìa bỏ công tác thử nghiệm đang hấp dẫn và đem lại kết quả tốt cho anh ta, để bước vào một thể chế vương triều chưa biết rõ. Cũng có nghĩa là anh ta sẽ gián đoạn sự nghiệp trong không lực Hoàng gia Anh quốc và rồi sẽ có nhiều thay đổi khác trong cuộc đời, trong đó, cái mà anh ta cảm thấy chẳng tốt đẹp gì hơn!

Cuối cùng anh ta hỏi:

- Ai đưa ra ý kiến này vậy?

Frank Cox đề nghị tên anh trước tiên:

Vị cao uỷ trả lời:

- Khi được đồng ý trên nguyên tắc, phi hành đoàn của chiếc máy bay này toàn là người Uùc. Ông Cox đưa tên anh lên đầu để giao trách nhiệm cho anh làm cơ trưởng.

Ông ta chẳng biết gì về tôi cả:

- David trả lời:

- Tôi không nghĩ là tôi thích hợp với công tác ấy.

Ông Ferguson mỉm cười:

- Dĩ nhiên là họ phải trải qua bao khó nhọc mới nắm được lí lịch của anh. Họ hỏi về hồ sơ quân bạ và chúng tôi đã cung cấp cho họ. Anh đã gặp phụ tá bí thư chưa nhỉ?

Bí thư nào?

Phụ tá bí thư cho Nữ hoàng. Thiếu tá Macmahon. Anh đã ăn tối với ông ta rồi, phải không?

Có một người đàn ông tên là Macmahon đã ở đấy khi tôi đến ăn tối với đại tá Cox. Có phải ông ta đấy chăng?:

- David hỏi Đúng rồi. Anh nhớ giỏi đấy!

Việc của ai người nấy biết. Đừng chen vào công việc của kẻ khác.

David ngồi yên lặng một chút rồi nói:

- Ông cho tôi một hai ngày để suy nghĩ được không?

Được chứ. Theo tôi, anh nên nói chuyện với đại tá Cox thì tốt hơn.

Người phi công trả lời:

- Tôi nghĩ chắc cũng nên thế. Có nhiều công tác mà ông ta cần biết trước khi tôi nhận nhiệm vụ này.

Ông Ferguson nhìn viên sĩ quan một lúc rồi nói:

- Tôi thấy anh không tha thiết với công việc này lắm. Có gì trở ngại chăng?

Người phi công nhún vai:

- Thật sự thì tôi cũng chẳng tha thiết thứ gì ở đất nước này. Tất cả những căn nhà và những cơ xưởng trống rỗng làm tôi thất vọng. Họ vẫn là những kỹ sư ưu tú của thế giới và họ chế ra những máy bay tốt nhất. Thế cái cũ để lại cho ai dùng. Tôi quá lo lắm không?

Thế anh ở lại đây được bao lâu?:

Tiếng vị cao uỷ hỏi:

- Hai tháng phải không?

Gần ba tháng:

Vị sĩ quan trả lời:

- Tôi chỉ được phép ở thêm chín tháng để làm việc ở đây trước khi trở về Uùc.

Trước đây anh chưa từng đến nước Anh chứ?

David lắc đầu.

Vị cao uỷ nói tiếp:

- Anh muốn nhìn xa để thấy mức sống thấp ở đây. Vẫn còn nhiều người lắm và họ cũng dạy chúng ta được vài điều. Nhưng dù sao anh cũng nên suy nghĩ kỹ trước khi nói chuyện với đại tá Cox. Nhớ điện thoại cho tôi vào thứ ba tới để cho tôi biết quyết định.

David Anderson chia tay và đến ăn trưa ở câu lạc bộ xe hơi hoàng gia ở Pall Mall. Cũng như nhiều sĩ quan Uùc đến công tác ông ta được tiếp đón niềm nở ở câu lạc bộ. Trong phòng ăn sĩ quan ông ta gặp một sĩ quan hải quân Uùc, một người gốc Queensland như ông ta mà ông ta biết rất rõ. Trung tá chỉ huy trưởng Fawcett nói:

- Chào anh Nigger. Mời anh uống nước Cho xin ly cà chua:

- David vừa nói vừa bước vào quầy rượu với Fawcett.

Anh xuống phố làm gì đấy?

Đi lang thang và ngắm cảnh:

- David trả lời.

Uống chút gin nhé!

Cảm ơn anh. Tôi không quen.

Hai người ăn trưa với nhau. Người bạn đang phục vụ tại bộ Hải quân nhưng David không nói cho biết mình đang ở trong phi đội Nữ hoàng. Hạm trưởng Fawcett vừa đi nghỉ phép trở về, trong lúc đi ông ta đã tự lái xe hơi lên Scotland, lên một đường và về một đường khác.

Không ở lại trong khách sạn đêm nào cả:

Ông ta nói.

Cắm trại?

Những căn nhà bỏ hoang:

Vị hạm trưởng trả lời:

- Đó là đích nhắm đến ở nơi miền quê này. Dĩ nhiên chúng tôi cũng có đồ dùng xách tay và giường xếp. Nhưng thế này tiện hơn là lúng túng vì cái lều. Có điều đặc biệt ở Scotland là người ta đã giở hết mái nhà.

David nói:

- Tôi có nghe chuyện đó. Như vậy để giữ giá trị cho những nhà khác phải không?

Phải. Tôi chẳng biết chuyện ấy thật sự là như thế nào nhưng muốn kiếm một căn nhà ở đây có mái cũng phải giá khác chưa kể cộng thêm năm Anh kim cho các thứ lặt vặt nữa. Đó là tư gia chứ chưa phải của nhà nước quản lí.

Ơû đây chỉ giá năm bảng Anh.

Đúng vậy.

Mình cũng không khó khăn lắm khi tìm được một căn nhà khi cần.

Không hẳn thế. Dĩ nhiên là nhà nào cũng thường cửa đóng then cài, nhưng thường muốn tìm được một căn nhà thường là nhờ cửa đã bị phá vỡ từ trước. Rất nhiều nhà như thế ở miền Bắc. Ơû ngoại ô cũng có nhiều nhà, nhưng hầu hết, đều ở cách xa trung tâm thành phố. Người dân dọn về ở miền trung tâm nên nhà bỏ trống, tuy tiền xe buýt rẻ hơn. Những vùng như Nottingham và Darlington nhà nào cũng bỏ trống vì ở vùng ngoại ô xa xôi. Kiếm một căn nhà để vào ngủ, chẳng khó khăn gì.

David nói:

- Tiếc là không thể chuyển những căn nhà ấy qua Uùc. Chúng ta sử dụng được hết tất.

Đúng như vậy. Đáng ra khi xây dựng những căn nhà này vào những năm năm mươi, họ nên xây theo kiểu tháo ráp được.

Như thế này thì lãng phí quá!

Bạn không thể đem mười hai mười ba triệu người ra khỏi nước Anh mà không tốn kém:

- Fawcett nói:

Khi những căn nhà này xây lên thì dân nơi này là năm mươi triệu. Mật độ như vậy là qúa cao. Nói hơi quá, sống chắc phải đụng vai nhau.

Uống xong cà phê David hỏi:

- Anh có thích đời sống ở đây chăng?

Xem ra cũng thích:

- Fawcett trả lời:

- Có những cái ở đây chúng ta không có được ở nhà.

Cái gì?

Vị sĩ quan hải quân cười:

- Cũng chưa biết mà có đấy!

Mười năm nữa dân số ở đây sẽ đông hơn.

Có lẽ. Anh không thích nước này đông dân ư?

Uùc đại lợi là đủ cho tôi rồi!:

- David nói:

Ở đây cũng hay và tôi thích đến đây, nhưng tôi chẳng quan tâm bao lâu nữa tôi sẽ trở về.

Sau khi ăn trưa, David điện thoại cho sư đoàn trưởng Cox và mới biết ông ta đã xuống phố và không xa chỗ làm việc của phi đội Nữ hoàng trong cung St.James là mấy. David quyết định tìm gặp ông ta. Tìm cho ra phi đội Nữ hoàng trong những toà cao ốc vô trật tự ấy cũng hơi khó, đó là một căn hộ có ba tầng nằm ở tầng trệt, nhìn ra biệt thự Engine Curt, đó là một căn hộ có phòng làm việc, phòng khách và một phòng ngủ dành riêng cho đại tá Cox khi ông ở lại thành phố. Một cô gái ngồi ở văn phòng, đánh máy và nghe điện thoại tiếp David và mời ông ta vào phòng khách Đại tá không đoàn trưởng đứng dậy tiếp ông ta:

- Chào anh David:

Ông vừa nói, vui vẻ chìa bao thuốc lá:

- Đã gặp cao uỷ rồi phải không?

Bạn bè đều gọi tôi là Nigger:

Vị sĩ quan Uùc nói nhanh. Ông Cox liếc nhìn ông ta:

- À, tại sao họ lại gọi như thế?

Vì tôi là người độc nhất da trắng lai da đen.

Chỉ huy trưởng phi đội Nữ hoàng cười:

- Anh có biết là tôi thật sự thắc mắc về điều ấy không? Thế anh thuộc màu da nào?

David trả lời:

- Màu da của mẹ tôi. Tôi là người Uùc thật sự, còn hơn thế nữa. Bà nội tôi là thổ dân châu Uùc chính thống. Phía trên bán đảo CapeYork. Tôi không biết ông nội của tôi là ai, nhưng ông ấy da trắng. Mẹ tôi là con lai ngoại hôn. Các cô chú của tôi ở rải rác vùng Gulf Country, có màu da cà phê. Cô Phoebe của tôi có những mười bốn người con. Cô ấy giúp việc cho một khách sạn ở Chillagoe.

Tôi hiểu. Thế cha mẹ của anh có cưới nhau không?

Viên phi công gật đầu:

- Tôi có giấy khai sinh. Cha tôi chết năm ngoái. Ông làm chủ cửa hàng ở một thị trấn nhỏ, đó là Forsayth. Mẹ tôi mất cách đây năm năm.

Không đoàn trưởng nói:

- Vậy thì anh nói với tôi tất cả những điều này để làm gì, David? Thôi hút một điếu đi!

Anderson lấy một điếu và đốt lên:

- Để giải thích cái tên Nigger đấy.

Thôi được, Nigger, nếu anh muốn:

Ông ta đốt xong điếu thuốc cho David rồi nói:

- Có nên gọi anh như thế chăng?

Người sĩ quan phi công thở một hơi khói dài rồi nói:

- Tôi đã được người ta gọi thế rồi từ khi gia nhập không quân hoàng gia Anh quốc. Cái tên Nigger Anderson đã quen thuộc với mọi người và rồi đây người ta cũng gọi tôi như thế ở Anh.

Frank Cox gật đầu:

- Tùy anh. Thế cao uỷ đã nói cho anh biết chúng tôi cần anh làm gì chưa?

Rồi ạ!

Thế anh nghĩ sao? Ngồi xuống đi!:

Ông ta ngồi xuống trên chiếc ghế bành thế kỷ thứ 17.

Viên phi công ngồi xuống cạnh bàn, tay tì lên bàn nhìn không đoàn trưởng, ông ta nói chậm rãi:

- Thật quá vinh dự cho tôi. Tôi thiết nghĩ tôi chưa phải là con người mà các ông kỳ vọng.

Tại sao không?

Thứ nhất là về da màu:

- David trả lời gọn lỏn:

- Tôi không phải da trắng. Đôi khi điều đó cũng làm phiền các người khác và ông cũng không muốn vậy.

Anh có nghĩ rằng điều đó thật sự xảy ra không?:

Vị không đoàn trưởng thích thú hỏi:

- Anh có thấy các chiêu đãi viên nam bị đối xử bất nhã trong cửa hàng ăn hay người ta từ chối ngồi vào bàn, hay bất cứ chuyện nào tương tự như thế?

David lưỡng lự trả lời:

- Chuyện cũng đã cũ rồi, đã xảy ra một lần ở Sydney.

Bao lâu rồi?

Cách đây cũng lâu lắm, lúc tôi còn mười tám tuổi. Nhưng cũng có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Đại tá Cox nói:

- Tôi còn nghi ngờ điều này. Trông anh không có vẻ gì da màu. Da anh hơi sậm. Thế thôi. Trong không lực anh chưa bao giờ bị rắc rối, phải không?

Chàng phi công lắc đầu:

- Người ta luôn gọi tên tôi là Nigger. Có lẽ cũng có ích vì điều đó chứng tỏ bạn không giả vờ dối trá.

Hai người ngồi trong yên lặng được một lúc, cuối cùng đại tá Cox nói:

- Tôi không nghĩ rằng điều đó gây trở ngại gì cho việc nhận công tác của bạn. Thật ra, chuyện ấy cũng đã xảy ra mấy ngày khi anh dùng bữa tối với chúg tôi. Ông Macmahon đã nói bạn là da màu nhưng tôi nói là không phải. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau và giả thử, cho là ông ấy đúng đi nữa, thì chúng tôi cũng chẳng coi quan trọng gì, cứ đinh ninh trong óc về những khả năng vượt trội của anh.

Tôi không phải hạng người có khả năng đó:

- David trả lời:

- Tôi chưa có đủ trình độ. Tôi không giống ông, cũng như ông Macmahon. Tôi không thể theo kịp một số người ông đang cần có ở vào vị trí này.

Ông ta nhìn quanh, những bức tường đóng panô và những cửa sổ đóng bản lề màu chì Tôi vào đời bằng nghề bán chạp phô ở Townsville:

Và cố gắng lắm ông ta mới nói tiếp:

Tôi muốn nói đây là việc giao tiếp cung đình nên phải nói thế nào với các công nương hay ngay cả với Nữ hoàng. Các ông cần một người nào đó biết các quy thức và không nói một điều gì nhầm lẫn khiến mọi người phải bị quê kệch.

Đại tá nói:

- Chúng tôi biết chúng tôi cần gì. Cứ mặc kệ chúng tôi. Điều quang trọng là chúng tôi cần một người Uùc thông thạo và tin cậy có thể bay với chiếc 316 tới Uùc an toàn hay một nơi nào trên thế giới cho dù trong giờ ngủ của anh ta. Chúng tôi cũng đặt mình trong công việc ấy và hết sức cẩn trọng khi đặt anh lên hàng đầu của sự lựa chọn.

Tôi thấy các ông quá đàng hoàng, bẩm sinh da trắng chăng?

Chúng tôi không đòi hỏi anh nhận ra chúng tôi cái gì khác cả:

Đại tá Cox nói tiếp:

- Chúng tôi chỉ yêu cầu anh nhận trách nhiệm về chiếc 316, huấn luyện nhân viên phi hành và bay nó khi cần. Còn màu da, xin anh gạt ra ngoài ý nghĩ. Chúng tôi không yêu cầu anh kết hôn với Hoàng gia.

David ngồi yên lặng, cuối cùng ông ta nói:

- Công tác này đòi hỏi bao lâu?

Vô thời hạn:

Ông Cox trả lời:

- Nếu anh nhận, tôi nghĩ là anh ở lại đây ba năm. Chúng ta phải làm việc liên tục nên mọi người phải coi nhau như một tập thể.

Phải chăng hậu cứ là đây, nước Anh phải không?

Đúng vậy:

Đại tá Cox trả lời:

Ở White Waltham. Chúng ta có nhà chứa máy bay ở Canberra, ở phi trường Fairbairn, như anh đã biết. Kế hoạch hiện nay là vương triều có ý định mỗi năm ở lại hai tháng ở Uùc và hai tháng ở Canada. Nhưng hậu cứ chính là ở White Waltham. Nếu anh có ý định lập gia đình, có lẽ cũng nên ở lại Anh thôi, gần White Waltham. Trong tương lai gần, anh có ý định lập gia đình không?

Viên phi công lắc đầu:

- Da màu cũng làm trở ngại.

Thôi được. Dầu sao, hậu cứ chính vẫn là đây.

David ngồi trầm ngâm. Anh ta suy nghĩ chẳng có lí do gì từ chối một công việc như thế, không thể nói gì hơn được để biện minh cho mình. Anh ta cũng hiểu rằng một số lớn các sĩ quan phục vụ trong không lực Hoàng gia Anh quốc muốn nhảy vào khi gặp cơ may ấy và anh ta cũng hiểu rằng anh ta được ca tụng hết lời khi là người đầu tiên được giao cho công tác ấy, ấy là một sự tưởng thưởng lớn lao hơn bất cứ một loại huy chương nào. Anh cũng biết rằng trên thực tế khó mà từ chối công tác như thế và ý nghĩ ấy làm anh khổ tâm, e ngại, không nói được.

Có trở ngại gì không?:

Cuối cùng không đoàn trưởng hỏi. Viên phi công ngẩng đầu lên nói:

- Tôi là dân Uùc, chẳng phải giòng họ quý tộc gì. Ơû xứ sở tôi, tôi chỉ là người dân bình thường. Họ rất hiểu loại người như tôi. Đặc biệt ở bang Queensland, tiểu bang của riêng tôi. Tôi rất hồ hởi có dịp may trở về quê nhà, nhưng tôi không muốn xây dựng cuộc đời ở đây. Đây chỉ là một chuyến đi xa. Tôi chẳng muốn ở lại và tạo dựng một cuộc đời ở Anh.

Ông Cox nói:

- Anh chẳng để tâm gì đến xứ sở này sao?

Có chứ. Tôi thích nơi nào mà mọi người có cơ may tạo nên cơ nghiệp và tiêu tiền như người ta sống ở nhà vậy. Tôi thích một miếng thịt bitết có hai trứng chiên.

Anh không thích chủ nghĩa xã hội của chúng tôi?

Tôi không biết nhiều về chủ nghĩa này:

- David nói:

- Chỉ có một điều nó thích hợp với tôi chính là công việc này. Ông Harry Ferguson đã nói, nếu tôi nhận công tác này, tôi không phải tham dự vào chính trị. Thật ra thì tôi cũng chẳng bao giờ nghĩ về chính trị nhiều. Điều độc nhất mà tôi biết hầu hết các chính phủ của chúng tôi thuộc đảng tự do ở Canberra đã được ba mươi năm nay và hầu hết các bạn theo đảng Lao động. Còn đảng Bảo thủ, theo tôi nhận xét còn đỏ hơn cả đảng Lao động:

Ông ta dừng lại:

- Tôi biết chính quyền Lao động làm vừa lòng dân Anh nhất. Đại đa số quần chúng đều ở nông thôn nên mọi người còn khó khăn lắm, tiếp tế thì thiếu hụt nên mọi người phải đồng tâm hiệp lực. Tôi biết ấy là nơi cho chủ nghĩa xã hội bắt nguồn. Ai cũng biết như thế. Nhưng tôi không bị bắt buộc yêu chủ nghĩa ấy.

Còn điều này nữa:

Đại tá Cox nói tiếp:

- Trong xứ sở anh có nhiều người theo đảng Bảo thủ như những người di cư chẳng hạn. Đó là nơi họ thích đến. Để cân bằng các anh theo phe hữu và chúng tôi theo phe tả.

Sĩ quan phi công mỉm cười và nói:

- Tôi biết, thế nhưng tôi vẫn không bị bó buộc thích phe nào.

Thế anh không thích Liên hiệp Anh sao?:

Đại tá Cox hỏi:

- Thế anh có muốn nước Uùc được độc lập không và liên minh với Hoa Kỳ?

David hơi chột dạ. Dầu anh ta không thích chính trị cho lắm, nhưng khi nghe điều dị thường này anh ta lại càng ghét chính trị hơn. David nói:

- Dĩ nhiên là tôi không thích. Chúng tôi là một phần của nước Anh xa xưa. Riêng tôi, tôi chỉ muốn nói là tôi thích sống ở Queensland hơn trên đất Anh.

Anh nghĩ rằng nước Anh còn làm một điều gì đó cho Uùc đại lợi?

Dĩ nhiên rồi!:

Viên phi công trả lời:

- Thì cứ nhìn vào chiếc 316 hay chiếc Rolls Royce. Chúng tôi không thể tiến bộ mà không có nước Anh.

Vị không đoàn trưởng gật đầu:

- Chúng tôi rất tiếc nếu không có anh gia nhập công việc này:

Ông ta nói tiếp:

- Có lẽ nước Anh không thể tiến bộ một cách dễ dàng nếu không có anh.

Không có tôi:

- David hỏi.

Anh và các người như anh:

Ông Cox trả lời:

- Anh nghĩ rằng chúng tôi cần một người trong phi đội Nữ hoàng biết cách xưng hô với một công nương. Chúng tôi chẳng cần như thế đâu. Uùc đang cống hiến máy bay này cho phi đội Nữ hoàng và Nữ hoàng yêu cầu cả phi đội phải là người Uùc. Nữ hoàng không điên đâu…Nigger. Khi Nữ hoàng nói Nữ hoàng cần người Uùc, có nghĩa là những người Uùc chính cống, chứ không phải những người Uùc được nuôi dưỡng và trưởng thành ở Luân Đôn. Nữ hoàng là vua của nước Uùc cũng là vua của nước Anh. Khi Nữ hoàng nói Nữ hoàng cần những người Uùc và Canada trong phi đội Nữ hoàng, cũng giống như người Anh vậy, Nữ hoàng có những lí do rất chính đáng. Tôi chỉ thừa hành những điều Nữ hoàng cần, với tất cả khả năng của tôi. Nếu anh từ chối công việc này, tôi sẽ kiếm một người khác giống anh, có gốc gác đạo đức như ở vùng Wagga:

- Wagga hay Kalgoorlie. Nhưng tôi còn hy vọng là anh không từ chối, vì tôi nghĩ rằng anh vẫn là típ người Nữ hoàng vẫn đinh ninh trong óc khi nói rằng Nữ hoàng cần người Uùc.

Viên phi công cười:

- Dầu sao, tôi cũng có giấy khai sinh mà! Có điều…. Tôi cần một hai giờ để suy nghĩ.

Dĩ nhiên.

David nhìn vào đồng hồ tay:

- Năm giờ tôi sẽ điên thoại cho ông.

Anh ta rời khỏi cung điện, đi dọc theo dãy phố Pall Mall, suy nghĩ miên man. Anh ta lờ mờ hiểu rằng mình đang trên đường trở về câu lạc bộ nhưng khi đến gần, anh thấy những giông người vào ra tấp nập nên bỏ ý định ấy và tiếp tục đi bộ từ từ xuống phố. Ơû phố yên tĩnh hơn và anh ta có thể suy nghĩ mà không sợ bị quấy rầy bất chợt của bạn bè hay mời uống nước. Anh cứ đi tiếp, thắc mắc tại sao ông Cox có dụng ý gì khi nói nước Anh sẽ không tiến bộ nếu không có những người như anh ta, Nữ hoàng có ý gì? Mà Nữ hoàng có ý gì hay không? Anh quốc có biết bao nhiêu phi công xuất sắc trong không lực hoàng gia.

Trời vào tháng năm nên buổi chiều hơi nóng. Anh ta đi đến phòng trưng bày mỹ thuật quốc gia về phía Bắc của quảng trường Trafalgar và băng qua đường, đến góc đường cạnh tòa đại sứ Canada, anh dừng lại một lúc nhìn ra quảng trường. Gần đấy có một trạm xe buýt, người dân Luân Đôn da trắng đang kiên nhẫn xếp hàng dài để về nhà. Anh ta liên tưởng đến vẻ đẹp cường tráng của người dân đứng xếp hàng đợi xe buýt ở Brisbane và Adelaide, so sánh nước da rám nắng với nước da tái xám, dáng đi thẳng đứng với dáng đi lừ lừ mệt mỏi. Không phải lỗi của họ khi con người trông có vẻ xanh xao, mỏi mệt mà sự vất vả đã làm cho họ thế, lại còn làm việc quá sức và những sai lầm của các chuyên gia dinh dưỡng đã tính toán trong việc giảm thiểu khẩu phần vào những năm bốn mươi và năm mươi, khi những người này còn là lớp trẻ. May thay những người bị đối xử tệ hại như thế, tuy vẫn còn tính chất mã thượng trong họ, đã bất chấp mọi trở lực. Tuy nhiên, nhìn chung, chẳng có lí do nào khiến anh ta phải cần chung sống với họ.

Anh ta đã quay mặt đi chỗ khác, nhìn ra quảng trường và mải mê ngắm nhìn sự tráng lệ của những cao ốc mới bên kia đường. Bộ nội vụ mới ở giữa con đường bờ sông và đại lộ Northumberland, sự duyên dáng của hàng cột trắng xoá của bộ Hưu liễm ở đầu đường Whitehall và đại lộ Northumberland, những đường nét thẳng đứng của bộ Năng lượng ở cuối đường Cockspur, tuy đang xây dựng nhưng vẫn thấy rõ qua dàn giáo bằng thép. Những người này là những kỹ sư, những kiến trúc sư vĩ đại nhất thế giới, ông ta nghĩ thế, và hiện tại việc xây dựng nhà cửa đang bị bế tắc, tất cả năng lực, tài lực của nền công nghiệp xây dựng đang tập trung vào những cao ốc công cộng đầy kì diệu đang mọc lên khắp nước Anh. Đô thị Luân Đôn mới với những con phố hẹp và những lâu đài trắng đang mọc lên cho đến các nhà công chức đã nhanh chóng trở thành một đô thị đáng yêu nhất thế giới với Liverpool và Manchester cách đấy cũng không xa. Nếu so sánh, Sydney và Melbourne còn nghèo nàn và lạc hậu, còn Brisbane thì thưa thớt, ở đấy việc kiến trúc còn tụt hậu vì là dân di tản.

Ông ta quay nhìn dòng người xếp hàng đợi xe buýt một lần nữa. Báo chí thường nói nước Anh có nhiều thứ đang leo thang sau bao nhiêu năm, giờ đây dân số lại giảm đi hai mươi lăm phần trăm. Có đề nghị năm tới, mỗi người dân được phép mua xe hơi và xăng để sử dụng riêng. Cũng có lẽ đúng, nhưng nhìn vào cảnh xếp hàng xe buýt, David cảm thấy không thể tưởng tượng nổi nếu những người mệt mỏi này có thể chấp nhận sự sung sướng mặc nhiên có của những người Uùc trong đời sống riêng tư của họ. Và tuy thế, từ sự đói nghèo và khó khăn đã nãy sinh ra những điều kì lạ tuyệt vời. Nhưng đền đài cung điện rực rỡ ở Luân Đôn, những máy bay và máy móc hàng không tuyệt hảo. Đài truyền thanh và truyền hình đã được cả thế giới tán thưởng. Giờ đây Uùc mới có đủ người như các dân tộc khác và Uùc là một nước sung sướng và thịnh vượng, tuy nhiên Uùc chưa sản xuất được một phần mười những sáng kiến của nước Anh. Có lẽ, chính sự thịnh vượng đã trở thành một trở lực đối với thiên tài sáng tạo vĩ đại. Trong việc chăn nuôi súc vật David cũng hiểu rằng, nếu bò cái quá mập, khó đến với bò con.

Anh ta vẫn chưa quyết định. Anh ta không thích những người này vì họ thiếu tinh thần, vì tính nô dịch của công chức, vì hệ thống chính trị đã lỗi thời về một người một phiếu bầu cầm giữ họ trong những xiềng xích mị dân. Anh ta chỉ kính phục họ về những thành quả kỹ thuật. Ơû lại ba năm hay hơn nữa ở nước Anh sẽ giống như sống trong một gia đình không chữa trị nổi, nhưng không làm thế sẽ đánh mất cơ hội sau này sẽ ân hận cả một đời. Khó thật!

Anh ta thọc tay vào túi quần và miệng nở nụ cười, có ba đồng tiền trong túi, hai đồng xu và một đồng hào. Tự nhiên anh ta lấy cả ba đồng tiền ra và ném phịch xuống trên lề đường đá vôi bên cạnh, định bỏ đi.

Ba cái đầu Nữ hoàng trên mặt ba đồng tiền nhấp nhánh chiếu sáng. Đồng hào đã cũ, sản xuất năm 1963 nên nét mặt người đàn bà còn trẻ. Hai đồng xu, một đồng sản xuất vào 1976 và một đồng mới sản xuất vào 1982, chứng tỏ ngnười đàn bà trung niên và trưởng thành. Anh ta nhìn ba đồng tiền, mỉm cười yên lặng, điềm đã rõ. Anh ta cảm thấy vui vui vì ba mặt đồng tiền lật ngửa. Anh ta không thích sống xa quê ba năm hay nhiều hơn, nhưng không nhận công việc này thì không thể được.

Anh ta lượm ba đồng tiền bỏ vào túi và đi trở về không lực hoàng gia Anh. Anh ta đứng trong phòng điện thoại ở góc lên cầu thang và gọi cho đại tá không đoàn trưởng trong cung Nữ hoàng. Anh ta nói:

- Tôi là Nigger Anderson. Tôi đã suy nghĩ kỹ, tôi xin nhận công tác nếu đại tá cần tôi Mấy tháng kế tiếp Anderson bay rất ít. Chuyến bay chở thư của chiếc 316 chưa bắt đầu cho đến khi mẫu thử nghiệm đầu tiên được thông qua, và thật ra cũng phải đến bốn tháng kể từ ngày được chỉ định vào phi đội Nữ hoàng, David mới bay chuyến đầu tiên chở thư đến Uùc. Tuy nhiên, trong lúc này, anh ta cũng có quá nhiều việc phải làm ở mặt đất. Anh ta tham khảo ý kiến của đại tá Cox và một bạn bay cho phía Canada, chỉ huy trưởng phi đội Dewar, và họ đã thiết lập văn phòng chi nhánh Canada và Uùc tại xưởng sửa chữa máy bay trong căn nhà của phi đội Nữ hoàng trên phi trường White Waltham. David phải dời nhà từ Boscombe Down đến một căn hộ nhỏ trên một cửa hàng ở Maidenhead. Trong đời sống ở Anh có cái lợi là không bao giờ gặp khó khăn trong việc thuê nhà hay gác xép và với sở địa ốc quốc gia thì giá lại hạ nữa. Anh ta đã bắt đầu gặp nhiều và trao đổi với tham vụ hàng không của toà đại sứ Uùc để tập họp cho được một phi hành đoàn. Sau đấy, gặp đại tá Cox và chỉ huy trưởng Dewar để trực tiếp bàn về những vấn đề kế toán.

Ơû đây anh ta mới nhận ra rằng đang khám phá vùng đất mới.

Cho tới nay tất cả những chi tiêu của phi đội Nữ hoàng phải được đại tá Cox xét duyệt trước khi chuyển thẳng tới phụ tá bí thư, thiếu tá Dennis Macmahon, xem xét cẩn thận những chi tiêu này và chất vấn những điểm rất xác đáng trước khi đưa qua phần hành chi trả. Hiện nay một hệ thống mới phải được tranh luận triệt để để tách rời những chi phí của máy bay Canada và Uùc khỏi những chi phí tổ chức căn bản và chuyển những mục này qua phủ Cao uỷ định cư. Chuyện này rất phức tạp vì sự thật những bộ phận rời, xăng nhớt được tính chung vào máy bay Uùc và Canada, cần có một bảng xét duyệt đầy đủ theo hệ thống tính toán thật đơn giản từ lâu đã tồn tại trong phi đội Nữ hoàng mãi đến ngày nay. Những vấn đề này, và một số vấn đề khác nữa phải được tranh luận triệt để trong một cuộc họp trang trọng ở Hoàng cung. Người ta quyết định rằng theo nguyên tắc tiền chi tiêu cho mỗi máy bay sẽ còn phải thông qua văn phòng bí thư của điện Buckingham để kiểm tra việc sử dụng máy bay của hoàng gia trước khi những phiếu chi tiêu riêng biệt được gửi đi nhận tiền ở phủ cao uỷ. Trong thời hạn tham khảo, những sĩ quan liên hệ tự mình sắp xếp một hệ thống mới thật chi tiết.

Chỉ huy trưởng phi đội Dewar la lên:

- A! Thế này thì làm tôi điên lên được!

Đúng vậy:

- Anderson trả lời Hai người đã có cuộc họp với đại tá Cox và thiếu tá Macmahon ở văn phòng của ông ta trong Hoàng cung. Đây là lần đầu tiên cả hai vị sĩ quan có mặt ở cung Vua nên họ rất xúc động, với tác phong làm cái gì cũng nhẹ nhàng và nói thì nhỏ lại. Vị phụ tá bí thư có một văn phòng rộng lớn, quét vôi trắng nhìn ra công viên hướng Bắc. Ông ta vui vẻ đón khách và ngồi xuống bàn chuyện liền. Ông ta ấn nút bấm trên bàn giấy, có tiếng chuông reo ở phòng bên, và một cô gái hiện ra tay cầm sổ tay và bút chì. Ông ta nói:

- Đây là cô Long.

Ba người đàn ông đứng dậy chào Cô ta phụ trách công tác thủ tục khi chúng ta muốn cho hệ thống chạy đều.

Gần một giờ rưởi, họ chịu khó thiết lập một hệ thống liên hệ đến các phần kế toán có phần đơn giản đối với phụ tá bí thư và cô Long nhưng lại khó khăn và phức tạp đối với các sĩ quan. Cuối cùng họ cũng sắp đặt một cách có trật tự và ông Macmahon bảo cô gái đánh máy một sự vụ văn thư về những quyết định ấy và phổ biến văn thư này. Một chốc sau ông ta nói với cô thư kí nên viết lại một cách đơn giản hơn và trình bày theo cách nào mà sau này cần tra cứu là có thể lấy ra xem ngay. Công việc xong, ba sĩ quan đứng dậy đi liền.

Ông Macmahon còn giữ họ lại ít phút để nói chuyện về nhà ở của hai sĩ quan Uùc và Canada. Dewar đã lập gia đình nên đã mướn được một căn nhà nhỏ ở Maidenhead. Anderson nói cho vị bí thư biết về căn hộ của anh ta. Sau đấy có một lúc hai ngnười nói chuyện chung chung về máy bay và nhà ở. Cuối cùng ông Macmahon nói với David Mua thuyền chưa?

Vị sĩ quan cười mỉm trả lời:

- Tôi đã mua sáu tuần nay rồi! Sau khi ăn tối với đại tá Cox về, vài ngày sau là tôi mua liền. Chủ nhật nào tôi cũng đi thuyền.

Anh đi ở đâu?

Trên sông Hamble, cách xa xưởng đóng tàu Luke.

Cô Long hỏi:

- Chỉ huy trưởng Anderson, loại thuyền gì vậy?

Ông Macmahon giới thiệu:

- Cô ấy cũng là tay cừ đấy!

Vị sĩ quan lúc ấy mới để ý tới cô gái và trả lời:

- Loại thuyền buồm năm tấn rưởi của đảo Bermuda, cũng khá xưa, đóng xong năm năm mươi ba, nhưng còn tốt lắm. Có người nói kỹ sư Laurent Giles thiết kế đấy.

Cô gái gật đầu:

- Vào thời ấy, ông ta là nhà tạo mẫu nổi tiếng:

Cô ta dừng lại suy nghĩ.

David hỏi:

- Cô tự lái sao?

Thuyền nhỏ thôi:

Cô ta trả lời:

- Loại dài bốn mươi mét rưởi. Tôi mua một chiếc ở Itchenor.

Ơû đâu vậy?:

- David hỏi Itchenor? Ơû trong cảng Chichester. Tôi cũng đã từng đi biển với bác tôi trên chiếc mười lăm tấn. Chủ nhật vừa rồi tôi cũng có đi với ông cụ một chuyến:

Cô ta dừng lại:

- Chiếc năm tấn ông mua không phải sơn xanh, phải không? Buồm màu xanh?

Vâng, thì sao?:

Người sĩ quan Uùc trả lời:

- Tên nó là Nicolette. Cô đã thấy nó chưa?

Cô gái mỉm cười:

- Kh?