- 3 - Mầu áo xanh là mầu anh trót yêu”
Nếu gọi Hoàng Trọng là “nhạc sĩ của mầu tím”, thì chắc chắn danh hiệu… “nhạc sĩ của mầu xanh” phải thuộc về tay ĐC-TL chứ không thể là ai khác. Có lẽ cái tên ấy nghe không được hay lắm nên chưa thấy có ai gọi như vậy, nhưng dù sao vẫn cứ đúng hơn là ghép tên hai chàng nghệ sĩ này với mùa thu, vì không có mùa thu này ta còn mùa thu khác, không có ĐC-TL ta vẫn có những nhạc sĩ khác viết về mùa thu, chứ còn mầu xanh thì hầu như trước sau chỉ có hai chàng là tỏ ra nâng niu và gắn bó thiết tha hơn cả...
Thực ra, không hẳn là hai chàng chỉ sử dụng có một màu xanh để vẽ lên những nét nhạc tình, những màu sắc khác như mầu tím chẳng hạn, vẫn có đấy chứ. Nhưng trên hết và nhiều nhất, vẫn cứ là mầu áo xanh.
Hầu như ĐC-TL không bỏ lỡ dịp nào để đưa mầu áo xanh mà hai chàng “trót yêu” vào trong những lời nhạc của mình. Khi cần tô đậm thêm cho mầu xanh ấy thì hai chàng gọi là “mầu xanh ái ân”:
Hẹn một ngày nao
khi màu xanh lên tà áo…
(“Cánh hoa duyên kiếp”)
Với bao tà áo xanh
đây mùa thu…
(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)
Gửi thêm ánh trăng mầu xanh lá thư..., rồi lại
Gửi thêm lá thư mầu xanh ái ân…
(“Lá thư”)
(Chỉ gửi đi toàn một mầu xanh)
Tà áo xanh nào về với giấc mơ…
(“Thu quyến rũ”)
(“Giấc mơ xanh”, có thể gọi vậy)
Nhưng một sớm mùa thu / khép giữa trời tím ngắt
nàng đi gót hài xanh…
(Gửi người em gái)
(Phải là gót hài “xanh” chứ không chịu màu gì khác)
Có mầu nào không phai
như mầu xanh ái ân…
(“Tà áo xanh”)
(Chẳng biết đúng, sai! Nói vậy chắc phải vậy)
Có rất nhiều, rất nhiều màu xanh như thế trong lời nhạc ĐC-TL.
Thử nghe lại “Tà áo xanh” (có tên khác là “Dang dở”), bài hát tiêu biểu trong số những bài tiêu biểu. Gọi là “tiêu biểu” vì được nhiều người hát nhiều người nghe, vì cái tựa có “mầu xanh” của bài hát, và vì cả bài hát ấy là câu chuyện tình được kể lại một cách trọn vẹn nhất.
Tôi vẫn cho rằng câu hát mở đầu trong những bài nhạc của ĐC-TL luôn luôn là một trong những câu hay nhất, dẫn đưa người nghe vào thế giới âm thanh ĐC-TL, như bước vào cánh rừng thu ngập xác lá vàng. Ở “Tà áo xanh”, khởi đầu là gió. Gió từ muôn hướng. Một mảnh hồn đầy gió.
Gió bay từ muôn phía / tới đây ngập hồn anh...
Gió ấy chắc phải lạnh nhiều, kể từ “lúc anh ra đi lạnh giá tâm hồn...” Gió mang lời dẫn nhập câu chuyện tình được kể lại, gió cũng đưa “tình lên chơi vơi”, đưa “thuyền anh một lá ra khơi...” (Hình ảnh con thuyền có vẻ được ĐC-TL đặc biệt ưa chuộng, dùng đi dùng lại nhiều lần. Khi thì “thuyền cắm tay sào tự cuối thu”, lúc thì “thuyền tình không bến đỗ người ơi”, lúc thì “thuyền đã sang bờ / đường về không lối”. Có lúc lại ví von “tình anh một con thuyền bé / chìm sâu đại dương một đêm nổi sóng”. Lại có cả một bài hát nói về con thuyền nữa, như “Thuyền anh mai ra đi rời bến...” trong “Chuyển bến”. Lại có bài hát chở theo một lúc đến mấy con thuyền, khi thì “người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa…”, lúc thì “thuyền phiêu lãng từ nay không bến đỗ”, lúc thì “thuyền rời xa bến vắng người ơi” trong “Lá đổ muôn chiều”. Có rất nhiều thuyền bè lờ lững, nổi trôi trên dòng nhạc ĐC-TL).
Đêm đêm ngồi chờ sáng mơ ai…
Phải yêu say đắm lắm, thiết tha lắm mới trải qua bao đêm thức trắng để chỉ ngồi chờ sáng và mơ tưởng đến một bóng hình, dẫu biết rằng “người mơ không đến bao giờ”.
Ta quen nhau mùa thu / ta thương nhau mùa đông
Ta yêu nhau mùa xuân / để rồi tàn theo mùa xuân…
Liệu có là “bốn mùa yêu nhau”, hay chỉ là những “mùa màng” của tình yêu(?).
Người về lặng lẽ sao đành…
Lời trách cứ hay tiếng thở dài(?).
Anh còn nhớ em nói rằng.../ Em còn nhớ anh nói rằng...
Đâu phải chỉ là những lời thề hẹn chót lưỡi đầu môi hay lời tình tự ngọt ngào của một mùa ái ân, mà còn là nỗi niềm trăn trở vì những câu hỏi vì sao và… vì sao(?).
Sao mùa xuân lá vẫn rơi? Sao mùa xuân đến không vui?
Có hoa nào không tàn? Có tình nào không phai?...
Những câu hỏi và câu hỏi không có lời giải đáp.
Khi nào em đến với anh / xin đừng quên chiếc áo xanh...
Làm sao mà quên được, làm sao mà khước từ cho được lời dặn dò ân cần, thiết tha đến vậy!
Rồi chiều nao / xác pháo bên thềm tản mác bay...
Câu nhạc chuyển đoạn ở chỗ này thật khéo, thật đẹp. (Các nhạc sĩ thời ấy vẫn hay sử dụng những câu nhạc chuyển tiếp như vậy. Anh Việt trong “Thơ ngây” chẳng hạn, “Rồi một hôm / có chàng trai trẻ đến nơi này...” Hoặc, cũng ĐC-TL trong “Gửi người em gái”, “Rồi ngày thống nhất đến rất nhanh không ai ngờ...”). Như cuốn tự truyện vừa lật sang một chương khác, như cuốn phim, vở kịch vừa chuyển sang một cảnh khác, màn khác, mở ra khung cảnh mới, không gian mới, dẫn đến kết thúc câu chuyện tình dở dang. Tôi yêu hai chữ “tản mác” trong câu hát ấy, tưởng trông thấy được xác pháo đỏ tươi, vật vờ, nhẹ cuốn theo làn gió đùa. Chuyện tình ấy, xác pháo ấy rồi “cuốn theo chiều gió”. Hai người đã hai lối đi.
Em đi trong xác pháo
anh đi không ngước mắt...
Hình ảnh anh chàng thất tình, cúi đầu cúi mặt, lầm lũi bước đi trong ngày cưới của người yêu mới tội nghiệp làm sao, mới thương tâm biết chừng nào! Chỉ là xác pháo, chỉ là những bước đi câm lặng, không nói gì đến tình cảm vui, buồn, nhưng vẫn làm gợn lên nỗi xúc động, vẫn khiến người nghe phải mủi lòng. (Hình ảnh “em đi trong xác pháo” còn được nhiều nhạc sĩ lặp lại về sau này).
Thôi đành… em!...
Câu hát như bị tắc nghẹn, như muốn nói điều gì đó nhưng lại… thôi, và đổi thành tiếng thở dài thật nhẹ.
Hoa tàn / tình tan theo không gian...
Vẫn cứ chậm rãi, những nốt nhạc được đẩy nhẹ từ thấp lên cao. Tôi yêu nét bay bổng ở những nốt do cao trong câu nhạc cuối. Những nốt ngân thảng thốt, rời rạc, và tan loãng trong không, nghe như những mảnh tình tan tác “cũng theo hư không mà đi”. (2) Một trong những câu hát đẹp nhất và “đoàn chuẩn-từ linh” nhất.
Câu chuyện tình kể lại khá đầy đủ, trọn vẹn, kết thúc bằng một đám cưới mùa xuân, có “hoa mai rơi từng cánh”, có “xác pháo bên thềm”, có “em đi trong xác pháo”, có “anh đi không ngước mắt”, có tiếng thở dài “thôi đành... em!”..., nghĩa là có nhiều “kịch tính”, nhiều hình ảnh sắc nét đan chéo vào nhau, như bày ra trước mắt, như rọi thẳng vào tim người nghe, dễ tạo những cảm xúc mạnh mẽ.
Tại sao lại là “tà áo xanh”? “Tà áo xanh nào về với giấc mơ...” Tà áo xanh chỉ có trong giấc mơ thôi sao? Tại sao lại là “mầu xanh ái ân”? “Gửi thêm lá thư mầu xanh ái ân...” Sao không phải là màu xanh thắm, xanh ngắt, xanh mướt hay xanh biếc...? Mầu xanh ái ân ấy biết có là thực hay mơ? Và mối tình nghệ sĩ nữa, cũng chỉ “như giấc mơ” thôi sao?
“Tà áo xanh”, cũng như các bài nhạc khác của ĐC-TL, thường có chung nhịp điệu chậm và buồn, thích hợp với những lời kể lể, tình tự. Hầu hết các bài nhạc được viết ở nhịp 4/4 bằng những cung bậc và giai điệu thật mềm mại, bằng những nốt nhạc rót xuống thật dịu dàng như vuốt ve mơn trớn, thật ngọt ngào như lời thì thầm rót mật vào tai, thật nhẹ nhàng như lời gió rì rào, thật chậm rãi như “lá vàng từng cánh rơi từng cánh”, và thật thong thả như bước chân ai lững thững dạo trên những lối đi mùa thu.
Ý nhạc diễn tả theo tình cảm của lời, đôi lúc ngẫu hứng, bất chấp những quy luật sáng tác. Luật cân phương, cân đối ư? Làm sao có ở những “Tà áo xanh”, “Gửi gió cho mây ngàn bay”... Cũng đâu có sao, trước và sau đấy vẫn có những người soạn nhạc theo lối ấy. Nghệ sĩ mà! (Không phải riêng ĐC-TL, nhiều nhạc sĩ khác ở cùng thời cũng có vẻ không mấy ưa thích những khuôn khổ, lề luật lỉnh kỉnh trong sáng tác). Vấn đề là nhạc, là thơ có chuyên chở được những cảm xúc, có làm người nghe phải lắng nghe, có làm rung lên những sợi dây đàn âm thanh trong mỗi trái tim người nghe.
Đâu phải chỉ có ở “Tà áo xanh” thôi, mầu áo xanh còn ẩn hiện chập chờn nơi này nơi khác. “Gửi gió cho mây ngàn bay” chẳng hạn.
Với bao tà áo xanh đây mùa thu...
“Thu quyến rũ” chẳng hạn.
Mầu áo xanh là mầu anh trót yêu...
Sao lại “trót”? “Trót” yêu nghĩa là sao? “Trót” như một định mệnh, không làm sao tháo gỡ, không cách chi cởi bỏ được. Định mệnh nào đã buộc chặt người viết câu hát ấy với mầu xanh kia? Mùa thu quyến rũ hay mầu áo xanh quyến rũ? Trót yêu mầu xanh, hay trót yêu mùa thu, hay trót yêu “người mơ”? Nhưng sao “người mơ” lại “không đến bao giờ”?...
Như vậy thì tình yêu đưa vào trong bài hát ấy sau cùng chỉ còn lại một “mầu xanh ái ân” đó thôi.
Như vậy thì tất cả lời thơ ý nhạc trong những tình khúc ĐC-TL sau cùng chỉ nằm gọn lại trong câu hát “Có mầu nào không phai / như mầu xanh ái ân”.
Tìm đẹp trong nét bút Đoàn Chuẩn-Từ Linh"Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi”
Khi đặt bút viết câu hát “... đập gương xưa tìm bóng” (“Gửi gió cho mây ngàn bay”), tôi đoán chừng hai chàng ĐC-TL đã có ý mượn ý thơ trên của ông vua Tự Đức (lòng tưởng tiếc, nỗi nhớ quay quắt người ái phi đã lìa trần) để bày tỏ nỗi nhớ nhung da diết về một bóng hình đã xa khuất. Chỉ là “Đập gương xưa tìm bóng”, chứ không nói “Lòng cuồng điên vì nhớ...” (“Hoài cảm”, Cung Tiến), hoặc “Chợt từng bước em là từng mũi đinh cuồng điên…” (“Tưởng rằng đã quên”, Trịnh Công Sơn) như ta vẫn nghe, vẫn đọc ở những người viết nhạc sau này.
Ta còn thấy rải rác những câu hát viết theo lối ví von như thế, chẳng hạn “thuyền đã sang bờ”, “thuyền cắm tay sào tự cuối thu”, “gửi bướm đa tình về hoa”, “nước sông ngăn cách đôi dòng”…
“Đêm đêm nhìn cây trút lá / lòng thấy rộn ràng ngỡ bóng ai về...” (“Thu quyến rũ”). Câu hát ấy nghe ra cũng từa tựa… “Giọt sương khuya rụng xuống lá / như chân ai lần về...” (“Nguyệt ca”, Trịnh Công Sơn), chỉ có khác chút đỉnh là “Thu quyến rũ” được viết ra tính đến nay cũng… trên sáu mươi năm chứ không phải là mới đây. Thử làm một sự so sánh nho nhỏ để thấy rằng người đời sau thật không dễ gì qua mặt được những người đi trước, và có những cái thoạt nghe tưởng như mới kỳ thực chẳng mới chút nào.
Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Từ Linh.
Đôi lúc tôi tự hỏi làm sao mà ngày ấy người ta lại viết được những câu hát như là “Nhớ nhau từ làn môi, đôi mắt”, rồi lại “Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát” (“Lá đổ muôn chiều”), rồi lại “Nhớ nhau đành tìm trong ánh sao” (“Lá thư”), và nhất là “Nhớ nhau từng phút, yêu từng giây...” (“Đường về Việt Bắc”). “Nhớ” đến như thế là… nhớ quá là nhớ, “yêu” đến như thế là… yêu quá là yêu.
Không chỉ là những câu, mà cả đến những chữ dùng trong câu cũng thật thú vị, như là chữ “ngập ngừng” (như đã nói ở trên) chẳng hạn:
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
(“Thu quyến rũ”)
“Ngập ngừng” như sợ rằng chỉ cái đập cánh nhẹ thôi cũng sẽ làm “vỡ” mùa thu, cũng sẽ làm hỏng bức tranh thu tuyệt diệu và khoảng không gian lắng đọng tuyệt vời của mùa thu.
Nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng
“Chờ đến kiếp nào”
(“Lá thư”)
Những phút “ngập ngừng” ấy là những phút xao động của tình yêu.
Hay là chữ “hững hờ” chẳng hạn:
Hoa lá tàn / hàng cây đứng hững hờ
(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)
Tại sao lại “đứng hững hờ”? Nghe có vẻ... hờ hững quá, dửng dưng quá. Hàng cây đứng “hững hờ” hay mùa thu đó “hững hờ”? Cái “hững hờ” ấy, những nốt nhạc xuống giọng lửng lơ ấy, nghe mới có vẻ mùa thu làm sao!
Những “ái ân” và “ân ái” có thấy rải rác đâu đó trong thơ và nhạc thuở trước, chẳng hạn “Ta sẽ là vợ chồng / sẽ yêu nhau mãi mãi / sẽ xe sợi chỉ hồng / sẽ hát câu ân ái...” (“Hôn nhau lần cuối”, Nguyễn Bính), hoặc “Trời hết một mùa đông / gió bên thềm thổi mãi / qua rồi mùa ân ái...” (“Một mùa đông”, Lưu Trọng Lư), hoặc “Một chiều ái ân / say hồn ta bao lần...” (“Bóng chiều xưa”, Dương Thiệu Tước), thế nhưng quả tình là chưa có nơi đâu “ái ân”, “ân ái” lại được mùa cho bằng ở những câu nhạc tình ĐC-TL:
Gửi thêm lá thư mầu xanh ái ân / về đôi mắt như hồ thu
(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)
Có mầu nào không phai / như mầu xanh ái ân
(“Tà áo xanh”)
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo
(“Tình nghệ sĩ”)
Anh quay về đây đốt tờ thư / quên đi niềm ân ái ngàn xưa
Ái ân theo tháng năm tàn
ái ân theo tháng năm vàng...
Còn đâu ân ái chăng người xưa
(“Lá thư”)
Tôi không rõ là những “ái ân”, “ân ái” nở rộ trong những dòng thơ dòng nhạc đó có khác gì nhiều lắm những câu, chữ ấy hiểu theo nghĩa bây giờ, nhưng chắc là phải tình tứ hơn, thơ mộng hơn. Những “câu ân ái” chắc phải hiểu là những lời tình tự êm ái ngọt ngào nhất, những “chiều ái ân” từng làm “say hồn ta bao lần” chắc phải hiểu là những thời khắc yêu đương đắm say, nồng nàn nhất.
Tương tự, chữ “lả lơi” trong những câu hát dưới đây chắc không có nghĩa “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” như cụ Nguyễn Du tả cảnh Kim Trọng “lả lơi” với Thúy Kiều, mà nghe vừa có vẻ “lả lướt, bay bướm”, lại vừa chan chứa những tình ý yêu đương:
Nâng phím tơ lên mấy cung lả lơi
(“Tình nghệ sĩ”)
Khăn san bay lả lơi trên vai ai
(“Gửi người em gái”)
Nét bút đa tình lả lơi
(“Lá thư”)
Đã “lả lơi” lại còn “đa tình” nữa thì chịu gì nổi hai chàng nghệ sĩ... đa tình ấy:
Gửi bướm đa tình về hoa
(“Gửi gió cho mây ngàn bay”)
Anh mơ trong nét bút đa tình sao
(“Tà áo xanh”)
Đến những câu như là “Nhớ nhau đành tìm trong tiếng hát / Đời vắng em rồi vui với ai” (“Lá đổ muôn chiều”) lại nghe sao mà thiết tha quá chừng!
Nếu không phải là câu hát, câu trên chắc phải là câu thơ. Nếu là câu thơ, câu thơ ấy ngẫu nhiên đã chảy xuôi cùng một dòng với câu thơ Vũ Hoàng Chương.
“Em ơi lửa tắt, bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai”
(“Đời vắng em rồi”)
Có khác chăng là men rượu với men tình. “Có tình nào không say?...” hai chàng đã chẳng nói vậy sao! Tìm vui trong tiếng hát hay tìm quên trong chén rượu cũng chỉ là đi tìm những lãng quên thôi.
Có rất nhiều câu hát chan chứa những tình cảm yêu đương đắm say như vậy trong lời nhạc ĐC-TL.
Tình đầu trong gió mùa, người y… ê... ê... u... ơi...
(“Lá thư”)
Những nốt luyến láy uốn lượn kéo dài ở chữ “yêu” nghe như lời nhắn nhủ thiết tha và nhớ nhung da diết.
Trong “Lá thư”, có một câu tôi rất thích, “Anh quay về đây đốt tờ thư / quên đi niềm ân ái ngàn xưa...” Hành động đốt tờ thư là hành động thể hiện sự dứt khoát, là muốn đoạn tuyệt, muốn quên hết. Thế nhưng khi lòng đã thực sự muốn quên, muốn dứt khoát thì sao không đi dài đi thẳng, sao không “lạnh lùng mà đi / luyến tiếc thêm chi” (“Tà áo xanh”) để khỏi “bận lòng chi nữa lúc chia phôi” mà lại còn “quay về đây” làm chi nữa? Phải đốt hết, phải thiêu hủy cho bằng hết những “phong thư ngào ngạt hương” ấy mới quên đi được sao? Tương tự, đã nói rằng “Nhưng thôi tiếc mà chi / chim rồi bay / anh rồi đi...” (“Gửi gió cho mây ngàn bay”) nhưng sao vẫn cứ “Thấy hối tiếc nhiều / thuyền đã sang bờ...”, vẫn còn lời trách cứ nhẹ nhàng “Người về lặng lẽ sao đành!...” (“Tà áo xanh”). Nói quên mà thật khó quên, nói không hối tiếc mà còn nhiều hối tiếc, có phải đấy là tâm trạng dùng dằng, là những giằng xé giày vò của bao kẻ trót vướng vào lưới tình và là những hệ lụy của tình yêu ở bất cứ thời nào.
Những tình khúc ĐC-TL, về giai điệu, tuy mượt mà nhưng khá đơn giản, không có những chỗ luyến láy lả lướt quá, không có những biến khúc, biến tấu khi lên khi xuống, lúc nhanh lúc chậm, không có những nốt nhạc lên cao hoặc xuống thấp quá, hoặc đòi người hát phải có những hơi ngân thật khỏe thật dài. Tất cả chỉ là “nâng phím tơ lên mấy cung lả lơi”, lại có vẻ là những bài bản dễ hát, ai hát cũng được, tuy không phải là ai hát cũng hay được. Khác với những tình khúc của những nhạc sĩ tên tuổi thường gắn liền với những ca sĩ tên tuổi, tôi chưa hề nghe nói giọng hát nào là đặc biệt thích hợp với nhạc tình ĐC-TL. Mỗi người có thể yêu thích những giọng ca khác nhau, có thể nghe được ĐC-TL bằng giọng ca này mà không phải giọng ca khác. “Thu quyến rũ”, với tôi, trước giờ vẫn chưa có ai hát qua được Ngọc Long. “Gửi gió cho mây ngàn bay”, mỗi lần nghe là mỗi lần nhớ những giọng hát Lệ Thanh, Tôn Thất Niệm một mùa nào. “Tà áo xanh” nghe được cả với giọng nữ cao Thái Thanh và giọng nam trầm Anh Ngọc, Sĩ Phú. “Đường về Việt Bắc” thích hợp với các giọng nam Duy Trác, Tôn Thất Niệm. Có thể kể thêm những Ngọc Bảo, Mộc Lan, Tâm Vấn, Mai Hương, Quỳnh Giao, Xuân Thu... ở một đôi bài ĐC-TL (và còn những ca sĩ nào khác nữa tôi chưa được nghe qua...). Các bài “Chuyển bến”, “Thu quyến rũ” có vẻ thích hợp với giọng nam hơn là giọng nữ. Giọng nam phải là giọng trầm, giọng nữ phải mềm mại, tự nhiên.
Những lối thay đổi tùy tiện lời nhạc và cả nhạc điệu, bằng cách chế biến, thay đổi nhịp điệu nhanh chậm, uốn éo lời ca giọng hát, hoặc hát hoặc ít câu bài này chuyển sang ít câu bài kia theo lối “liên khúc”... đôi lúc vẫn thấy trong cách trình diễn của vài ca sĩ. Tất cả những kiểu “tự biên tự diễn” ấy đều không thích hợp và không diễn tả được tình cảm bài nhạc khiến người nghe không mấy hứng thú hoặc rung cảm, nếu không muốn nói là có đôi chút khó chịu vì không còn nhận ra được nét nhạc ĐC-TL.
Sánh đôi cùng giai điệu mượt mà trong những tình khúc ĐC-TL là những câu hát thật tự nhiên, không chút bóng bẩy, cầu kỳ, không ẩn chứa những “triết lý” cao xa, mơ hồ, mà chỉ là những ý tưởng gần gụi, dễ dàng nhận biết, hiểu thấu. Những ý tưởng thoạt nghe tưởng như cũ kỹ, nhưng lúc nào cũng mới và được lặp đi lặp lại mãi về sau này. “Mộng nữa cũng là không...” Thế thôi. Hoặc những quy luật bất biến, muôn đời của cuộc sống, như “Có hoa nào không tàn / có tình nào không phai...”
Lời nhạc chỉ đơn giản là vậy, không gọt giũa trau chuốt, không làm duyên làm dáng, chỉ như những chuyện trò thân mật, những tâm tình vụn vặt giữa hai người bạn, giữa đôi tình nhân, nhưng lại đi thẳng vào trái tim người nghe. Sao lại như vậy được? Cũng dễ hiểu thôi, những lời lẽ ấy có bình thường nhưng không tầm thường chút nào; mà ngược lại, nói như nhà phê bình Đặng Tiến, đấy là tiếng nói được “phát ngôn trên tư cách nghệ sĩ, đưa tác phẩm nghệ thuật đến một quần chúng nghệ thuật, trên những tiêu chuẩn thẩm mỹ”. Cái đẹp trong lời nhạc ĐC-TL không chỉ ở tính sáng tạo nghệ thuật mà còn ở cách thể hiện. Nghe một bài nào khác, “Cánh hoa duyên kiếp” chẳng hạn, ta bắt được những câu hát thật là đẹp.
Đêm hôm nay chợt nhớ tới nơi xa
lúc anh về nhặt mấy cánh hoa
Kèm vào thư / lá thư xanh mầu yêu
Cánh hoa duyên kiếp này / tìm em trong ý thu...
Đêm hôm nay ngồi dưới ánh trăng thu
viết tơ lòng gửi tới cho nhau
Rồi ngày mai / nhắn mây đưa tờ thư tới em
Đôi mắt sầu / kèm theo bao ý thơ...
Tình em như mây trong mùa thu bay rợp lối
Rồi tan trong chiều vắng / khi gió mang về thành mưa...
Những câu hát giàu hình ảnh và ý tưởng đẹp như thế có thể gặp rải rác ở bất cứ tình khúc nào của ĐC-TL.
Người thưởng ngoạn khó tính một chút vẫn có thể tìm ra được những hạn chế trong nét đẹp ấy. Những ý tưởng trùng lắp hay những câu, chữ lặp đi lặp lại ở bài này bài kia (những “xác pháo bên thềm”, “nét bút đa tình”, “dệt mấy cung đàn”, “lòng thấy rộn ràng”... chẳng hạn). Có khi không phải chỉ là vài chữ mà gần trọn câu nhạc vừa ở bài này lại vừa ở bài kia (như “Nâng phím tơ lên mấy cung lả lơi...” vừa ở “Tình nghệ sĩ” vừa ở “Đường về Việt Bắc”), có lẽ vì nghệ sĩ vẫn hay có những phút... lơ đãng.
Những ví dụ kể trên không có nhiều, ngược lại, đôi lúc nghe nhạc ĐC-TL, ta gặp được những bất ngờ thú vị, chẳng hạn đang giữa những nét nhạc lâng lâng ít nhiều chịu ảnh hưởng dòng thi ca lãng mạn Pháp, bỗng lạc ở đâu vào những câu lục bát ngọt ngào ca dao hoặc phảng phất làn điệu dân ca, thoạt nghe tưởng như “tân cổ giao duyên” vậy.
Người đi trong dạ sao đành
Đường quên lối cũ ân tình nghĩa xưa
(“Gửi người em gái”)
Vậy mà nghe vẫn cứ thuận chiều, vẫn cứ xuôi chèo mát mái, chẳng có chút gì ngượng ngập, sượng sùng. Những pha trộn, kết hợp ấy mới thật tài tình.
Về việc đánh giá, xếp hạng những tình khúc của ĐC-TL, thật khó mà nói được bài nào là hay nhất, hoặc bài nào hay hơn bài nào. Kẻ yêu bài này, người thích bài kia, hoặc cho là mỗi bài mỗi vẻ.
Các nhà nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử tân nhạc Việt vẫn cho rằng những tình khúc ĐC-TL là tiêu biểu cho dòng nhạc lãng mạn tiền chiến. (Hai chữ “tiền chiến” lâu nay không còn được hiểu theo nghĩa... tiền chiến nữa mà dường như chỉ được gọi như vậy cho... tiện. Cây cột mốc “tiền chiến” có khuynh hướng bị đẩy lui mãi về phía sau, đến mức hầu như tất cả các văn nghệ sĩ ở lại miền Bắc sau ngày di cư đều mặc nhiên hóa thành các “văn nghệ sĩ tiền chiến” cả). Nói “tiêu biểu”, không hẳn vì hai chàng ĐC-TL đã đặt những bước chân tiên phong mở đầu cho khuynh hướng lãng mạn ấy, cũng không hẳn vì những tình khúc ấy là hay nhất, đẹp nhất, được yêu chuộng nhất, hoặc sống lâu nhất (so với những tình khúc của Văn Cao, Phạm Duy, Tô Vũ, Doãn Mẫn, Hoàng Quý, Hoàng Giác...), mà vì đấy là những bản tình ca đằm thắm nhất, trữ tình nhất, lãng mạn nhất, tất nhiên. Chưa kể, thêm một cái nhất nữa (đáng gọi là tiêu biểu), hai chàng nghệ sĩ này trước sau chỉ yêu có nhạc tình và chỉ viết có nhạc tình, nói như nhạc sĩ Y Vân, chỉ chuyên có một việc là “đem nhạc tình ghi tràn đầy cung điệu buồn”. (3) Trước và sau, ĐC-TL vẫn cứ thủy chung với nhạc tình, “chuyển bến” thì có đấy nhưng không có những “chuyển hướng” sáng tác để những người yêu nhạc của hai chàng phải hụt hẫng, thất vọng.
Nếu nói âm nhạc là nguồn an ủi, vỗ về, tìm đến âm nhạc là tìm đến những phút giây quên lãng, những người yêu nhạc ĐC-TL còn yêu thêm cái chất men lãng mạn, còn yêu thêm cái phong vị trữ tình, nhẹ nhàng mà ngất ngây quyện trong từng nét nhạc.
Nội dung các bài hát của ĐC-TL thường là những hối tiếc không nguôi về chuyện tình cách chia, dang dở, những chuyện tình mà những người yêu nhau đã không đến được với nhau, đã không đi chung được một đường. Những chuyện tình thường có chung một không gian mùa thu, một khí hậu cũng mùa thu, một đoạn kết đẹp và buồn. Không có ở nơi đâu bằng trong những tình khúc ĐC-TL, ta thấy rõ quả là... “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”.
Sự nghiệp âm nhạc của ĐC-TL cũng chẳng may mắn gì hơn số phận những chuyện tình của hai chàng, nghĩa là cũng... dang dở, vì nguồn nhạc hứng đã phải tắt lịm ngay giữa thời kỳ sung mãn nhất của người nghệ sĩ sáng tạo. Tiếc thay! Nếu không, những gì hai chàng nghệ sĩ tài hoa ấy để lại cho đời chắc chắn không phải chỉ lác đác những bản tình ca mà người đời còn hát đi hát lại, còn nghe mãi nghe hoài.
Nhưng có lẽ chính vì sự nghiệp “dang dở” ấy mà cái tên ĐC-TL quen thuộc ấy, những bản tình ca mùa thu ấy, những nét nhạc trữ tình ấy, đã luôn luôn là những gì đẹp nhất và còn ở lại mãi trong lòng người.