Chương 30
Một cha xứ và một bác sĩ trẻ đã tìm thấy chúng tôi vào sáng sớm hôm sau khi họ đang đi quanh xavan để tìm kiếm những người sống sót. Yves đã cõng theo xác của Odette trong đêm tối được một quãng khá xa khỏi bờ sông, đủ xa để chúng tôi không còn nhìn thấy con sông và cây cầu nữa.
Cha xứ gọi người đến giúp đỡ, và trong phút chốc chúng tôi được bao quanh bởi vô số đàn ông và đàn bà, có vài người sắp lành lặn trong khi số còn lại vẫn thương tật đầy mình. Nhưng tất cả đều muốn biết chúng tôi từ đâu đến, rằng chúng tôi có biết tung tích người này hay người kia từ thị trấn này hay nhà máy kia hay không.
Ai đó đỡ lấy Odette từ trên lưng Yves mà không hỏi chúng tôi điều gì thêm. Cô ấy trông thật nhỏ bé và yếu ớt, gần như không trọng lượng trong cánh tay của một người lạ mặt.
Chúng tôi đi theo sau người đang bế cô ấy tới một cánh đồng khác với những túp lều rải rác. Yves khập khiễng bước đi, mắt không rời khỏi xác Odette.
“Cô ấy tên là gì?” Vị cha xứ với khuôn mặt mệt mỏi và một quyển sổ mở ngỏ trong tay lên tiếng hỏi. Ông lau miệng với một cái khăn mùi xoa trắng, món đồ trắng nhất mà tôi được thấy trong suốt cuộc hành trình, chỉ sau tấm ren che phủ bức tượng Đức Mẹ trên con đường xuyên qua núi.
Yves trả lời, “Tên cô ấy là Odette, nhưng chúng tôi không biết họ của cô ấy.”
“Cô ấy có người thân nào không?” Cha xứ hỏi tiếp. “Chúng tôi không biết cô ấy từ đâu đến.”
Người đàn ông bế Odette trên tay đang đi dọc theo lề đường nơi những xác người được tập hợp lại và xếp thành hàng dài. Các cha xứ và một vị giám mục mặc áo lễ đang cử hành những nghi thức cầu siêu cho mỗi người chết. Chúng tôi không hỏi xem Odette sẽ được chôn cất ở đâu, vì chúng tôi biết rằng cô ấy có lẽ sẽ phải chia sẻ một ngôi mộ tập thể với tất cả những người đang nằm đó. Vả lại, vị cha xứ lúc nãy cũng đã chuyển sang hỏi tới người khác rồi.
Tôi ngắm nhìn gương mặt của Odette một lần cuối. Có một sự bình yên trên đó làm tôi thoáng chút ghen tị. Nhìn cô ấy trông không giống một người phải chết đột ngột. Thân thể cô tiếp nhận cái chết dễ dàng, với bàn tay mở rộng, đầu gối khom lại, và khuôn mặt dãn ra một cách thanh thản.
Tôi cảm giác như mình đã đứng nhìn xuống xác cô hàng giờ đồng hồ. Dù đi đâu ở đâu, tôi vẫn sẽ luôn trông thấy cô ấy mỗi khi nhìn xuống.
Không có một lời từ biệt nào là đủ.
Tất cả những gì tôi muốn chỉ là giúp cô ấy giữ yên lặng.
Yves kéo tay tôi rời khỏi xác Odette và đi vào một trong những lều trạm xá nơi mọi người đang co cụm trên những băng ghế hay chen chúc trên những tấm thảm trải dưới đất. Hai bà sơ ngồi sau một chiếc bàn nhỏ tiếp đón chúng tôi.
“Trông cô có vẻ khá hơn một vài người khác đấy,” một bà sơ với khuôn hàm vuông vức nam tính và nước da màu cà phê sữa nói với tôi bằng tiếng Kreyòl.
Hai bác sĩ đang làm việc đằng sau một tấm bình phong bằng gỗ phía bên trong lều. Yves và tôi được dặn ngồi xuống trên một băng ghế nhà trường lúc nhúc người và đợi tới lượt của mình.
Chúng tôi cố gắng tránh nhìn những người ngồi xung quanh, đặc biệt là những người đang trần truồng không một mảnh vải khiến cho người khác có thể soi mói họ một cách tường tận.
Trong lúc chúng tôi chờ đợi, nhiều người khác cố gắng tìm cách kêu gọi sự chú ý của các sơ đến vết thương của họ.
“Thưa sơ, làm ơn cho tôi xin một ít nước mát đi.” “Thưa sơ, sơ đừng quên lượt của tôi đấy nhé.”
“Sơ ơi, tôi cảm thấy kiệt sức quá.”
“Thưa sơ, con trai tôi đã đến chưa? Con gái tôi, chồng tôi, vợ tôi, mẹ tôi, cha tôi, bọn họ đã đến chưa?”
Tiếng kêu than của họ vọng lên trên tiếng rên rỉ của những người không thể nói lên nhu cầu của mình giống tôi.
Một vài tiếng trôi qua trước khi bà sơ với khuôn hàm vuông đi tới chỗ của tôi.
“Trông cô không tệ như những người khác. Cô có vẻ ổn đấy,” bà ta lặp lại.
Để lại Yves đằng sau, tôi được dẫn qua một hàng những người mà hầu hết da thịt họ đã bị hủy hoại bởi những vết bỏng, những người đàn ông đàn bà cháy đen co quắp lại trong những tư thế khổ sở. Tay chân họ đông cứng trong không trung như những khúc cây lìa cành đã chết khô.
Phía sau tấm bình phong, một vị bác sĩ đang chữa trị cho rất nhiều người cùng nằm trên một dãy bàn xếp lại với nhau. Bên cạnh tôi là một người đàn bà với bắp chân chỉ còn dính vào đầu gối bằng vài mẩu gân. Người đàn bà vật vã lên xuống, lầm bầm cầu xin ông bác sĩ hãy giữ nguyên chân của bà, đừng bắt bà trở thành tàn phế, và để cho bà được đi sang thế giới bên kia theo cách mà bà đã được sinh ra vào cõi trần gian này.
Một bác sĩ khác đi vào và cầm theo một cái cưa nhỏ. Người đàn bà giữ ánh nhìn trân trối lên khung lều làm từ những cột chống và dây rút, với những ô cửa sổ nhỏ tí có bọc lưới chống muỗi.
Tôi nhìn thấy mắt vị bác sĩ của tôi hấp háy phía trên lớp khẩu trang trắng đã ngả màu. Có một sự cấp bách trong mỗi cử động của ông ấy. Ông liếc nhìn về phía người đàn bà kia trong lúc cắt chiếc váy rách nát mà tôi đang mặc. Một tay ông xoay mặt tôi đi để tôi không phải nhìn ca phẫu thuật của người đàn bà nọ, trong khi tay còn lại nâng hai chân tôi lên để kiểm tra xem trên bụng tôi có vết cắt nào không. Đôi mắt ông cứng đanh lại trong giây lát khi cẳng chân của người đàn bà lìa khỏi khớp gối và thân người bà ta quằn quại trong cơn đau đang ập đến, khiến cho công việc của bác sĩ còn lại trở nên khó khăn hơn. Máu bắn tóe ra từ vết cưa trên bắp đùi bà ta, một giọt văng lên mí mắt tôi. Ông bác sĩ kia dừng lại và thông báo, “Bà ấy sẽ không qua được đâu”. Tôi nhắm mắt lại để tránh máu của bà ta bắn vào mắt, đinh ninh rằng đây sẽ lần cuối cùng tôi phải chứng kiến cảnh một người phải chết, đến mức khi ông bác sĩ kia nói rằng “Bà ấy sẽ không qua được đâu”, tôi chắc chắn rằng ông ấy cũng đang nói về tôi.
Khi tôi hồi tỉnh, tôi thấy mình ở trong một căn phòng lớn với tường gỗ và mái tôn bằng nhựa trong như bề mặt một tấm gương mờ đục. Cái nóng giữa ngày xuyên qua trần nhà như muốn thiêu đốt tất cả chúng tôi. Những người còn lại vừa ngồi quạt để lấy gió vừa để đuổi lũ ruồi và kiến ra xa khỏi những vết thương của họ.
Tôi đang nằm trên một tấm chăn mỏng kế bên một cây cột mục ruỗng đang cố chống đỡ cả trần nhà. Phía trên đầu tôi là hai cánh cửa sổ. Một ngọn gió nhẹ từ bên ngoài luồn lách vào trong căn phòng.
Đấu gối và đầu tôi đều được băng bó. Tôi không còn mặc bộ váy người làm nữa, thay vào đó là một cái váy bằng vải denim bạc màu, từng thuộc về một người đàn bà có khổ người to lớn hơn tôi nhiều.
Để giết thời gian, tôi đút tay vào hai túi váy rỗng không rồi lại rút tay ra. Một mùi gỗ thông ẩm ướt lướt qua cánh mũi tôi. Tôi chập chờn nghe thấy tiếng rên rỉ của một người đàn ông đang cố ghìm tiếng hét, nhìn thấy khuôn mặt đã chết của Odette, rồi chìm lại vào giấc ngủ.
Trong giấc ngủ, tôi nhìn thấy mẹ tôi hiện lên lơ lửng phía trên dòng nước đã nhấn chìm bà, như một nữ thần của những con sông.
Bà đang mặc một chiếc váy pha lê trong suốt, tựa hồ được dệt từ những giọt nước sông trong vắt. Chiếc váy bay phất phơ sau gót bà như những dải bụi mờ. Bà chạy đến và ôm lấy tôi trong vòng tay nhẹ như sương khói. Khuôn mặt của bà cũng như mặt tôi bây giờ với ba sắc thái khác nhau của đêm cùng hiện diện trên đó. Bà nở một nụ cười để lộ cả hai hàm răng.
“Mẹ đã để dành nụ cười của mình cho tới khi con cần nó nhất,” bà nói bằng một chất giọng tươi vui xa lạ đối với một người vẫn luôn nói chuyện cứng nhắc và cụt lủn. “Mẹ không muốn con nghĩ rằng tình yêu là cái có sẵn và tuôn chảy một cách dồi dào từ khắp mọi nơi, hay nó là thứ mà con có thể trông đợi một cách vô điều kiện từ mọi người.”
“Thế trong lúc con sắp chết và con búp bê tìm đến với con thì sao?” Tôi hỏi bà. “Tại sao lúc đó mẹ vẫn không yêu con?”
“Ồ, nhưng lúc đó con đâu có thực sự cận kề cái chết hả con gái ngốc nghếch bé bỏng của mẹ,” bà đáp. “Đầu óc con lúc đó cũng đang rối bời như lúc này vậy. Tim con cũng đập rất nhanh và máu con thì cũng khổ sở vì viêm nhiệt như lúc này vậy. Thế nên con mới cảm thấy như là mình sắp chết nhưng thật ra không phải vậy. Điều đó không thể nào xảy ra được. Mẹ sẽ không cho phép điều đó xảy ra.”
“Con sẽ không bao giờ trở thành một người đàn bà hoàn thiện,” tôi nói, “vì thiếu vắng khuôn mặt của mẹ.”
“Mẹ con không hề ở cách xa con như con vẫn tưởng đâu,” bà âu yếm đáp. “Con như cái bóng của mẹ vậy. Con luôn trốn chạy mỗi khi mẹ tới gần con, và chỉ đi theo mẹ khi mẹ để con yên một mình. Con sẽ khỏe lại thôi, Amabelle yêu dấu của mẹ. Mẹ biết điều này sẽ thành sự thật. Làm sao con có thể nghi ngờ tình yêu mẹ dành cho con? Con là tất cả cuộc đời này với mẹ.”
Tôi không nhớ nổi rằng mình đã ngủ trong bao lâu. Nhưng lần này khi tôi tỉnh dậy, các bà sơ đang đi quanh phòng và phân phát thức ăn bao gồm cháo ngô, sốt đậu đen, và một lát quả bơ. Tôi lắc đầu từ chối, nhưng họ vẫn đặt một đĩa đồ ăn xuống cạnh tôi.
Trong lúc ăn, mọi người tụ tập lại thành nhóm ngồi nói chuyện. Lần lượt từng người một liến thoắng chia sẻ câu chuyện của mình. Sự sốt sắng trong giọng nói của họ đôi khi làm cho các câu chữ líu vào nhau, vì ai cũng thèm khát được kể chuyện hơn là được lắng nghe. Bạn có thể cảm nhận được mong muốn đó qua những lời tuyên bố tha thiết, những câu chửi tục vang lên ông ổng khi ai đó không nhớ lại những việc đã xảy ra đủ nhanh, khi một giây phút ấp úng cũng trở thành cơ hội cho một người khác chen ngang và vội vã bắt đầu câu chuyện của họ trước khi người kia kịp kể hết chuyện.
“Hôm đó là thứ Hai, ngày cuối cùng của tháng Chín,” một người đàn ông bắt đầu kể với giọng điệu của một người đang làm chứng trước một viên thẩm phán trị an. “Tôi đi ra ngoài đồng từ sáng sớm. Khi tôi trở về nhà vào buổi trưa, đám lính quân đội đã đợi sẵn trong nhà tôi rồi. Tôi đã nghe người ta đồn đại về những vụ bắt bớ xảy ra trong đêm tối và đã cẩn thận tránh la cà vào ban đêm. Nhưng đằng này lại là giữa thanh thiên bạch nhật! Bọn chúng ra vườn của tôi bắt vào mấy con gà rồi vu cho tôi tội ăn cắp. Các ông các bà không biết có bao nhiêu người đã bị bắt sau khi bị vu oan là kẻ trộm đâu.”
Một loạt người khác nhao nhao lên giành quyền được nói tiếp, cứ như thể là họ đã phải cắn lưỡi nín nhịn trong lúc người đàn ông này kể chuyện.
“Chỉ cách tôi có vài bước chân thôi,” một người đàn bà la lên, “bọn họ bị bắt trói bằng dây thừng. Don José, người đã biết tôi từ khi còn tấm bé, lao vào chém họ bằng mã tấu. Trước tiên là con trai tôi, rồi đến cha tôi, rồi đến chị gái tôi.”
Cả người tôi gai lên, như thể toàn bộ máu trong người đã bị đun sôi trên một cái nồi rồi rót ngược lại vào huyết quản. Hoặc có thể mái tôn trên đầu tôi đang tan chảy và nhỏ từng giọt xuống người tôi như một cơn mưa màu bạc.
Một người đàn ông đã ăn một phát đạn vào bụng thuật lại việc ông ta đã chạy hết nửa ngày trời mà không nhận ra là mình đã bị bắn. Ông ta nghĩ rằng một viên đạn, đặc biệt là đạn từ khẩu súng trường loại Krag, sẽ khiến ông cảm thấy đau đớn hơn thế. Cũng may mắn là ông bị trúng đạn từ một khoảng cách khá xa, ông nói. Lúc đầu nó chỉ cảm giác như vết chích của một con côn trùng, một vết ong đốt, thậm chí còn không đau bằng vết đốt có thể gây chết người của loài ong bắp cày.
Một người nữa kể rằng anh ta đã nấp đằng sau một cái cây khi một toán lính càn quét một trang trại ngựa kế bên. Quá tức tối vì không tìm thấy một người Haiti nào trốn ở đó, bọn chúng đã bắn chết hết tất cả những con ngựa.
“Tôi đã ở Santiago,” một giọng nói vang lên từ phía bên kia phòng, “khi họ giam giữ bảy trăm linh hồn xấu số vào một cái sân đằng sau hai tòa nhà hành chính. Bọn chúng bắt họ nằm úp mặt xuống nền đất đỏ và lần lượt bắn vào gáy họ từ phía sau.”
Trong cái nóng đến mụ người, trần nhà dường như tách ra làm đôi, mỗi nửa xoè đôi cánh bằng bạc bay lên bầu trời. Chỉ có điều là bầu trời không còn ở đó, mà chỉ là một hố đen giữa ban ngày chiếm chỗ mặt trời.
“Tôi đã ở đó,” đâu đó vọng lại tiếng một người đàn bà với ba vết sẹo do dây thừng cứa quanh cổ, “khi bọn chúng cưỡng ép hơn hai trăm người ở Monte Cristi phải nhảy xuống biển từ đập chắn sóng ở cầu cảng.”
Nhịp thở của tôi trở nên dồn dập hơn, như thể mọi thứ bên trong tôi đang sôi lên sùng sục mặc dù cả người tôi vẫn nằm yên. Có lẽ tôi đang lên cơn sốt, những cơn sốt vẫn đeo bám tôi từ thuở nhỏ. Nhưng nếu tôi thực sự đang sốt, liệu mu bàn tay nóng rẫy của tôi có phân biệt được nhiệt tỏa ra từ trán tôi với nhiệt bốc ra từ tay tôi không?
Người kể chuyện tiếp theo là một người thanh niên đã bị chém một nhát mã tấu lên vai rồi bỏ mặc cho chết. Khi anh ta tỉnh dậy vào ngày hôm sau, anh ta đang nằm dưới một cái hố đầy xác chết.
“Lúc đó, tôi cảm thấy giống như người đàn bà của tôi trong đêm đầu tiên chung giường vậy,” anh ta nói. “Cô ấy tỉnh giấc vào giữa đêm và bắt đầu la hét. Tôi nói với cô ấy, ‘Anh xấu xí đến mức em phải kêu la bài hãi như vậy trong đêm đầu tiên ngủ với anh hay sao?’ Cô ấy nhìn đăm đăm vào mắt tôi và thú nhận rằng đó là đêm đầu tiên cô ấy không ngủ cùng giường với mẹ mình và cô đã quên mất trong giây lát rằng mình đang ở đâu.”
Cả nhóm bắt đầu mất kiên nhẫn với anh chàng này. Anh ta mất quá nhiều thời gian lan man để đi đến phần hấp dẫn của câu chuyện.
“Tôi đã nghĩ tới cô ấy khi tôi tỉnh dậy vào buổi sáng hôm đó trong cái hố với xác người chất đống và lũ kền kền bay lượn trên đầu,” anh ta kể tiếp.
“Phải rồi, những con kền kền,” mọi người hùa theo. Bọn chúng không bao giờ biết đủ, lũ kền kền đó, luôn che phủ bầu trời như một đám mây đêm. Nếu bạn không nhanh chân, chúng sẽ tìm cách rỉa mắt bạn ra, lũ kền kền đó. Dường như chúng có khả năng đánh hơi thấy mùi chết chóc trên người bạn, lũ kền kền đó.
“Mà đâu phải chỉ riêng bọn kền kền,” ai đó thêm vào, “những con chim lành hơn cũng trở thành những loài ăn thịt người nữa. Từ chim nhạn, chích chòe, đến cả những con chim ruồi bé xíu, tất cả bọn chúng đều muốn nếm mùi vị thịt người.”
“Khi bừng tỉnh giữa vũng bầy nhầy đó, tôi bắt đầu la hét hoảng loạn,” người đàn ông nằm dưới hố thây tiếp tục kể. “Rồi tôi chợt nhớ tới người đàn bà của tôi trong đêm đầu tiên chúng tôi ăn nằm như vợ chồng, và tôi nở một nụ cười bất chấp những cái xác chết bao quanh.”
Những người ngồi quanh cũng nở nụ cười trước vẻ đẹp của một giây phút thơ ngây nhường ấy, khi một cô gái trẻ tỉnh giấc trên giường của chồng mình lần đầu tiên và quên mất cô đã đến đó bằng cách nào. Đã bao giờ cảm giác mình là một người xa lạ trên giường của người khác khiến cho chúng ta giật mình như vậy chưa?
“Vậy giờ người đàn bà của anh ở đâu?” Ai đó cất giọng hỏi. Anh ta chập hai tay vào nhau rồi nhún vai thay cho câu trả lời không biết.
“Để giết được tôi thì mất nhiều công sức lắm,” người kế tiếp khoe khoang. “Tôi như một cái cây với bộ rễ đâm sâu tới tận tâm trái đất. Chúng có thể chặt đứt cành nhánh của tôi, nhưng chúng sẽ không bao giờ làm tôi bật rễ được. Rễ của tôi bám quá chắc và chúng lan tỏa đi khắp nơi.”
“Ai đã nói câu đó vậy?” Một người hỏi. “Có phải là tướng Toussaint Louverture không?”
“Một người đàn ông tài ba,” một người khác nhận xét. “Đó là lúc dân tộc chúng ta vẫn còn được kính trọng. Khi những lãnh tụ như Dessalines, Toussaint, và Henry còn sống, chúng ta là một quốc gia quật cường. Những người đàn ông đó sẽ xông pha trận mạc để bảo vệ máu mủ đồng bào. Trái lại, ông tổng thống đương nhiệm của chúng ta không hề hé răng nói một câu trước tất cả những vụ thảm sát này. Papa Vincent của chúng ta – ngài thi sĩ của chúng ta – hoàn toàn im lặng trong lúc chúng ta, những hậu duệ của Dessalines, của Toussaint, của Henry bị giết chết. Ông ta không dám mở mồm lên tiếng bênh vực con dân đất nước ở phía bên kia con sông.”
Một người đàn bà cất tiếng hát, cầu khấn hương hồn những vị cha già đã đấu tranh cho độc lập dân tộc. Papa Dessalines, người đã để chúng con lại nơi đâu? Papa Toussaint, người đã để lại cho chúng con những gì thế này? Papa Henry, người đã bỏ mặc chúng con rồi ư?
“Tự do chỉ là thứ nhất thời mà thôi,” một người đàn ông nói. “Cuối cùng thì ai đó cũng sẽ đến và tước nó đi.”
Họ tiếp tục tranh luận về cách họ đã khôn ngoan lựa chọn đi qua những thung lũng che phủ bởi rừng rậm thay vì những con đường núi. Họ băn khoăn không biết điều gì sẽ xảy ra với những người thân đã biến mất. Một vài người đã đi theo những nhóm lớn và họ đã bỏ mặc những người sắp chết lại đằng sau. Họ hồi tưởng lại và tái sắp xếp các sự kiện, đưa ra một ý kiến bên lề hay một quan điểm khác. Liệu họ đã có thể làm gì khác đi? Điều gì đã xảy ra với tín điều của đất nước chúng ta, “L’union fait la force”? (1) Tinh thần đoàn kết của chúng ta ở đâu? Sức mạnh của chúng ta ở đâu? Và làm sao chúng ta có thể không căm ghét bản thân mình vì đã bỏ mặc những người đồng hương ở lại?
(1) Tiếng Pháp: Đoàn kết là sức mạnh.
Đồng thời, họ cũng mơ về bữa cơm đầu tiên mà mẹ và chị họ sẽ nấu cho họ, những người mà họ chưa được gặp lại trong nhiều năm. Họ suy nghĩ chi li từng bước một về cách những trận domino và những buổi chọi gà đầu tiên với cha họ và những người hàng xóm sẽ diễn ra như thế nào, những cái ôm thắm thiết đầu tiên mà họ sẽ dành cho người yêu và con cái họ.
“Tất cả những chuyện này khiến cho chúng ta nhận ra rằng thịt da của mình cũng chỉ như vạn vật khác,” người đàn ông đã bị ném xuống cái hố đầy xác chết kết luận. “Nó không khác gì so với hoa quả, hay bất cứ thứ gì có thể thối rữa được. Nó không diệu kỳ, cũng chẳng linh thiêng. Nó có thể teo tóp lại, cháy rụi đi, và tan chảy trong lửa như hổ phách. Da thịt chúng ta chẳng là gì cả. Chúng ta chẳng là gì cả.”
Người đàn bà với những vết sẹo dây thừng trên cổ hỏi xin đĩa thức ăn của tôi. Tôi gật đầu rồi lại quay về với giấc ngủ.
Khi tôi tỉnh dậy lần nữa, bà sơ với khuôn hàm vuông đang đập tay lên miếng băng gạc che vết thương ngứa ngáy trên trán tôi.
“Cô có biết mình đã ngủ bao lâu rồi không?” Bà ta hỏi. Tôi lắc đầu không biết.
“Ba ngày,” bà nói. “Cô đã ngủ li bì suốt ba ngày ba đêm. Trông cô không tệ như những người khác, nhưng cô lên cơn sốt cao đến mức tôi sợ rằng cô sẽ chết chứ.”
Tôi cố gắng mở miệng cười để cho bà ấy thấy là tôi vẫn còn sống đây, rằng tôi chưa muốn chết đâu. Odette và Wilner đã chết thay cho tôi rồi.
“Cô có nhà để về không?” Bà hỏi tiếp. Tôi lắc đầu không.
“Cô có nói được không?” Bà hỏi. Không.
Bà ra hiệu cho tôi mở miệng ra. Tôi cảm thấy mặt mình như muốn đứt ra làm đôi trong khi há miệng.
“Thế còn anh chàng đã đến thăm, tắm rửa, và thay quần áo cho cô trong lúc cô vật vã qua giai đoạn nguy kịch nhất của cơn sốt thì sao?”
“Ai cơ?” Tôi nhướng lông mày lên ý hỏi.
“Hẳn đó phải là một người mà cô quen biết.”
Tôi cảm giác các mạch máu trên cổ đang hằn lên phập phồng. Cổ họng tôi hít vào những bong bóng khí lớn. Tên anh ấy là Sebastien Onius.
“Anh ta nói tên anh ta là Yves,” bà nhớ lại.
Yves đến gặp tôi khoảng vài ngày sau đó. Tôi muốn cảm ơn anh đã chăm sóc tôi trong lúc tôi ốm sốt. Nhưng tôi có thể cảm ơn anh như thế nào?
Trông anh giờ đã ổn hơn trước, ngoại trừ việc anh vẫn còn những miếng băng gạc dán thành những hình kỳ lạ ở khắp mọi chỗ trên đầu. Anh giải thích khi thấy tôi quan sát đầu tóc lởm chởm của anh, “Tôi vẫn chưa được phép cạo đầu.”
Tôi muốn nói với anh rằng trông anh đã khá hơn rồi. Anh không cần phải cạo đầu làm gì cả. Những vết thương của anh có vẻ cũng đang lành lại.
“Tôi thường nằm ngủ bên ngoài dưới ánh trăng,” anh nói. “Ngủ như thế dễ chịu hơn, trừ những lúc mưa.”
Tốt quá. Tốt quá. Tôi gật đầu.
“Tôi đã tìm Mimi và Sebastien ở khắp mọi nơi có thể.” Tôi có thể cảm nhận từ gương mặt đang chùng xuống của anh rằng có vẻ tôi đang hy vọng quá nhiều. “Các cha xứ và giám mục đang tìm cách hỏi thăm tên tuổi của những người khác. Tôi đã hỏi họ về Sebastien và Mimi.”
Và sau đó thì sao? Tôi nhướng vai lên để hỏi. “Không có tin tức gì cả,” anh trả lời. “Chẳng ai biết gì về họ. Có thể họ đã đi qua một cửa khẩu biên giới khác. Có thể họ có đủ sức lực để đi về nhà mẹ của họ.”
Bất chấp mong muốn của mình, tôi cảm thấy bản thân đang chìm dần trở lại vào giấc ngủ. Hoặc là tôi khóc hoặc là tôi ngủ. Đó là tất cả những gì mà cơ thể tôi có thể làm được vào lúc này.
Những lần thăm nom của Yves như một câu chuyện trải dài ra trong nhiều ngày. Có những ngày tôi nhớ mình đã nói những gì, những ngày khác thì không.
“Tôi sẽ quay trở về nhà vào sáng mai,” anh thông báo trong một lần tới thăm tôi. Một vài chỏm tóc đã mọc xung quanh chỗ anh dán băng gạc. Vết thương của anh đã nhỏ đi nhiều. “Hãy gật đầu nếu cô muốn đi cùng với tôi.”
Tôi cố gắng nói có, rằng tôi sẽ đi với anh. Tôi sẽ đi với anh tới nhà anh cho dù nó ở đâu, để cố quên đi tất cả những chuyện đã diễn ra trên cuộc hành trình, và để chờ đợi Mimi và Sebastien quay trở về.
“Vậy thì tốt,” anh đáp. “Cô hãy ngủ ở đây nốt đêm nay, rồi mai tôi sẽ tới đón cô.”
Trời mưa cả đêm hôm đó. Đa số những người đang ngủ ở ngoài trời đều chạy hết cả vào trong. Cánh cửa chớp phía trên chỗ tôi nằm bị bật ra làm nước hắt liên tục vào trong phòng. Cuối cùng, ai đó đã đứng dậy và đóng cửa lại, nhưng lúc đó thì người tôi đã ướt nhẹp rồi.
Yves lại gần chỗ tôi và ngồi xuống trong bóng tối, lưng anh dựa vào một cây cột gỗ ở gần đó.
“Tôi sẽ đưa cô đến nhà của Sebastien,” anh nói, “nơi cô có thể ngồi với anh ấy, Mimi, và mẹ của họ để hàn huyên về tất cả những chuyện đã xảy ra như một cơn ác mộng.”
“Chúng ta đã ở đây được bao lâu rồi?” Cổ họng tôi như muốn đứt toạc ra trong lúc cố gắng để nói.
“Sáu ngày rồi,” anh đáp.
“Tôi đã làm gì trong lúc tôi bị sốt?” Tôi hỏi.
“Cô ngủ rồi lại thức, cứ thế lặp đi lặp lại,” anh nói. “Nhưng phần lớn thời gian cô chỉ ngủ thôi.”
“Và anh đã chăm sóc cho tôi trong suốt thời gian đó?” Anh gật đầu.
“Sau trận mưa này, nước sông sẽ dâng lên,” tôi nói tiếp. “Nếu Mimi và Sebastien tìm cách vượt sông lúc này sẽ không tốt chút nào.” “Họ nói rằng cuộc thảm sát đã dừng lại rồi,” anh nói.
“Tôi luôn có một giấc mơ thường trực,” tôi nói, “về cha mẹ tôi trong cơn nước xoáy, dưới trời mưa như thế này.”
“Sebastien đã kể với tôi nhiều lần về giấc mơ đó,” anh nói.
Ai đó hét váng lên từ phía bên kia căn phòng. Đó là người đàn ông đã thức dậy trong cái hố toàn xác người. Anh ta nói rằng anh đã nghe thấy tiếng người đàn bà của mình gọi từ phía con sông và anh muốn đi cứu cô ấy.
Trong khi Yves và một vài người đàn ông khác giữ chặt anh ta lại, các bà sơ đã thức giấc và ép anh ta nuốt vài thìa si-rô. Liều thuốc đó, kèm theo nỗi sầu đau của anh ta, giúp người đàn ông cuộn lại như một đứa trẻ, tự mút tay và ngủ say suốt đêm.
Sáng hôm sau, Yves đi cùng với các cha xứ, bác sĩ, và những người khác có nhiệm vụ đi thu nhặt các xác chết bên bờ sông. Công việc tiêu tốn hết cả buổi sáng của họ, mặc dù các bà sơ bảo với chúng tôi rằng việc giết người đã dừng lại và họ không tìm thấy cái xác nào để chôn nữa.
Căn phòng bây giờ đã quá tải với tất cả mọi người chen chúc bên trong để tránh đám bùn nhão bên ngoài.
Tôi nhìn lên mái tôn nhựa và tìm kiếm khuôn mặt mình phản chiếu trên trần nhà trong lúc đợi Yves quay trở về. Vì tất cả mọi người đều đang nằm ngửa sát sạt bên nhau, tôi không thể nhận ra được khuôn mặt nào là của mình.
Người đàn ông bị rơi vào cái hố xác người nằm trên chiếu của mình cả buổi sáng, lầm bầm tên người đàn bà của anh. Nounoune, Nounoune. Nằm bên cạnh anh ta là một người đàn ông Dominicana, người chỉ có thể an ủi anh bằng tiếng Tây Ban Nha.
“Calmate, hombre,” (1) người đàn ông Dominicana lầm bầm nói. Anh ta có nước da đen như bà sơ đến thay băng cho anh vậy. Anh ta đã bị tưởng nhầm là một người trong số chúng tôi và đã lãnh một nhát mã tấu vào sau gáy vì điều đó.
(1) Tiếng Tây Ban Nha: Bình tĩnh lại đi, anh bạn.
Tôi được kể lại rằng có rất nhiều người trong phòng đã rơi vào hoàn cảnh tương tự như anh ta.