← Quay lại trang sách

Nhóm Lửa

Nghe tiếng động ở phía cửa, bà Cụ Năm ngừng tay cạp cái vành bằng tre cật ở trên miệng cái thếng đang đan giở, và ngoảnh mặt ra phía ngoài. Trong khoảnh khắc, do linh cảm bén nhậy của một người mù, bà Cụ nhận ra ngay tiếng động ấy chỉ là một luồng gió lùa qua cái phên nứa xộc xệch, nơi cánh cửa ra vào.

Bàn tay nhăn nheo của bà lại rờ rẫm trên những mảnh tre đan với ‎ ‎ý định tiếp nối công việc, nhưng cảm giác nôn nao từ sáng đã trở lại hầu như còn làm cho bà Cụ choáng váng thêm. Bà buông cái thếng xuống và ngả hẳn lưng vào phía vách để thở được một hơi dài. Đầu của bà nóng rực. Chẳng cần nhìn thấy mọi vật chung quanh, bà cũng có cảm giác của một người nằm trong một khoang thuyền kín bưng trong khi con thuyền bị quay vòng trên một cái xoáy nước. Rồi bà thấy mồ hôi rịn ra ở lưng áo, thứ mồ hôi lạnh toát nó khiến cho bà chợt nổi lên những gai ốc và rùng mình luôn mấy lần liên tiếp.

Bà biết rằng nếu không cố gắng chống trả cái cơn giao động này thì mình sẽ sụm xuống, sẽ ốm to mà điều này sẽ không thể chấp nhận được trong hoàn cảnh thiếu thốn này. Bà gắng gượng quờ tay vịn lên tấm vách để đứng dậy. Bà tự nghĩ nếu chẳng còn gì để nấu cái ăn thì ít nhất cũng phải có một hớp nước nóng. Nước nóng sẽ dằn cái cơn cồn cào quái ác này xuống và chắc chắn nó sẽ làm cho bà cảm thấy ấm áp, dễ chịu hơn. Bà lần mò đi về phía cuối buồng, nơi để một cái bếp lò và mấy cọng củi khô. Cái bếp lò từ hai hôm nay chưa được nhóm lửa lên. Hôm kia thằng Danh mang về cho bà hai củ khoai và một vài cọng sắn. Bà chỉ có ngần đó trong hai ngày nên cũng chả thấy cần phải nhóm bếp.

Tội nghiệp thằng Danh. Bà cũng không hiểu thằng cháu nội của bà hai hôm nay, nó đã được ăn gì. Đang lan man nghĩ tới nó thì lại có tiếng động ở cửa. Lần này thì không phải là cơn gió thổi qua vách nứa tuênh toang nữa mà thực sự là tiếng chân người. Mặt bà cụ lại nghếch ra phía cửa. Nghe tiếng cười quen thuộc, bà nhận ngay ra người mới tới là thím Hương, người nữ bí thư trong Ban Chấp Hành Hợp tác Xã.

Thím Hương: Bà Năm đang làm gì đấy?

Bà Năm: Thím Hư­ơng đấy hả? Có công chuyện gì không, hay chỉ ghé qua chơi.

Thím Hương: Có chớ! Có chớ! Con đem lại tin vui cho dì Năm đây nè.

Bà Năm (ngạc nhiên). Ủa! Tin gì mà vui vậy cà?

Thím Hương: Dì Năm sắp nổi tiếng rồi. Kỳ thi đua bình bầu Con Người Mới Xã Hội Chủ Nghĩa năm nay, dì đứng nhứt Quận nhà, còn không vui thì tin gì mới vui nữa.

Bà Năm: Trời đất ơi! Tui làm cái gì mà đứng nhứt với đứng nhì. Mà bầu ở đâu, ai bầu. Chèn ơi, ai làm cái gì ở đâu, tôi đâu có biết.

Thím Hương: Thì thế mới là khách quan, mới công bằng. Chớ chưa bầu bán đã gán ghép tùm lum toét loét thì đâu còn là tác phong của con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa nữa. Thôi nè, dì ngồi xuống đây con đọc cho dì nghe bản tin vừa gửi từ Quận xuống tức thời sáng nay. Con nhận được là tức tốc ghé dì ngay để cho dì biết tin, dì mừng.

Hai người ngồi xuống tấm chiếu rách trải ở một góc buồng. Bà Cụ Năm chọn ngay chỗ có thể dựa lưng vào bức vách. Mặc dù trong lòng đầy nôn nóng, bà cũng không quên được cái cảm giác đang làm bà chòng chành. Còn thím Hương thì sốt sắng mở cái túi vải lấy ra một xấp giấy in bằng chữ ronéo mà thím vừa kêu bằng “bản tin gửi từ Quận xuống”. Rồi thím cất giọng đọc.

Thím Hương (đọc): Năm nay, cuộc thi đua bình bầu Con Người Mới Xã Hội Chủ Nghĩa ở quận nhà đã diễn ra hết sức sôi nổi. Có tất cả năm ứng viên được các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp, các Hợp tác xã, các đoàn thể hiệp hội đề cử bầu vòng chung kết. Cuối cùng, cả Quận nhất trí bình bầu bà Nguyễn thị Năm, bí danh Năm Trầu là cá nhân xuất sắc nhất, tác phong gương mẫu nhất, có nhiệt tình cách mạng nhất, động cơ phục vụ đúng đắn nhất, thể hiện đúng tâm tư, tình cảm của con người mới Xã Hội Chủ nghĩa.

Dì Năm (kêu lên): Trời đất ơi! Các Ông ấy bầy trò ra ở đâu, chớ tui làm cái gì mà toàn là những nhất mới nhất… Mấy năm nay tôi mù giở, ai cũng biết mà…

Thím Hương: Thì dì cứ để yên cho con đọc nốt. Đây nè. Trong bản tin, họ ghi lại cả quá trình hoạt động cách mạng của dì nữa nè (đọc) Bà Nguyễn thị Năm, trong những năm dài chiến đấu gay go với Mỹ xâm lược, đã là một thành viên cốt cán của lực lượng cách mạng, là mẹ nuôi chiến sĩ, là trạm giao liên cất giấu, chuyển vận, thông tin liên lạc rất nhiều tài liệu, vũ khí và có che giấu nhiều các đồng chí cán bộ cách mạng trên đường công tác. Từ ngày đất nước hoàn toàn độc lập, quê hương hoàn toàn giải phóng, bà Nguyễn thị Năm vẫn không ngừng phấn đấu trong mọi lãnh vực công tác, luôn luôn tiến công chống lại mọi hành động sai trái, luôn luôn cổ vũ, thúc đẩy, bà con trong chòm xóm, trong các cơ quan, đoàn thể để động viên mọi người ra sức nỗ lực xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa trên đường sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Dì Năm (kêu lên): Chúng nó nói láo! Tôi đâu có làm những chuyện đó.

Thím Hương: Dì làm nhưng dì đâu có biết. Những tâm tư tình cảm một khi nhuần nhuyễn trong một con người thì đã trở thành một thói quen bình thường, chỉ có những kẻ khách quan mới nhận biết, mới đánh giá được. Trường hợp của dì thì chỉ có Đoàn thể thấy, nhà nước thấy, Đảng thấy. Thế cho nên mới dành cho dì cái vinh dự ngày hôm nay. Mà chưa hết đâu dì à. Nghe đồng chí bí thư Quận ủy nói, sẽ còn có cán bộ báo chí ở cấp thành xuống tìm hiểu để viết bài cổ vũ và đưa dì lên diện điển hình nữa (cười khúc khích). Thế con mới nói là dì sắp nổi tiếng. Khi nào nổi tiếng rồi, dì đừng có quên con nghe dì.

Nói xong, thím Hương đứng dậy, cáo từ, nhanh nhẩu đi ra như thím đã nhanh nhẩu tìm đến báo tin cho bà Cụ. Bà Năm vì được thông báo một tin quá bất ngờ nên cũng chưa hết ngẩn ngơ.

Bà quên cả điều mình vẫn rắp tâm định gặp thím Hương để hỏi, đó là vấn đề đề nghị Hợp tác xã trả thêm cho mỗi công đan một cái thúng năm mươi xu. Năm mươi xu ở thời buổi này chả đáng là bao, nhưng ít ra trong hoàn cảnh của bà, cũng thêm được củ khoai buổi sáng đọt mì buổi chiều. Chứ nếu không thì đói. Cái đói, bà có thể nhẫn nhục được nhưng thằng Danh sức con trai đang lớn, để nó đói tội nghiệp. Tuy không nhìn thấy nó, nhưng bà chỉ cầm cái cánh tay gầy guộc của nó lên là cũng đủ biết mặt nó rất vêu vao.

Mấy năm đầu sau khi bố nó hy sinh, mẹ nó bỏ đi lấy chồng và đôi mắt của bà còn thấy rõ đường đi nước bước, thì nhà còn có đồng ra đồng vào, nhờ khả năng chạy vạy của bà. Từ khi cái màng kèo mờ con mắt, bà không ra ngoài được, thằng Danh cũng lâm vào tình trạng đói kinh niên. Cả hai bà cháu, ngoài năm đồng bạc là tiền trợ cấp cho gia đình liệt sĩ cộng với lâu lâu có đôi chút nhu yếu phẩm cũng chẳng nhằm nhò gì. Mọi sự trông vào khả năng xoay xở của thằng Danh. Nó làm gì, bà Năm cũng chẳng biết, nhưng nó cũng đem về được khi thì khoai, lúc thì mì. Thỉnh thoảng cũng có một dúm gạo nấu cháo.

Từ ngày bầy ra chuyện đan rổ, rá, thúng, bà Năm cũng kiếm thêm được đôi ba đồng bạc, ấy vậy mà cả hai bà cháu chưa bao giờ được ăn no. Điều này thật mâu thuẫn với luận điệu của các cán bộ, đoàn viên vẫn thường ra rả nói trong tất cả các buổi họp:

“Đất nước vừa chấm dứt chiến tranh, chủ trương của Đảng và nhà nước là hãy lo cho toàn dân được ăn no, mặc ấm. Mai mốt xây dựng xong Chủ Nghĩa Xã Hội, lúc đó mới tha hồ ăn ngon, mặc đẹp “

Đã có lần, bà Năm đã chép miệng nói một mình: “Cái đó thì cũng đúng thôi, nhưng bao giờ thì dân nghèo mới được ăn no đây”.

Hỏi thì hỏi vậy, bà cũng thấy rõ chẳng ai có thể trả lời. Ước mơ hồi trước, khi còn tích cực tham gia vào các công tác cách mạng, bà những mong quê hương rồi sẽ thanh bình, mọi người sẽ sống trong hòa bình, no ấm, hạnh phúc. Tất cả những điều đó nay đã nhạt nhòa như một kỷ niệm cứ ngày một lùi sâu vào dĩ vãng. Sau hai lần kế hoạch 5 năm với đầy đủ lời hứa hẹn, bây giờ lòng của bà không còn thấy xao động gì nữa về tất cả những ngôn từ.

Mọi ước mơ, mọi ý nghĩ, mọi tư tưởng thầm kín bây giờ chỉ gói trọn trong có hai chữ vỏn vẹn là “ăn no”. Đấy là lý do, khi được thông báo mình được bình bầu cá nhân xuất sắc nhất, bà không thấy xao động gì nhiều so với cái điều đã quên nhắc nhở thím Hương để xin thêm năm mư­ơi xu cho mỗi công đan một cái thúng.

Điều quên nhắc nhở này đã khiến bà bứt rứt hơn nhiều. Gặp được thím Hương trong tình trạng vui vẻ, dễ dãi, ồn ào như lúc nãy không phải là chuyện dễ dàng. Cơn bứt rứt ấy cứ ám ảnh bà Năm cho mãi đến xế trưa thì thằng Danh chạy ồn ào từ ngoài ngõ bổ vào.

Danh: Nội ơi! Nội ơi! Có khách.

Bà Năm giật mình ngẩng lên. Trong khoảng đục lờ mờ trước mắt, bà thấy thằng Danh hiện ra như một khoảng đen nhờ nhờ.

Bà Năm: Ai thế?

Danh: Chú Định! Chú Định ở trên tỉnh về!

Bà Năm còn chưa kịp hỏi cho rõ xem Chú Định là ai thì một giọng nói quen thuộc đã oang oang vang lại từ thềm cửa.

Định: Má! Má còn nhớ con không? Con là Định đây nè!

À ra cậu Định! Cái giọng ròn rã, ấm áp ấy làm sao bà Năm có thể quên được, dù đã hơn mười năm nay bà chưa hề gặp lại. Hồi còn chiến tranh, Định là cán bộ văn tuyên của Cục R. Trên đường công tác, Định ghé qua nhà bà Năm gần như thường xuyên. Định gọi bà Năm là má, như nhiều cán bộ khác vẫn gọi bà là mẹ nuôi chiến sĩ. Dù hồi đó vẫn là nghèo, nhưng chẳng bao giờ một ai đã ghé qua lại không được bà Năm san sẻ cho đồ ăn hay vật dụng. Có khi là tấm áo, có khi là bọc đường, cũng có khi là vắt cơm hay vài đòn bánh tét. Ngoài những thứ ấy ra, bà còn trao cho họ những câu nói ấm lòng:

– Các con cố gắng hoàn thành công tác, mai mốt quê hương độc lập, thanh bình, mọi người sống ấm no, hạnh phúc là mẹ vui rồi.

Định là một trong số những người đã được nghe bà thổ lộ ước mơ ấy của bà. Hơn thế nữa, Định còn có quá nhiều kỷ niệm đặc biệt ở đây. Những hôm sốt vùi được bà Năm canh thức bên nồi cháo sôi sùng sục. Những đêm nằm run rẩy dưới lòng hầm tối trong khi ở trên đang có cuộc tảo thanh, càn quét. Có lần, Định vắt giò lên cổ mà chạy không kịp ở lại để thưởng thức nồi canh cua mà bà Năm còn đang nấu giở trên bếp. Những kỷ niệm ấy dồn dập trở về làm bà Năm xúc động ôm chầm lấy Định mà nghẹn ngào. Lòng Định cũng rưng rưng.

Bà Năm: Trời ơi! Sau ngày giải phóng, mười năm rồi không thấy con trở lại, má tưởng con đã hy sinh rồi chớ!

Định (bẽn lẽn): Không đâu má! Chẳng qua là con bận công tác lu bù, cứ định trở về thăm má một lần mà thu xếp mãi không được.

Bà Năm: Vậy lần này con định ở chơi bao lâu?

Định: Cũng không được lâu đâu má. Chủ yếu lần này con về là vì vụ đưa má lên điển hình. Trời ơi! Nghe tin má được bình bầu xuất sắc con mừng hết sức và nhất định xin lãnh công tác làm phóng sự viết về má, vì có ai ở trong cơ quan biết má bằng con.

Bà Năm: À, vậy ra con công tác về báo chí đấy phải không.

Định: Dạ phải. Con không viết gì nhiều. Chỉ làm công tác thông tin vậy thôi.

Bà Năm (reo lên). Thế thì theo má ra đây. Má còn giữ của con cái này.

Bà Năm kéo Định đi về phía cửa sau. Định ngạc nhiên định hỏi, nhưng rồi chỉ lẳng lặng quàng một tay ra sau lưng còm cõi, một tay kia nắm chặt lấy cánh tay khẳng khiu của bà để dìu đi. Mới hơn mười năm, sự thay đổi toàn diện của bà Năm làm lòng Định thắt lại. Anh không ngờ bà chóng già và gầy yếu đến mức độ như vậy. Nhất là đôi mắt. Sau hơn mười năm, chúng đã kéo kín màng, đưa đến tình trạng khiến bà không khác một kẻ mù lòa. Định biết rõ căn bệnh này, nếu được giải phẫu đến nơi đến chốn thì không có gì trở ngại cả. Nhưng vấn đề là ở chỗ lấy tiêu chuẩn nào để đem bà cụ đi giải phẫu đây? Đem một bệnh nhân ra chữa chạy ở nước ngoài, không phải là chuyện dễ. Còn ở trong nước thì tình trạng thuốc men, bệnh viện, chuyên viên phẫu thuật như thế nào Định đã biết rõ. Lạng quạng có thế sẽ biến thành mù luôn. Nhưng điều làm Định xúc động hơn cả là đời sống khốn khổ hiện nay của bà Năm. Chỉ ít phút gặp thằng Danh trên đường từ phố chợ trở về nhà, là Định đã tìm hiểu và hình dung được tất cả những cơn đói khổ mà gia đình bà Năm đã phải chịu đựng. Nghèo khó là chuyện chung, chuyện đương nhiên nhưng đến độ củ khoai cũng không đủ để no lòng thì quả là chuyện Định không thể ngờ tới.

Điều này khiến Định nghi ngờ toàn bộ những gì mà người ta đã dựng lên quanh huyền thoại “bà mẹ nuôi chiến sĩ trong thời kỳ chiến tranh nay vẫn tiếp tục trở thành cá nhân xuất sắc nhất trong cuộc thi đua bình bầu con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa.”

Láo khoét! Tất cả là láo khoét!

Ý nghĩ ấy trước chỉ lẩn quất trong đầu của Định sau rồi đã trở thành những điều nhớm gớm, đáng ghê tởm khi Định nắm cánh tay khẳng khiu của bà, ôm ngang vòng lưng còng ốm yếu của bà và thực sự cảm nhận thấy cơn run rẩy yếu ớt của bà trên từng bước đi dò dẫm, chậm chạp.

Rồi chợt Định kêu lên:

– Má đói lắm phải không?

Bà Năm đang dò dẫm bước chợt khựng lại. Câu hỏi bất ngờ của Định làm bà chợt ùa lên một niềm tức tủi. Cơn tức tủi dồn nén, chất chứa từ bao nhiêu năm, không có người thân để giãi bầy, để chia xẻ nay bỗng trào lên, nó khiến cho bà không làm chủ được chính mình và khiến cho mọi sự gắng gượng của bà sụm xuống.

Bà đứng dừng lại, ôm chặt lấy cánh tay của Định rồi bỗng bật lên một tiếng nức nở. Định chua xót ghì chặt lấy mái tóc đã ngả mầu bạc phơ vào ngực của mình, lòng nghẹn ngào không cất lên được thành tiếng. Còn đâu là những kỷ niệm, những tâm tình, những giây phút hào hùng của cả hai người quyết tâm cùng lăn xả vào cuộc đấu tranh với muôn ngàn hình ảnh rực rỡ hướng về tư­ơng lai. Nào đất nước độc lập. Nào quê hương thanh bình. Nào mọi người ấm no, hạnh phúc.

Hơn ai hết, là người đã từng chứng kiến mọi diễn biến, mọi đổi thay trên quê hương từ ngày im tiếng súng, Định đã thấy rõ sự suy tàn của xã hội, của từng gia đình, của từng con người. Những ngày theo đuổi công tác cách mạng, Định đâu có nghĩ rằng sự hy sinh xương máu của cả một thế hệ như chàng đâu chỉ cốt thực hiện một xã hội tồi tệ và khốn cùng như xã hội đang dẫy dụa, thoi thóp hiện nay.

Chàng đã bị phản bội.

Tất cả những người nằm xuống đã bị phản bội.

Những bà mẹ nuôi, những thanh niên, thiếu nữ, những đoàn viên, những hội viên, những chiến sĩ và những người dân lành đều đã bị phản bội.

Điều nhận xét đó chưa bao giờ hiện ra một cách rõ nét và quyết liệt như giây phút này, lúc mà Định cảm nhận những giọt nước mắt nóng hổi của bà Năm thấm qua làn áo sơ mi mỏng vào tới tận da thịt của chàng.

Một lát sau, bà Năm đã dẫn Định tới sát bên lớp hàng rào. Bà quờ quạng về phía trước cho tới khi lần mò được tới một tảng đá.

Bà Năm: Con lật giùm má lên đi.

Định: Cái gì thế má?

Bà Năm: Con không nhớ gì hết sao? Lật lên sẽ biết.

Định làm theo lời chỉ của bà. Sau cùng chàng moi lên ở dưới đáy hố một bọc mo cau. Định rùng mình, kêu lên một tiếng thảng thốt:

“A? Tập bản thảo!”

Bây giờ thì Định nhớ lại đến từng chi tiết câu chuyện xẩy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày đó, ngoài lý tưởng đấu tranh cho một xã hội công bằng, hạnh phúc, Định còn mơ ước trở thành một nhà văn. Đời sống sôi động đem lại cho Định nhiều kinh nghiệm sống. Chàng đã gặp gỡ nhiều mẫu người, đã kinh qua nhiều hoàn cảnh, đã nghe kể nhiều tâm sự. Tất cả tuy khác nhau về những điểm cá biệt nhưng đã chung nhau chia sẻ một ước mơ, một khát vọng, cao hơn thế nữa một lý tưởng xây dựng một quê hương chan hòa tình người. Những điều đó đem lại cho Định rất nhiều chất liệu để xây dựng tác phẩm. Trước, chàng còn viết tùy bút, đoản văn, phóng sự. Sau dần dần chàng nẩy sinh ý nghĩ viết một tác phẩm dài thật dài, khởi đi từ ước mơ của những con người mong mỏi một đời sống an lành, giản dị rồi bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh cho đến khi nào quê hương im tiếng súng, thanh bình trở về trên đất nước.

Định viết liên miên không ngơi nghỉ trong những giờ giấc rảnh rang mà chàng tranh thủ được trên đường công tác. Bản thảo gom lại chiếm một khoảng lớn trong ba lô của chàng, kể cả một mớ tài liệu học tập, những hồ sơ công tác, những bằng khen, những giấy tuyên dương. Cuối cùng, khi chiến tranh đến hồi khốc liệt, mọi sự di chuyển, trú đóng không còn nơi nào gọi là an toàn thì Định gom tất cả lại giao cho má Năm với lời dặn dò:

– Xin má cất giấu giùm con. Đây là một phần tim óc và ước mơ của con. Ước mơ xây dựng một quê hương thanh bình, có tiếng máy cầy ở ngoài đồng, có tiếng cười của trẻ thơ trên bồn cỏ, tiếng võng đưa ở sau nhà và có cả tiếng ru cháu của những con người hiền hòa như má.

Bà Năm tuy không hiểu gì, nhưng nghe giọng trinh trọng, say mê của Định, bà cũng biết những xấp giấy ấy hẳn có một giá trị tinh thần hết sức quan trọng, chẳng những cho riêng Định mà cho toàn thể mọi người, cho quê hương, cho tổ quốc.

Bởi ước mơ của Định cũng là ước mơ của bà. Còn gì vui tai hơn là nghe tiếng trẻ thơ đùa rỡn trên bồn cỏ. Còn gì tin yêu hơn khi trên cánh đồng hòa bình có tiếng rầm rì của động cơ những chiếc cầy máy, dấu hiệu của tiến bộ, của ấm no, của thanh bình, của hạnh phúc. Khi đó, bà sẽ được ngơi nghỉ, để chỉ đu võng và cất lên tiếng hát ru bầy cháu nhỏ đi vào những giấc mơ chan chứa niềm hy vọng rực sáng của tương lai.

Bà đã gói ghém cẩn thận những trang giấy quí giá ấy của Định bằng nhiều lớp mo cau rồi đem chôn giấu ở ngoài hàng rào. Bà coi nó quí giá hơn bất cứ tài sản nào mà bà đã có. Bởi nó là ước mơ của Định, của bà, của nhiều con người đã từng đi qua căn nhà nghèo khó của bà. Có người hiện vẫn sống. Có người đã hy sinh. Có người hoàn toàn bặt tin không rõ đời sống đã thay đổi thế nào. Bà gìn giữ nó như gìn giữ niềm mơ ước của tất cả mọi người. Mười năm trôi qua, bây giờ là lúc bà có thể hoàn lại cho chính chủ nhân của nó. Bà nhìn Định cười rạng rỡ:

– Bây giờ má trả lại cho con. Tuy má chả hiểu gì, nhưng giữ nó má lo nơm nớp. Còn hơn là lo sinh mạng của má nữa.

Định đón lấy bó mo cau với hai bàn tay bủn rủn của mình. Chàng xúc động cùng cực không phải vì được nhìn lại tập bản thảo cũ kỹ đã hơn mười năm của mình, nhưng chính vì tấm lòng chân thành, tin cậy sáng vằng vặc của bà mẹ nuôi. Định tự nhủ, mẹ chính là mẹ Việt Nam. Mẹ đã hy sinh hết thẩy để chỉ mong mỏi có một điều ước mơ giản dị: quê hương thanh bình, mọi người sống giản dị, hiền hòa trong yêu thương. Uớc mơ ấy, tuy đã gói ghém trong toàn bộ bản thảo của chàng, nhưng thực tế đã vạch rõ đấy chỉ toàn là những điều dối trá.

Sự dối trá làm Định vừa xấu hổ với bà, vừa nhờm gớm ngay cả chính mình. Con đường chàng đã đi, rõ ràng là chưa hoàn tất. Không thể hoàn tất được khi mà trên cánh đồng hòa bình vẫn còn có những kẻ kéo cầy thay trâu trong khi một thiểu số đang phè phỡn hưởng thụ với những tiện nghi xa hoa, phung phí nhất. Không thể hoàn tất được khi mà trên bồn cỏ vắng tiếng cười trẻ thơ bởi vì chúng còn đang lang thang vất vưởng ở những hè đường, những xó chợ, những bãi rác để đào bới những thứ đã phế thải đến độ chẳng còn gì đáng giá để lượm ra. Và càng không thể hoàn tất được khi mà những người như má Năm đau không có thuốc uống, đói không có lấy một củ khoai. Sự hy sinh đóng góp gần cả một đời người của má, đổi lại chỉ có được một tờ giấy khen và một bài tường thuật điển hình xây dựng bằng những sự kiện dối trá.

Thốt nhiên Định nắm lấy tay bà Năm, lòng giào giạt xúc động. Cơn xúc động giống như ngày nào chàng vừa được bà kéo ở dưới hầm lên và nói lời từ biệt.

Định: Thưa má, con có đem theo một ít gạo. Để chính tay con thổi một nồi cơm mời má ăn.

Bà Năm (tần ngần): Gạo thổi cơm hả? Sao mà sang thế?

Định buồn tủi dìu bà trở lại căn buồng trống trải, tuênh toang. Đồ đạc bốn phía hầu như chẳng có gì ngoài một manh chiếu rách, một cái bể lò và những cái thúng đan giở với những mảnh tre, lạt ngổn ngang. Trên bốn bức vách, một vài khẩu hiệu, vài tấm giấy khen, vài khuôn hình cũ kỹ, tất cả đều đã bị màng nhện và bụi bậm phủ mờ.

Những điều trông thấy khiến cho Định cỏ cảm giác ở đây không có hiện tại mà chỉ có dĩ vãng. Điều đó cũng dễ hiểu bởi hiện tại không hiện diện trong đôi mắt một người mù, và lại càng không thể có đối với một thằng bé chỉ lang thang tối ngày nơi đầu đường xó chợ. Những ý nghĩ ấy làm cho đôi mắt của Định trở nên cay sè.

Bây giờ thì hai người đã người đối diện trước bếp lò. Cái bếp lạnh tanh, không có dấu vết của sự đun nấu thường xuyên. Nồi cơm đất đã được bắc lên. Bên trong đầy nhóc những nước và hơn một kí gạo.

Bà Năm: Để má nhóm bếp cho. Bếp ít tàn tro, khó nhóm.

Định: Má cứ ngồi yên đi. Hồi xưa con vẫn nhóm bếp dưới mưa rừng, má không nhớ sao?

Mặt bà Năm hơi rạng lên khi nghe Định nói đến chuyện cũ. Âm thanh, hình ảnh, kỷ niệm tưởng đã vùi sâu trong ký ức bỗng nhiên xao động trở lại khiến lòng bà náo nức.

Có tiếng Định vừa bật lên một que diêm. Bà vội nhắc Định rằng hãy lấy bó đóm để gác đâu đó gần bếp lò. Nhưng Định đã lẳng lặng xé toạc gói mo cau bên trong chứa đầy những trang bản thảo cũ kỹ của mình.

Định lựa chọn những tài liệu học tập, những bằng khen, những giấy tuyên dương công trạng… đưa tất cả vào bếp lò. Ngọn lửa được nhóm bùng lên. Đôi mắt của Định đột nhiên sáng rực. Chàng nghe lòng khoái trá như cảm nhận được cơn rẫy rụa, rên la của những sự dối trá đang bị thiêu đốt quằn quại trên ngọn lửa.

Sau mười năm đất nước yên tiếng súng, chưa bao giờ Định tìm thấy được giây phút yên ổn trong lòng như bây giờ. Trên tay chàng còn lại một xấp giấy với những hàng chữ li ti. Đó là bản thảo của cuốn truyện dài, cuốn truyện chứa đầy những ước mơ, những nhọc nhằn, những máu xương và nước mắt. Cuốn truyện mà chàng dự định sẽ hoàn tất đoạn kết ở giai đoạn quê hương đã độc lập, thống nhất, khi đất nước đã không còn nghe tiếng súng.

Bây giờ thì Định thấy rõ rằng dù thanh bình đã trở lại, nhưng bản thảo cuốn truyện chưa thể hoàn tất được. Nó còn phải ghi chép thêm nhiều trạng huống, nhiều hoàn cảnh, bao gồm những tan tác, những chia lìa, những tù đày, những đớn đau, tủi nhục. Nói chung lại là con đường mà Định đã đi vẫn chưa hoàn tất, chưa thế hoàn tất được. Nếu ngừng lại ở đây là phản bội xương máu của tất cả những con người đã từng ươm dệt những ước mơ được sống một đời đáng sống.

Định lan man suy nghĩ và chỉ choàng dậy khi có mùi cơm chín bốc lên. Chàng lấy đôi đũa ghế nồi cơm mấy lần rồi mỉm cười nói:

– Đấy, má thấy không. Con vẫn là con của má mà.

Bà cụ chợt bật lên cười, nụ cười rất trẻ thơ, rất hồn nhiên:

– Thì dĩ nhiên rồi. Có bao giờ má nghĩ rằng con không phải là con của má đâu.

Santa Ana, tháng 12- 1986

Nhật Tiến