← Quay lại trang sách

1. BÁ DI LIỆT TRUYỆN TƯ MÃ THIÊN

Tư Mã Thiên là một sử gia vĩ đại của Trung Quốc, đời trước không ai hơn mà đời sau cũng chưa ai bằng. Ông thành công lớn, đã đành là nhờ thiên tài, mà cũng nhờ công phu và nhờ hoàn cảnh nữa: từ hồi trẻ ông đã có chí lập nghiệp bất hủ và suốt đời không quên sự nghiệp đó; ông lại được sinh trong một gia đình sử gia, rồi oan ức bị một tội rất nhục, cho nên phát phẫn, đem toàn lực vào công việc trước tác, coi nó là lẽ sống độc nhất của ông.

Ông tự là Tử Trường, sanh năm 145 trước Tây Lịch (đời vua Hán Cảnh Đế) ở Long Môn, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây (có sách chép là sanh ở Hạ Dương). Tổ tiên đã có người làm sử quan cho nhà Chu; thân phụ ông là Tư Mã Đàm làm chức Thái sử lệnh cho nhà Hán, học thức uyên bác, thông cả thiên văn, dịch lý, nghiên cứu tất cả các học thuật tư tưởng thời Xuân Thu, Chiến Quốc mà sở trường về học thuyết của Hoàng Lão.

Nhờ được cha dạy dỗ, Tư Mã Thiên khắc khổ học tập, mười tuổi đã thông cổ văn. Từ hai mươi tuổi, ông bắt đầu chu du khắp Trung Quốc, mới đầu xuống Hồ Nam điếu Khuất Nguyên mà ông rất ngưỡng mộ và thương xót, rồi lên Cửu Nghi Sơn tra khảo về những di tích của vua Thuấn, sau tới Cối Kê, Cô Tô, Ngũ Hồ, Hoài Âm, Tề, Lỗ, Sở, Lương, Trường An…, bất kì chỗ nào liên quan tới sử, ông cũng ngừng lại xem xét, phỏng vấn, ghi chép để sau này làm tài liệu viết sử.

Lại thêm một cơ hội tốt nữa: từ năm 122 tới năm 116, ông giữ chức Lang trung, thường theo Hán Vũ Đế tuần du khắp nơi; sau được phụng sứ tây chinh, tới Ba Thục, tới cả Côn Minh; thành thử những kì quan trong nước ông được biết hết, cảnh huống sinh hoạt của dân chúng ông được mục kích đủ, nhãn quan nhờ đó mở rộng và tình cảm nhờ đó dào dạt.

Năm 110 trước Tây Lịch, thân phụ ông hình như không được vua trọng dụng, u uất mà mất, trước khi tắt thở dặn ông phải nối chí mình mà soạn cho xong bộ Sử Kí. Ông quì xuống, sụt sùi mà nhận mệnh.

Ba năm sau, ông được thay cha làm Thái sử lệnh và năm 104, sau khi thu thập được nhiều tài liệu rồi, ông bắt đầu soạn bộ Sử Kí (năm đó ông 41 tuổi). Chẳng may mới viết được một hai năm thì gặp cái án Lý Lăng. Ông ngay thẳng bênh vực Lý Lăng; Hán Vũ Đế nghe lời sàm tấu, nổi giận, bắt ông phải chịu cái tội nhục nhất thời đó là tội bị thiến. Theo luật lệ thì ông có thể đem tiền chuộc tội được, nhưng nhà nghèo, còn bạn bè không ai có nghĩa khí giúp ông, sợ bị vua ghét lây, nên ông uất ức chịu nhục (coi bài Báo Nhiệm Thiếu Khanh Thư ở sau[1]). Ông đã muốn tự tử, nhưng nhớ lại lời căn dặn của cha khi lâm chung, nên ráng sống để hoàn thành bộ Sử Kí.

Ở ngục ra, ông được làm một chức hoạn quan, chứ không được giữ chức Thái sử nữa, thành thử công việc viết sử của ông khó khăn hơn, nhưng ông vẫn kiên nhẫn tiếp tục nó trong bóng tối. Không ai để ý tới ông cả, và ông mất năm nào, chúng ta cũng không biết!

Bộ Sử Kí cả về phẩm và lượng đáng làm vẻ vang cho nhân loại. Toàn bộ chép từ đời Hoàng Đế đến đời Hán Vũ Đế (khoảng năm 100 trước Tây Lịch), gồm 130 thiên, 526.500 chữ[2], chia ra như sau:

- 12 thiên bản kỷ, chép những việc của các Đế vương, theo lối biên niên.

- 30 thiên thế gia, chép chuyện những vị vương hầu, thừa tướng.

- 8 thiên thư chép về điển chương, tài chính, kinh tế, thiên văn, lịch pháp…

- 10 thiên biểu, ghi nét đại cương của những việc lớn.

- 70 thiên liệt truyện chép những sự tích, hành trạng đáng lưu lại.

Đời Hán Tuyên Đế (73-19 trước Tây Lịch) ông mất rồi, một người cháu ngoại của ông mới tuyên bố toàn bộ, nhưng thiếu mất 10 thiên ghi mục lục; sau có người thêm cho đủ, nhưng văn rất tầm thường (theo Trung Quốc Văn Học Sử Gia Liệt Truyện của Dương Ấm Thâm – Quang Hoa thư điếm).

- Về phương diện sử học, bộ Sử Kí có bốn đặc điểm:

* Nó là bộ sử đầu tiên chép việc nhiều đời, liên tục trong ba ngày năm từ Hoàng Đế tới Hán Vũ Đế, không như những bộ sử trước chỉ chép riêng về một đời: Xuân Thu hoặc Chiến Quốc. Tài liệu lại rất dồi dào, nhờ gom góp được các sách cổ rồi tra khả, phỏng vấn thêm tại từng miền.

* Thái độ của ông rất thành thực: điều gì chưa nghiên cứu rõ thì tồn nghi, nếu có nhiều thuyết bất đồng thì kê hết; cho nên ít sai và tới nay người ta vẫn coi những tài liệu trong tác phẩm của ông là đáng tin hơn cả.

* Ông không những chép hành vi của vua chúa mà còn ghi cả văn hóa, lễ nhạc, triết học, văn học, khoa học. Tới thế kỉ 19, sử gia châu Âu mới có nhãn quan rộng như vậy. Về điểm này ông bỏ xa những sử gia danh tiếng đồng thời với ông ở Hi-Lạp, La-Mã. Hơn nữa, ông còn chú trọng cả đến đời của các thương nhân, y sĩ, thầy bói, đời bọn du hiệp, bọn thích khách, đề cao hành vi của các lãnh tụ nông dân, có ý bênh vực kẻ yếu và ngưỡng mộ những anh hùng vô danh. Tư tưởng của ông quả thật là trác việt.

* Sau cùng, ông rất trọng niên đại[3]. Sử gia trước ông không theo một qui tắc nào nhất định trong việc kê niên đại; tới ông mới lập ra niên biểu của 12 nước chư hầu và niên biểu của lục quốc. Đó là một phát minh rất lớn, tỏ rằng ông có tinh thần khoa học, làm việc rất có phương pháp.

- Về phương diện văn chương, thuật miêu tả và tự sự trong Sử Kí đạt tới mức rất cao.

Ông tả nhân vật nào thì như hiện lên giấy, từ cử chỉ ngôn ngữ đến hành động đều có những nét đặc biệt; và nhiều nhân vật đã thành điển hình như Kinh Kha, Trần Thiệp, Liêm Pha, Lạn Tương Như…

Ông có lối tự sự rành rẽ mà không rườm, nhiều khi rất nhiều tình cảm, như thiên viết về Bá Di (có trích dịch ở sau). Đặc biệt nhất là khi kể chuyện mà cần dẫn cổ văn thì ông đổi ra văn đương thời cho người đọc dễ hiểu. Chép một việc gần mà dùng đối thoại thì người ta nói làm sao, ông ghi đúng làm vậy, cho nên đọc Sử Kí ta gặp nhiều ngạn ngữ, tục ngữ, ca dao, ví những câu: “Thiên kim chi tử, bất tử vu thị”[4], “Lợi linh trí hôn”[5], “Nhất xích bổ thượng khả phùng; nhất đấu túc thượng khả thung; huynh đệ nhị nhân, bất năng tương dung”[6]. Bút pháp đó ở thời ông thực là mới mẻ.

Văn của ông nhiều đoạn rất hàm súc (coi bài Hạng Võ Bản Kỉ Tán ở sau)[7], thường bình dị mà hùng kính, siêu dật, dào dạt, không hoa mĩ một cách vô ích, luôn luôn nghiêm cẩn, có nhiều ý vị về tư tưởng, đạo đức, cảm người rất sâu. Được vậy, như chúng tôi đã nói, là nhờ ông học rộng, lịch duyệt nhiều, có tâm hồn cao thượng mà lại gặp nhiều nỗi u uất, nên gởi tất cả tấm lòng vào trang giấy.

Ảnh hưởng của bộ Sử Kí rất lớn. Chẳng riêng các sử gia, cả những văn nhân thi sĩ đều học lối văn của ông. Bát đại gia đời Đường, Tống đều nhận ông là một vị thầy; Bồ Tùng Linh cũng phỏng theo bút pháp của ông mà viết bộ Liêu Trai Chí Dị. Các nhà viết lịch sử tiểu thuyết hoặc soạn tuồng đều dùng tài liệu của ông. Vì vậy mà người đời sau cho rằng bộ đó là một phiến đá lớn trong nền tảng văn hóa Trung Hoa.

Ngoài bộ Sử Kí ra, ông còn một bài phú để biểu lộ cái phẫn uất của mình, tức bài: “Bi sĩ bất ngộ phú” (Buồn cho kẻ sĩ không gặp thời); một bức thư cho Nhiệm Thiếu Khanh và một bài Tự sự trong đó ông bày tỏ tất cả tâm sự của mình, giọng rất lâm li, như để tự điếu vậy.

NGUYÊN VĂN

伯夷列傳

(…)

孔子曰:“伯夷,叔齊,不念舊惡,怨是用希。”“求仁得仁,又何怨乎?”餘悲伯夷之意,睹軼詩,可異焉。

其傳曰:“伯夷,叔齊,孤竹君之二子也。父欲立叔齊,及父卒,叔齊讓伯夷,伯夷曰:“父命也。”遂逃去。叔齊亦不肯立而逃之。國人立其中子。於是伯夷,叔齊聞西伯昌善養老,盍往歸焉。及至,西伯卒,武王載木主,號為文王,東伐紂。伯夷,叔齊叩馬而諫曰:“父死不葬,爰及干戈,可謂孝乎?以臣弒君,可謂仁乎?”左右欲兵之。太公曰:“此義人也。”扶而去之。武王已平殷亂,天下宗周,而伯夷,叔齊恥之,義不食周粟,隱於首陽山,採薇而食之。及餓且死,作歌。其辭曰: “登彼西山兮,採其薇矣,以暴易暴兮,不知其非矣!神農,虞,夏忽焉沒兮,我安適歸矣!於嗟徂兮,命之衰矣!”遂餓死於首陽山。”

由此觀之,怨邪,非邪?

或曰:“天道無親,常與善人。”若伯夷,叔齊可謂善人者非邪?積仁洁行,如此而餓死。且七十子之徒,仲尼獨薦顏淵為好學,然回也屢空,糟糠不厭,而卒蚤夭。天之報施善人,其何如哉?盜跖日殺不辜,肝人之肉,暴戾恣睢,聚黨數千人,橫行天下,竟以壽終,是遵何德哉?此其尤大彰明較著者也。若至近世,操行不軌,專犯忌諱,而終身逸樂,富厚纍世不絕;或擇地而蹈之,時然後出言,行不由徑,非公正不髮憤,而遇禍災者,不可勝數也。餘甚惑焉!儻所謂天道,是邪,非邪?

子曰:“道不同,不相為謀。”亦各从其志也。”故曰:“富貴如可求,雖執鞭之士,吾亦為之,如不可求,从吾所好。”“歲寒,然後知松柏之後雕”。舉世混濁,清士乃見,豈以其重若彼,其輕若此哉?”君子疾沒世而名不稱焉。”賈子曰:“貪夫徇財,烈士徇名,誇者死權,眾庶馮生。”

“同明相照,同類相求。雲从龍,風从虎,聖人作而萬物覩。”伯夷,叔齊雖賢,得夫子而名益彰;顏淵雖篤學,附驥尾而行益顯。岩穴之士,趨舍有時若此,類名堙滅而不稱,悲夫!閭巷之人,欲砥行立名者,非附青雲之士,惡能施於後世哉!

PHIÊN ÂM

(…)

Khổng Tử viết: “Bá Di, Thúc Tề, bất niệm cựu ác, oán thị dụng hi. Cầu nhân đắc nhân, hựu hà oán hồ?”. Dư bi Bá Di chi ý, đổ dật thi, khả dị yên.

Kì truyện viết: “Bá Di, Thúc Tề, Cô Trúc quân chi nhị tử dã. Phụ dục lập Thúc Tề. Cập phụ tốt, Thúc Tề nhượng Bá Di. Bá Di viết: “Phụ mệnh dã”, toại đào khứ. Thúc Tề diệc bất khẳng lập nhi đào chi. Quốc nhân lập kì trung tử. Ư thị Bá Di, Thúc Tề văn Tây Bá Xương thiện dưỡng lão, hạp vãng qui yên. Cập chí, Tây Bá tốt, Vũ Vương tái mộc chủ, hiệu vi Văn Vương, đông phạt Trụ. Bá Di, Thúc Tề khấu mã nhi gián viết: “Phụ tử bất táng, viên cập can qua, khả vị hiếu hồ? Dĩ thần thí quân, khả vị nhân hồ?” Tả hữu dục binh chi. Thái Công viết: “Thử nghĩa nhân dã”, phù nhi khứ chi. Vũ Vương dĩ bình Ân loạn, thiên hạ tôn Chu, nhi Bá Di, Thúc Tề sỉ chi, nghĩa bất thực Chu túc, ẩn ư Thú Dương Sơn, thái vi nhi thực chi. Cập ngã[8] thả tử, tác ca. Kì từ viết: “Đăng bỉ Tây Sơn hề, thái kì vi hĩ, dĩ bạo dịch bạo hề, bất tri kì phi hĩ! Thần Nông, Ngu, Hạ hốt yên một hề, ngã an thích qui hĩ! Vu ta tồ hề, mệnh chi suy hĩ!” Toại ngã tử ư Thú Dương Sơn”.

Do thử quan chi, oán da, phi da?

Hoặc viết: “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân”. Nhược Bá Di, Thúc Tề khả vị thiện nhân giả phi da? Tích nhân khiết[9] hạnh, như thử nhi ngã tử. Thả thất thập tử chi đồ, Trọng Ni độc tiến Nhan Uyên vi hiếu học, nhiên Hồi dã lũ không, tao khang bất yếm, nhi tốt tảo yểu. Thiên chi báo thí thiện nhân, kì hà như tai? Đạo Chích nhật sát bất cô, can nhân chi nhục, bạo lệ tứ tuy, tụ đảng sổ thiên nhân, hoành hành thiên hạ, cánh dĩ thọ chung, thị tuân hà đức tai? Thử kì vưu đại chương minh giác trứ giả dã. Nhược chí cận thế, tháo hạnh bất quỹ, chuyên phạm kị huý, nhi chung thân dật lạc, phú hậu luy thế bất tuyệt; hoặc trạch địa nhi đạo chi, thời nhiên hậu xuất ngôn, hành bất do kính, phi công chính bất phát phẫn, nhi ngộ hoạ tai giả, bất khả thăng số dã. Dư thậm hoặc yên! Thảng sở vị thiên đạo, thị da, phi da?

Tử viết: “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu”. Diệc các tòng kí chí dã. Cố viết: “Phú quí như khả cầu, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi, như bất khả cầu, tòng ngô sở hiếu”. “Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu”. Cử thế hỗn trọc, thanh sĩ nãi kiến, khởi dĩ kì trọng nhược bỉ, kì khinh nhược thử tai? “Quân tử tật một thế nhi danh bất xưng yên”. Giả Tử viết: “Tham phu tuẫn tài, liệt sĩ tuẫn danh, khoa giả tử quyền, chúng thứ bằng sinh”.

“Đồng minh tương chiếu, đồng loại tương cầu. Vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đỗ”. Bá Di, Thúc Tề tuy hiền, đắc phu tử nhi danh ích chương; Nhan Uyên tuy đốc học, phụ kí vĩ nhi hạnh ích hiển. Nham huyệt chi sĩ, xô xả hữu thời nhược thử, loại danh nhân diệt nhi bất xưng, bi phù! Lư hạng chi nhân, dục chỉ hạnh lập danh giả, phi phụ thanh vân chi sĩ, ô năng thi ư hậu thế tai!

DỊCH NGHĨA

TRUYỆN BÁ DI

(…)

(Chúng tôi bỏ một đoạn đại ý nói rằng: Thư tịch rất nhiều nhưng chưa đáng tin hết, phải đem Lục Kinh – tức Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc, Xuân Thu – ra mà khảo chứng, nếu có chép trong Lục Kinh thì mới chắc là đúng. Có những truyện nhiều người kể lại như truyện Hứa Do, Biện Tuỳ, Vụ Quang – các vị ẩn sĩ thời cổ, vua truyền ngôi cho mà không chịu nhận – mà Thi, Thư không thấy chép, thì còn phải tồn nghi; còn truyện[10] Bá Di, Thúc Tề thì đáng tin vì Khổng Tử có nói tới).

Khổng Tử bảo: “Bá Di, Thúc Tề không nhớ điều ác thời trước của người ta, nên rất ít oán người; cầu nhân thì được nhân, còn oán cái gì?” Tôi buồn cho tấm lòng của Bá Di, đọc bài thơ còn truyền lại của ông, như có lòng oán, điều đó đáng lấy làm lạ[11].

Truyện Bá Di chép rằng:

“Bá Di, Thúc Tề là hai người con của vua Cô Trúc. Cha muốn lập Thúc Tề lên ngôi. Đến khi cha mất, Thúc Tề nhường ngôi cho Bá Di[12]. Bá Di nói: “Đó là mệnh lệnh của cha”, rồi trốn đi. Thúc Tề cũng không chịu lên ngôi mà trốn đi. Người trong nước lập người con giữa. Lúc đó, Bá Di, Thúc Tề nghe tiếng ông Tây Bá Xương[13] khéo nuôi người già[14], muốn tới qui phụ. Tới nơi thì Tây Bá mất. Vua Vũ Vương[15] chở thần chủ[16] của Tây Bá, truy hiệu Tây Bá là Văn Vương, rồi qua phía đông đánh vua Trụ. Bá Di, Thúc Tề dập đầu[17] trước ngựa can rằng: “Cha mất mà không chôn mà dấy việc can qua, có đáng gọi là hiếu không? Làm tôi mà giết vua[18], đáng gọi là nhân không?”. Kẻ tả hữu của Vũ Vương muốn giết, ông Thái Công[19] bảo: “Hai người đó là nghĩa sĩ”, đỡ dậy rồi thả cho đi. Khi Vũ Vương đã dẹp được loạn Ân[20], thiên hạ đều tôn nhà Chu, duy có Bá Di, Thúc Tề cho hành vi của Vũ Vương là đáng xấu hổ, nên giữ nghĩa khí, không chịu ăn lúa nhà Chu, ẩn ở núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn. Tới khi đói sắp chết, làm bài ca rằng: “Lên núi tây kia[21], để hái rau vi; lấy bạo trừ bạo, chẳng biết là quấy! Thần Nông, Ngu, Hạ[22] hốt nhiên mất rồi, ta biết về đâu? Than ôi! Ta sắp chết đây, vận mệnh đã suy rồi!”. Rồi chết đói ở núi Thú Dương”.

Xét truyện đó thì Bá Di, Thúc Tề oán chăng, không oán chăng?

Có người bảo: “Đạo trời không thân riêng với ai mà chỉ thân với người thiện”. Như Bá Di, Thúc Tề đáng gọi là người thiện hay không vậy? Chất chúa điều nhân, thanh khiết đức hạnh, như vậy mà chết đói! Vả trong bảy chục môn đồ, Trọng Ni chỉ khen riêng Nhan Uyên là hiếu học mà Nhan Hồi[23] thường xác xơ, ăn tấm cám mà cũng không được no, lại chết yểu. Trời kia báo đáp người thiện mà như vậy ư? Đạo Chích[24] ngày nào cũng giết người vô tội, nuống thịt người làm chả, bạo ngược phóng túng, họp đảng mấy ngàn người, hoành hành trong thiên hạ, mà được chết già, thế là nhờ đức gì vậy? Đó là những việc sờ sờ ra cả. Đến như đời gần đây, có những kẻ hành vi và hạnh kiểm bất chính, chuyên phạm những điều kị huý, mà suốt đời nhàn nhã vui vẻ, giàu sang truyền mấy đời không hết; còn những người chọn đất rồi mới bước, lựa lúc rồi mới nói[25], đi không theo đường tắt[26], không phải việc công bình chính trực thì không phấn phát thi hành, mà lại gặp tai hoạ, hạng đó nhiều không kể xiết. Cho nên tôi rất nghi hoặc: cái gọi là thiên đạo kia, phải chăng, trái chăng?

Khổng Tử nói: “Đạo không giống nhau thì không thể cùng mưu tính cho nhau được”[27], thôi thì ai theo chí hướng người ấy. Cho nên bảo rằng: “Phú quí mà cầu được thì tuy làm kẻ cầm roi, ta cũng làm; nhược bằng không thể cầu được thì ta theo sở nguyện của ta”[28]. “Tiết trời lạnh rồi mới biết rằng cây tùng cây bách rụng lá sau những cây khác”[29]. Thiên hạ ai nấy đều ô trọc, thì kẻ sĩ thanh khiết mới hiển lộ, như vậy thì đâu phải là người có đức trọng kia mà khinh cái này[30]. “Người quân tử hận rằng chết rồi mà danh không được truyền”[31]. Giả Tử nói: “Kẻ tham lam chết vì tiền, bực liệt sĩ chết vì danh, kẻ ham phú quí chết vì quyền thế, hạng thường dân chỉ lo bảo tồn sinh mạng”[32].

“Cùng sáng thì chiếu lẫn nhau, cùng loại thì tìm lẫn nhau. Mây theo rồng, gió theo hổ. Thánh nhân dấy lên mà mọi người đều thấy”[33]. Bá Di, Thúc Tề tuy hiền, nhờ có phu tử mà danh mới càng rực rỡ; Nhan Uyên tuy gắng học, nhờ bám đuôi vào ngựa kí[34] mà đức mới rỡ ràng. Những kẻ sĩ ở trong hang trong núi, tuỳ thời mà tiến lui[35], hạng người đó, danh tiếng bị mai một, không được truyền lại, đáng buồn thay! Những người trong xóm trong ngõ muốn mài giũa đức hạnh để lập danh mà không được phụ vào bậc sĩ có đức vọng thì làm sao mà thanh danh truyền hậu thế được?[36]

NHẬN ĐỊNH

Đời Hán, xét chung, người ta còn trọng chất hơn văn, lời không được chuốt như các đời sau, miễn diễn được ý thì thôi. Văn của Tư Mã Thiên hay là vì tư tưởng sâu sắc hoặc mới mẻ, cảm xúc dào dạt, triền miên; còn lời thì thành thật, tự nhiên không có chút tiểu xảo nào cả; cơ hồ như đôi khi ông không quan tâm đến kỹ thuật nữa. Cảm xúc tràn ra thì ông chép lại, tuy có thứ tự nhưng không dùng những câu để chuyển, cho nên sự liên lạc giữa các đoạn chỉ có ở trong tư tưởng chứ không ở trong văn từ. Tức như trong bài này, sau khi chép lại truyện Bá Di, Thúc Tề rồi, ông ghi cảm tưởng của ông thành ba đợt.

Đợt thứ nhất: nhân truyện Bá Di, Thúc Tề mà nhớ lại những người hiền đời xưa thì chịu khốn khổ (Nhan Uyên), còn kẻ bạo ngược thì được sung sướng, rồi ông tự hỏi đạo trời có hay không. Chắc khi tự hỏi như vậy, ông cũng nghĩ đến số kiếp của ông nữa.

Rồi đột nhiên, chẳng cần chuyển gì cả, ông dẫn ngay một hơi bốn câu trong Luận ngữ, một câu của Giả Nghị, một câu trong Kinh Dịch[38] để tỏ rằng người khác thường nhân ở chỗ không quan tâm tới phú, quí và thọ, mà cứ theo đạo của mình; vậy thì chẳng cần xét trời có thưởng người thiện, phạt kẻ ác hay không nữa. Đó là đợt thứ nhì; ông muốn tự an ủi để gắng sức giữ trọn đạo.

Tới đó ta tưởng đã hết; không ngờ còn có đợt thứ ba: nhân ở đợt đầu ông nhắc đến Bá Di, Nhan Uyên, mà ở đây ông nghĩ tới những người hiền cũng như Bá Di, Nhan Uyên nhưng không được những bậc danh vọng nhắc tới nên tên tuổi bị mai một, và ông tỏ lòng thương họ - thương họ mà cũng chính là thương cho ông nữa. Đợt này cũng vậy, mở đầu bằng một câu trích trong Kinh Dịch, chẳng cần có lời chuyển.

Cảm xúc, tư tưởng hiện ra hết đợt nọ đến đợt kia, y chang như những lớp sòng nối tiếp nhau; văn như vậy là ba lan, rất có nghệ thuật, một thứ nghệ thuật không dựa vào hình thức, không cần sự tô điểm, có lẽ còn tối kị sự tô điểm nữa, vì càng tô điểm thì càng giả tạo mà cảm xúc sẽ kém phần dạt dào, tươi tắn, lôi cuốn. Chúng tôi sẽ trích dịch một bài nữa có thể làm kiểu mẫu cho thứ văn ba lan, bài A Phòng cung phú của Đỗ Mục đời Đường[39]

.Chú thích:

[1] Trong tập này tôi không chép lại. (Goldfish).

[2] Người Pháp đã dịch, nhưng chưa trọn bộ. Nhượng Tống cũng đã trích dịch ít đoạn. Nếu dịch ra hết Tiếng Việt thì được khoảng 2.500 trang đánh máy. Không biết bao giờ chúng ta mới làm được công việc đó. Chúng tôi hiện đương trích dịch độ sáu, bảy trăm trang. Bộ Chiến Quốc đó độ bốn trăm trang hiện đã gần xong. [Không rõ cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói bộ Chiến Quốc Sách (dịch chung với cụ Giản Chi) hay bộ Sử Kí của Tư Mã Thiên (cũng dịch chung với cụ Giản Chi)? (Goldfish)].

[3] Trừ bộ Xuân Thu của Khổng Tử, nhưng bộ này chỉ chép việc trong một thời đại và niên đại đều theo nhà Chu.

[4] Đứa con của nhà giàu (có ngàn vàng) không chết ở chợ.

[5] Cái lợi làm mờ trí khôn người ta.

[6] Một thước vải còn có thể vá lại được, một đấu lúa còn có thể giã lại được; anh em hai người không thể dung nhau được. (Ý trách rằng tình ruột thịt mà tuyệt giao với nhau).

[7] Trong tập này tôi không chép lại. (Goldfish).

[8] Ngã: nguyên văn là 餓, chữ này Thiều Chửu đọc là “ngạ”. (Goldfish).

[9] Trong phần nguyên văn, bản nguồn không có chữ 洁 tương ứng với chữ “khiết” trong phần phiên âm. Nói chung, nguyên văn chữ Hán của bài này, cũng như một số bài khác, trên mạng có nhiều bản khác nhau, mà bản nguồn thì có bài lại chép giống hệt một bản nào đó nhưng lại không phù hợp với phần phiên âm. Về sau khi gặp những chỗ sai sót khác tôi cũng sửa lại nhưng, để khỏi rườm, tôi sẽ không chú thích. (Goldfish).

[10] Trong bài Bàn về Lục Vân Tiên, TS Nguyễn Mạnh Hùng trong cho rằng: “Tư Mã Thiên dùng từ tiểu truyện để nói về tiểu sử một nhân vật. Nếu là một tiểu sử một nhân vật quan trọng thì Tư Mă Thiên dùng từ liệt truyện, ví dụ Bá Di liệt truyện. Còn khi nói đến Khổng Tử, thì Tư MãThiên lại dùng từ “Thế gia”. (http://www.hongbang-uni.edu.vn/Khoa-Chuyennganh/vietnamhoc_tiep.aspx) (Goldfish).

[11] Lạ là vì lời thơ thì có giọng oán mà sao Khổng tử bảo là không oán. Hoặc giả bài thơ đó không có thật chăng?

[12] Vì Thúc Tề là em. Theo lẽ thường thì anh được lên ngôi. [Xem thêm bài Công Dã Tràng 22 trong cuốn Luận ngữ của Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish)].

[13] Tây bá nghĩa là làm bá (vị chư hầu cao hơn hết) ở phương Tây. Xương là tên vua Văn Vương.

[14] Khéo nuôi người già nghĩa là biết kính trọng và chu cấp cho những người già.

[15] Vũ Vương: Trong nhiều tác phẩm viết sau cuốn Cổ văn Trung Quốc này, như Luận ngữ, Khổng tử…, cụ Nguyễn Hiến Lê thường gọi vị vua nhà Chu này là vua Võ để phân biệt với vua Vũ nhà Hạ. (Goldfish).

[16] Mộc chủ tức là thần chủ, bài vị của người chết.

[17] Dập đầu là cúi đầu sát xuống đất.

[18] Trụ là ông vua cuối cùng của nhà Thương, vì dâm bạo, các nước chư hầu, dưới sự chỉ huy của Tây Bá Xương đem quân lại diệt; vậy là chư hầu diệt thiên tử, cho nên nói là bề tôi giết vua.

[19] Thái Công tức Lữ Thượng, tức Thái Công Vọng, họ Khương, tổ tiên được phong ở đất Lữ, nên gọi là Lữ Thượng. Ông là một hiền thần đầu đời Chu, mới đầu câu cá ở sông Vị, vua Văn Vương đi săn, gặp, vời về triều.

[20] Tức dẹp được vua Trụ. Nhà Thương sau khi dời đô lại Ân Khư (chợ Ân), đổi quốc hiệu là Ân. [Ân Khư nay thuộc thành phố An Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. (Goldfish)].

[21] Núi tây tức núi Thú Dương, nay ở tỉnh Sơn Tây.

[22] Những đời vua Thượng Cổ.

[23] Nhan Hồi, họ Nhan, tên Hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên. (Goldfish).

[24] Đạo Chích là một tên cướp rất lợi hại thời cổ.

[25] Nghĩa là thận trọng trong cử chỉ, ngôn ngữ và mọi hành động.

[26] Nghĩa là quang minh chính đại.

[27] Chữ đạo trong câu này có nghĩa là chí hướng. Lời Luận ngữ, chương Vệ Linh Công.

[28] Lời Luận ngữ, chương Thuật nhi.

[29] Lời Luận ngữ, thiên Tử hãn.

[30] Ý muốn nói: người hiền với người thường chí hướng khác nhau: người thường trọng sự giàu sang và thọ mà khinh sự nghèo hèn và yểu; người hiền thì coi những cái đó không đáng quan tâm tới, chỉ trọng đạo đức.

[31] Lời Luận ngữ, chương Vệ Linh Công.

[32] Giả Tử tức Giả Nghị, xem ở trước.

[33] Lời Chu Dịch, quẻ Càn. Thánh nhân là hạng người mà dân ngưỡng vọng, nên thánh nhân xuất hiện thì mọi người đều theo. [Nguyên văn trong Kinh Dịch, hơi khác một chút: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Thủy lưu thấp, hỏa tựu táo; vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (同聲相應,同氣相求。水流濕,火就燥;雲从龍,風从虎,聖人作而萬物睹). (Goldfish)].

[34] Con nhặng mà bám vào đuôi con ngựa thiên lí thì một ngày có thể bay được ngàn dặm; ý nói Nhan Hồi nhờ được Khổng tử khen nên mới lưu danh lại. [Chữ “bay” trong “một ngày có thể được ngàn dặm”, trong bộ Sử Kí của Tư Mã Thiên của hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê chép là “di chuyển”. (Goldfish)].

[35] Nghĩa là biết tuỳ thời mà hành động, mà xuất xử.

[36] “Thanh vân chi sĩ” ở đây trỏ hạng sĩ có đức, được ngưỡng vọng; ở chỗ khác có thể trỏ những người giữ địa vị cao, hoặc những nhà ẩn dật.

[37] Trong sách là “Chú thích”, nhưng vì tôi đã đưa các chú thích xuống cuối trang, chỉ còn lại lời “bình” nên tôi thay bằng hai chữ “Nhận định” (chữ cụ Nguyễn Hiến Lê dùng trong cuốn Trang Tử - Nam Hoa Kinh). (Goldfish).

[38] Theo các phần nguyên văn, phiên âm và dịch nghĩa ở trên, “đợt nhì” chấm dứt bằng một câu Giả Tử; còn câu trích trong Kinh Dịch thì được đặt trong “đợt ba”. (Goldfish).

[39] Ngoài ra các bạn còn có thể xem thêm chương Văn ba lan trong cuốn Hương sắc trong vườn văn, trong đó cụ Nguyễn Hiến Lê có dẫn một đoạn trong tập du kí Đế Thiên Đế Thích mà cụ viết theo lới văn ba lan. (Goldfish).