← Quay lại trang sách

LAFUGIE MẠO HIỂM KHẮP CHÂU Á-VỚI MỘT GIÁ VẼ VÀ MỘT CÂY CỌ

Bà Alexandre David-Neel là người đàn bà ngoại quốc đầu tiên vô cấm thành Lhassa, mà bà Lafugie là họa sĩ đầu tiên và duy nhất đem từ Tây Tạng về một tập bức họa quý giá vô ngần vì đã ghi được những hình ảnh hiện nay gần như không còn thấy nữa.

Bà Lafugie đã cho xuất bản nhiều tập du ký chính bà minh họa lấy. Alexandre David-Neel đã đề tựa cho tập du ký đầu tiên nhan đề là Au Tibet (Ở Tây Tạng). Nhà xuất bản đã gởi tập đó cho tôi, nhờ tôi giới thiệu trên đài Phát thanh. Tôi ngạc nhiên về tài vẽ của bà.

Do đó mà tôi phỏng vấn bà và được biết rằng suốt tuổi thơ bà làm bộ đóng trò thám hiểm trong khi chơi đùa, lớn lên một chút thì say mê đọc các truyện du lịch, và học hết ban Trung học, và vô trường Quốc Gia Mỹ Thuật, lui tới nhiều phòng vẽ. Nhưng ngay từ mùa thu 1924, để thực hiện hoài bão từ nhỏ, bà rời nước Pháp, đi thăm khắp Tunisie và Algérie trong ba tháng.

Thời đó mà đi như vậy thì cũng là hơi mạo hiểm rồi đấy, gặp nhiều chuyện bất ngờ lắm, nhất là đối với một người đàn bà còn trẻ, lại đi một mình. Nhưng rút được kinh nghiệm lần đó, bà rất đỗi hăng hái và mùa xuân năm 1925, quyết tâm đi vòng quanh thế giới, chuyến này kéo dài tới năm năm.

Trong căn nhà đường La Faisanderie treo đầy những bức họa của bà và những đồ mỹ thuật ngoại quốc đã thu thập trong các cuộc du lịch để giữ làm kỷ niệm, bà Lafugie, từ cử chỉ, tới ngôn ngữ đúng là người Paris, bận một bộ đồ đen giản dị, tóc hoa râm, bởi thành búi, kể cho tôi nghe những năm bà phiêu lưu hy sinh cho nghệ thuật, những năm sống hoàn toàn tự do, bất chấp những sự trói buộc mà chẳng riêng gì đa số phụ nữ, ngay đến đàn ông cũng thường phải chịu không chống lại nổi.

Tôi quí mến bà. Sau bao nhiêu năm sống trong một cái lều hoặc trên lưng ngựa, mặc dầu bề ngoài thì theo thời, mà bà vẫn còn giữ được cái hương khí của cuồng phong, của rừng suối và của cảnh vật đã gặp trên đường phiêu lưu.

Những họa phẩm của bà treo đầy chung quanh chúng tôi, màu sắc mạnh mẽ nhưng không chướng, nét vẽ táo bạo, mới mẻ mà vẫn cổ điển, ghi lại những cảnh, những người, đã đập mạnh vào óc tưởng tượng cùng lòng đa cảm của bà, một họa sĩ kiêm văn sĩ (...). Tạp chí National Geographic Magazine ở Washington đã in màu hai mươi hai bức họa của bà, điều đó không có gì lạ.

Tôi nhìn bà ngồi trong phòng sang trọng ở quận XVI này mà tưởng tượng bà chui vào “Căn

nhà trên nước” của bà Cachemire, giữa một rừng hoa và trong tiếng ríu rít của các loài chim màu sặc sỡ. Chiếc thuyền đó đưa bà tới yết kiến các “bà công chúa y phục bằng sa, chân đeo đầy những vòng nặng ở mắt cá, bàn chân để trần nhuộm bằng lá cây, nhẹ nhàng bước trên những lối đi lát cẩm thạch và vàng”.

Bà nhã nhặn hỏi về đời sống, nghề nghiệp của tôi, và tôi nhớ lại giọng bà hồi xưa, như một điệu hát xa xôi, quyến rũ...

Lần đó một thiếu nữ bận đồ cưỡi ngựa, ngồi trước Kouchoq (tu viện trưởng) Hemis. Bà hỏi ngay người đó:

Cô làm ơn cho tôi hỏi, kho sách tu viện này có chứa những bản viết tay về đời nhà tiên tri Issa không, hoặc ít nhất là chép lại lần nhà tiên tri đó qua ở miền này không?

Issa!... Issa, người đã nói: Cõi trần này là một chiếc cầu. Ta nên đi qua cầu chứ đừng cất nhà trên cầu. Kiếp trần ngắn ngủi chỉ như một giờ, nên dùng thời gian đó mà tụng niệm...”.

Bà kể tới đó, tôi vội ngắt lời bà:

- Xin bà kể cho tôi nghe về Hemis.

Bà mỉm cười. Nụ cười của Alexandre David-Neel có nhiều vẻ, nồng nàn, rực rỡ, rồi mỉa mai, hơi bí mật; nụ cười của Lafugie kín đáo, chỉ nhếch mép một chút, nhưng rất có duyên:

- Hemis? Tôi đã nói nhiều về Hemis trong cuốn Tibet,Terre des Bouddhas vivants (Tây Tạng, xứ của các Phật sống)... Bà muốn biết gì về Hemis.

Tôi cũng mỉm cười:

- Muốn được biết đủ hết.

- Như vậy thì nhiều quá mà cũng ít quá...

- Thế này, nhiều bạn biết rằng tôi sửa soạn đi Tây Tạng, khẩn khoản yêu cầu tôi rán vô cho được tu viện Hemis. Có những người đáng tin bảo rằng tu viện Hemis chứa đủ chứng cớ về hồi Phật Issa, tức chúa Kitô, ở Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng trước khi trở về Jerusalem. Chắc bà còn nhớ rằng có những bộ lạc Isral thời xửa thời xưa di cư qua Cachemire, và nhiều người Cachemire thuộc về dòng giống Sémite{l). Còn các ông bạn tôi đó là những nhà Thông thiên học Âu châu, tôi gặp ở miền Bombay trong một lần đi qua Adyar. Họ nghĩ rằng có lẽ tôi có thể chụp hình được những bản viết tay đó.

Chính ở Adyar, mà bà Annie Besant - một người được Bernard Shaw suốt đời quý mến - mất ngày 20 tháng chín năm 1933 hồi bốn giờ chiều. Người ta liệm bà trong chiếc sari trắng thêu kim tuyến, rồi người ta phủ lên bà chiếc cờ đỏ và vàng của Hội Home Rule League; trên ngực bà người ta đặt con dấu của hội Thông Thiên học, và người ta tụng những kinh của các tôn giáo chính, sau cùng đem hỏa táng trên một giàn bằng gỗ trầm hương, thu lượm hài cốt của bà đem lại Bénarès rắc lên dòng sông Hằng.

Trước khi giữ chức chủ tịch hội Thông Thiên học và giúp trong nhiều công tác xã hội, làm cho Ấn Độ ngưỡng mộ và mang ơn, bà Annie Besant đã hăng hái chiến đấu cho phụ nữ, bị đưa ra tòa

Vì bênh vực thuyết của Malthus thời đó cho là bậy bạ: Malthus cũng như đồng chí của ông ta, Charles Knowlis, người Mỹ, khuyên nhân loại phải hạn chế sinh sản vì nhân số tăng lên mau quá, thực phẩm sẽ không đủ để nuôi cho hết được.

Bà đẹp và có nhiệt tâm, chẳng những là một ký giả, một diễn giả có tài mà còn nổi danh về khoa học nữa.

Năm 1878, Đại học Londres mở cửa cho nữ sinh, cho phép họ thi đủ các bằng cấp cao, bà là một trong những thiếu nữ ghi tên đầu tiên, năm 1888 thi ra, đậu cao, được bổ dạy các lớp Ban Khoa học (Hall des Sciences).

Sau bà dựng ở gần con sông Adyar một thị trấn nhỏ, mà thư viện gồm 36.000 cuốn và 18.000 ngàn tập viết tay trên giấy và trên lá bối. Thư viện đó giữ được bản viết tay của các kinh Upanishad; khắp thế giới không đâu có được những cổ thư quý như vậy.

Vì thế nào mà ta hiểu tại sao các nhà Thông thiên học Adyar muốn có những tài liệu họ ngờ rằng có chứa trong tu viện Hemis, dù không được bản chính thì bạn chụp hình cũng được, để cho thư viện Adyar thêm phong phú.

Bà Lafugie kể cho tôi nghe:

- Các ông bạn Thông Thiên học đó không làm cho tôi tin như họ được, nhưng làm cho tôi thích thuyết của họ và tôi hứa với họ rằng trong chương trình đi thăm viếng các nơi, tôi sẽ ghi Hemis lên hàng đầu.

“Sau khi vượt dây núi Hy Mã Lạp Sơn, từ Srinagar phải đi bộ khoảng mười tám ngày mới tới tu viện Hemis. Tu viện đó là một trong những tu viện Tây Tạng mà từ trước tới nay được các tu sĩ bác học nhất của Ludako tới tu hành, nghiên cứu. Trái hẳn những điều đoán trước, tôi đã chịu nổi đời sống trong cái lều ở giữa cảnh tuyết phủ, tôi đã vượt những cái đèo cao từ 4.000 tới 6.000 thước. Tôi không bảo rằng công việc đó dễ dàng đâu, nhưng tôi đã làm được và đã tới tu viện Hemis.

“Vị Kouchoq tiếp tôi liền và trong khi tôi vẽ chân dung cho ngài, nhờ có người thông ngôn, chúng tôi nói chuyện huyên thiên, chẳng ra đâu vào đâu cả: về nước Pháp, về gia đình tôi, về các cuộc du lịch của tôi. Tôi được phép đi khắp các nơi trong tu viện. Và ngày giờ trôi qua... Sau cùng tôi mới hỏi về các tài liệu mà trước đó, tôi đã ám chỉ tới. Vị Kouchoq bảo tôi: “Tôi không muốn rằng bà đến Hemis mà không được ngó qua cái phòng bí mật chứa những bản viết tay mà bà muốn biết đó”.

Nhưng rồi ngài nói thêm ngay rằng người ta đương cất một thư viện mới, một phần là để sắp xếp các tài liệu đó, và sớm lắm phải một năm nữa mới xây cất xong. Phải đợi lúc đó tôi mới coi những bản viết tay đó được.

“Tôi hỏi:

- Nhưng ít nhất ngài cũng đã được coi những tài liệu đó rồi chứ?

- Bà muốn nói là tôi được trông thoáng qua hả? Nó chất đống đó, lộn xộn không thể tả được, cao nghêu từ dưới sàn lên tới nóc, mạng nhện bám đầy. Nó muốn nát vụn thành bụi rồi, ai đâu mà rán đọc cho ra? Đừng nói là đọc nữa, cứ rán lựa ra thôi? Người xưa đã viết bằng tiếng Phạn, tiếng Ourdou, tiếng Tây Tạng, từ bao nhiêu thế kỷ trước: có khác gì lấy một cái thau để tát biển không!”.

Tôi hỏi bà Lafugie:

- Thế năm sau bà có trở lại không?

- Có, tôi có trở lại, nhưng trong thời gian đó, vị Kouchoq đã mất, và truyện Phật Issa vẫn còn là một bí mật.

- Bà đã chép lại chuyện đó một cách lôi cuốn vô cùng trong tác phẩm của bà. Sách có in màu những bức họa của bà; chân dung vị Kouchoq và bức tranh tu viện Hemis cheo leo trên sườn núi, Bà có tiếc những ngày ở tu viện đó không?

- Tiếc vô cùng chứ. Trong ba chục năm tôi đã đi khắp châu Á, nhưng tôi cho rằng xứ Tây Tạng là xứ đã giúp cho chúng tôi được nhiều nhất về phương diện nghệ thuật cũng như về phương diện nhân chủng học. Ở đó tôi cảm thấy hoàn toàn sung sướng trong cảnh cô tịch tuyệt đối không đâu bằng. Tôi sung sướng tới nỗi ca hát suốt ngày mà ca lớn tiếng nữa đế tỏ niềm vui của tôi. Tôi cho rằng tại đó tôi cũng thực hiện được những họa phẩm độc đáo nhất, đáng chú ý nhất của tôi.

- Lần viễn du đầu tiên của bà, bà còn trẻ lắm. Nhưng bà đi hoài như vậy, gia đình bà nghĩ sao?

- Gia đình tôi cho tôi là điên, nhưng tôi cứ làm theo ý tôi. Một hôm, sau một cuộc viễn du, cũng vô Tây Tạng nữa, tôi trở về nhà, thấy một bức thư của má tôi gởi tới từ hồi nào, trong có câu: “Má cấm con đi Tây Tạng đấy, nguy hiểm lắm!”.

Chúng tôi cùng cười, rồi tôi hỏi:

- Bà có ân hận rằng không được vô Lhassa không?

- Ân hận chứ. Nhưng trừ Lhassa ra, tôi đã được tới những nơi thích thú nhất. Khi tôi còn cách Portala năm hay sáu ngày đường, nghĩa là tới cửa cấm thành đó thì nhận được lệnh cấm vô thành, lệnh đó chỉ là một lệnh hành chánh. Viên Thống đốc đã được lệnh trên và ra chỉ thị rất rõ ràng cấm tôi không được ra khỏi chỗ tôi cắm trại bốn mươi cây số, và mỗi tối phải về trại. Bà Alexandre David- Neel được vô Lhassa vì bà ở Trung Hoa tới. Còn tôi, từ Ấn Độ qua, nên người Anh ngăn cản tôi!”.

Tôi nhắc lại những mưu mô bà Alexandre David-Neel đã dùng, những nỗi gian nan nguy hiểm bà ấy đã phải đương đầu; và tôi cho rằng từ phía Trung Hoa tới thì cũng không dễ dàng gì hơn từ phía Ấn Độ qua, mà không phải tại người Anh cấm mà bà Lafugie không vô được Tây Tạng. Chính bà cũng nhận như vậy. Nhưng mục tiêu của bà là vẽ những cảnh trông thấy, muốn vậy thì bà phải được phép chính thức, ít nhất thì cũng phải có đủ giấy tờ, được giới thiệu. Một nhà văn, một triết gia, tâm lý gia như Alexandre David-Neel có thể làm việc trong những điều kiện khác hẳn, mà có thể đương đầu với mọi nỗi trở ngại, nguy hiểm. Trái lại, càng gặp trở ngại, nguy hiểm, thì lòng khao khát tìm được cái mới lạ lại càng được kích thích. Còn vẽ thì không thề vẽ lén vẽ vội vàng, trông trước trông sau sợ bị bắt được. Muốn vẽ ai thì phải được phép người đó cho vẽ đã.

Bà Lafugie bảo:

- Các nhân viên Anh bảo trước tôi rằng đừng hy vọng gì được vô các tu viện, không một vị lạt ma nào chịu ngồi cho tôi vẽ đâu; vậy mà tôi vừa mới vô Tây Tạng được ít lâu thì đã được phép trú ngụ trong một tu viện ở trên cao 4.000 thước. Từ đó, không có tu viện nào là khép chặt cửa, không cho tôi vô.

- Bà sống cách nào trong một tu viện?

- Tôi muốn ở trong một tu viện bao lâu cũng được, miễn là tôi bận y phục của các tu sĩ, ăn uống như họ và dự đều đều các buổi cúng lễ. Tôi đã được ở trong một tu viện ở đảo Poutoo, nhờ một bức thư giới thiệu của Tổng giáo chủ ở Ningpo. Khi tôi tới đó với một người tớ gái và một người bồi, thì vị Viện Trưởng tiếp ngay chúng tôi, đọc thư giới thiệu của Tổng giáo chủ và bảo rằng tôi có thể ở trong tu viện bao lâu tùy ý, muốn vẽ gì tùy ý. Và tôi đã ở đó để vẽ mấy tuần.

- Bà nói họ làm sao hiểu được? Bà có biết ngôn ngữ của họ không?

- Không. Tôi chỉ biết vài tiếng, không đủ dùng, nhưng luôn luôn tôi mang theo một tự điển giản yếu Anh - Trung Hoa. Với lại, chẳng cần phải nói với những người đó cũng có thể hiểu họ được. Chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào mà vẫn hiểu nhau.

Đôi khi, một vài vị thượng tọa liếc chúng tôi, rồi cũng bằng lòng ngồi cho tôi vẽ, và cuối buổi lễ thì tư tưởng của chúng tôi đã hòa hợp với nhau rồi.

- Thế còn các tu viện cho phụ nữ?

- Không khi nào tôi có ý muốn vô coi các tu viện cho phụ nữ!

Giọng của bà nóng nảy, quả quyết làm cho tôi ngạc nhiên.

- Tại sao bà lại không ưa các ni cô như vậy?

- Trước hết, trong các tu viện cho đàn ông, không khí dễ chịu hơn nhiều; lại thêm các tu viện cho đàn bà thường có vẻ tồi tàn, giữ gìn không được sạch sẽ... Có lẽ tại ít người cúng tiền cho các tu viện đó. Tôi nói đây là nói về Tây Tạng.

- Nhưng bà đã gặp vài nữ tu sĩ đáng phục, chẳng hạn Đức Dordjee Pagmo.

- Nhưng xin bà nhớ rằng nữ tu sĩ đó ở trong một tu viện đàn ông đấy nhé.

Dĩ nhiên.

Đức Yetsuma Dordjee Pagmo cứ mỗi lần đầu thai, lại được lãnh những chức vụ tôn giáo cao nhất ở Tây Tạng, ngang hàng với Đạt Lai lạt ma và Ban thiền lạt ma.

Người ta cho rằng sở dĩ ở Tây Tạng có một người đàn bà được quyền tôn giáo tối cao đó là nhờ công hai bà vợ của vua Srong Tsan Gampa: hai bà thuyết phục nhà vua theo đạo Phật, do đó, truyền bá đạo Phật vào Tây Tạng, quyết định cả tương lai tôn giáo cho Tây Tạng.

Đức Yetsuma Dordjee Pagmo được ngưỡng mộ không ai bằng. Giáo quyền của ngài lớn nhất và ngài có sức thần thông cũng tuyệt luân nữa. Ngài đã ở Lhassa lâu năm, học rất sâu về mọi ngành tại đó.

Thường thường ngài ở tu viện Nya-Ning, tại Gyant-sé, ít nhất là trước khi xảy ra những biến cố làm xáo động bề ngoài của Tây Tạng. Ngài đi thăm hết tu viện này tu viện khác, vì ngài điều khiển các giáo hội phụ nữ Tây Tạng.

Alexandre David-Neel cũng nói tới đức Dordjee Pagmo, còn Lafugie thì ghi lại cho chúng ta nét mặt tu hành và vẻ thông minh sắc sảo của Ngài.

Tôi đã trích dẫn trong cuốn Les Sociétés secrètes féminines (Các hội kín phụ nữ) đoạn văn mới dưới đây của bà Lafugie viết về Đức Dordjee Pagmo. Lần này bức chân dung được ghi bằng cây viết chứ không phải cây cọ:

“Chúng tôi tới một cái sân dùng làm vườn, bày những chậu kiểng bằng sứ Trung Hoa trồng các giống cúc, phong lữ thảo (géranium), mộc-tê-thảo (réséda). Chỉ leo vài bực thềm nữa là vô một phòng sáng sủa.

“Cuối phòng, một người đàn bà đầu trần, bận y phục như các lạt ma, ngồi trên một chồng năm cái nệm - nệm càng nhiều thì quyền càng cao. Hai tu sĩ đàn ông đứng sau ngài. Ngài đứng dậy, chia cho tôi một chiếc khăn choàng, theo tục lệ khi tiếp khách quý. Tôi cũng dâng ngài một chiếc khăn choàng của tôi. Ngài mời tôi ngồi xuống một chiếc ghế bành thếp vàng, đối diện với ngài. Lamba (người thông ngôn) quỳ ở phía sau lưng tôi. “Phòng đó toàn một màu đỏ. trần bằng gỗ sơn các màu rực rỡ; trên sàn đánh bóng rất kỹ, có trải những tấm nệm êm, đây một tấm, kia một tấm, trên tường treo những tấm Tang Kas(2) đẹp đẽ. Trên thành cửa sổ đặt những chậu hoa nhỏ. Không khí gần như vui vẻ, toàn thể có vẻ điều hòa.

“Đức Dordjee Pagmo đã ngồi xuống chỗ cũ; mặc dầu bận nhiều áo, thân hình mảnh mai của ngài nổi bật trên nền gấm màu da cam. Nhờ Lamba thông ngôn, tôi đáp các câu hỏi của ngài, trong khi đó ngài chăm chú ngó tôi bằng cặp mắt sắc sảo, thông minh, nhưng hiền từ.

“Người ta kê trước mặt tôi một chiếc bàn đầy chén đĩa bằng sứ rất đẹp và người ta mời tôi dùng bữa. Tôi miễn cưỡng ăn cho no trong khi nhiều khách vô yết kiến; họ quì xuống, lết tới, kẻ trước người sau, lưỡi thè ra, họ cúi hôn các tấm nệm.

Đức Dordjee Pagmo đưa tay ra ban phước cho họ; những ngón tay nhỏ nhắn trắng trong của ngài cầm một cái dải khăn nhỏ đặt lên đầu họ, dải đó sẽ dùng làm bùa phép che chở họ suốt đời.

“Ngài bằng lòng ngồi cho tôi vẽ. Tôi vội vàng bỏ ăn, vui vẻ làm việc. Các vị lạt ma tò mò quây quần chung quanh tôi, thành một vòng tròn mỗi lúc một thu hẹp lại. Tôi nghe thấy những tiếng thì thầm rồi lại im phăng phắc. Rồi Đức Dordjee Pagmo ngó bức chân dung tôi vẽ, mỉm cười, ký tên vào, trả lại tôi”.

Nghĩ tới đoạn tả Đức Yetsuma đó, tôi hỏi:

- Chắc bà ân hận lắm, không được nói chuyện với người đàn bà siêu việt đó bằng tiếng Tây Tạng mà phải dùng thông ngôn?

Bà đáp:

- Chúng tôi không cần phải nói với nhau mà tư tưởng chúng tôi cũng gặp nhau rồi. Chúng tôi đều biết vậy và cảm thấy như vậy.

Trên những cái kệ rất quý, trên những chiếc ghế đẩu bằng gỗ quý, trên những chiếc bàn, tủ cổ rất đẹp, những tượng Phật mỉm cười bí mật như theo dõi câu chuyện của chúng tôi một cách mỉa mai âu yếm.

Tôi ngạc nhiên rằng chung quanh chúng tôi có biết bao màu sắc, nét mặt, biết bao đồ vật quý như vậy mà toàn thể vẫn gây cho tôi một cảm tượng thanh thoát, gần như trơ trụi, trống rỗng.

Tôi hỏi:

- Nhưng ngoài ba lần qua Tây Tạng và những lần thăm các tu viện ở Nhật Bản, bà còn đi thăm nhiều nơi khác nữa chứ?

Bà đáp rõ ràng, tỉ mỉ:

- Dĩ nhiên! Tôi đã ngồi ngựa, một mình với đoàn phu của tôi, đi khắp các đường mòn trong rừng Miến Điện. Tôi cũng theo cách đó mà băng qua khu rừng hoang vu ở bắc Thái Lan để xuống Bangkok. Rồi tôi đi ngược lên tới cực bắc nước Lào để xuôi dòng sông Cửu Long. Ngồi trên những bè tre mà vượt những cái thác nổi danh trên con sông đó.

Phong cảnh Lào đẹp mê hồn, tôi quyến luyến không sao rời được. Rồi tôi đi từng chặng nhỏ qua xứ Mọi, đem về được một tập chân dung quý báu vẽ đủ các giống người miền núi mà tôi đã gặp. Các bộ lạc đó rồi đây sẽ tiêu diệt lần lần và những bức vẽ của tôi do đó sẽ có một giá trị lớn về nhân chúng học... Để tôi nhớ lại xem còn đi qua những nơi nào nữa? Thung lũng Vân Nam đẹp vô cùng cũng đã làm cho tôi mê! Bắc Kinh cũng vậy... Không có một đô thị nào đẹp bằng!... Tôi tới quần đảo Hạ Uy Di, tất các đảo trên Thái Bình Dương, Indonésia, Mã Lai... ở Bornéo tôi đã thấy những người Dayak cuối cùng, bọn săn đầu người đó.

- Bà đã lại gần được họ để vẽ họ sao?

- Dĩ nhiên. Tôi cũng hành động như ở các nơi khác: tôi cứ ngồi xuống vẽ và họ luôn luôn để mặc cho tôi vẽ. Tuyệt nhiên không có một người nào làm khó cho tôi cả. Thế rồi các cánh cửa dễ dàng mở ra đón tôi, dù là cánh cửa một lâu đài, một ngôi

đền hoặc một cái chòi tồi tàn. À có. Có một lần xảy ra một vụ rắc rối. Lần đó ở Tây Tạng. Thường thường, khi tôi phác họa các lạt ma mà các vị ấy nhận ra được chân dung của mình thì các vị ấy thích lắm. Nhưng lần đó, trong một tu viện nọ, các vị ấy thấy bức vẽ giống quá đâm ngại, tưởng rằng tôi sẽ cướp mất hồn của họ. Nhưng thượng cấp của họ giảng giải cho họ vững lòng và thế là êm, cũng như ở các nơi khác.

- Bà đã gặp những trở ngại nào lớn nhất?

- Để tôi nghĩ lại xem... Tôi chưa hề gặp một trở ngại nào về phía các thổ dân cả. Dĩ nhiên tôi đi đâu cũng phải mang theo nhiều tiền: Không bao giờ tôi bị ăn cắp cả. Tôi bận toàn y phục đàn ông; không bao giờ mất mát một chút gì. Không, quả thực là không bao giờ tôi gặp nổi khó khăn với các thổ dân. Chỉ khi nào tôi tới các thị trấn là bắt đầu gặp nỗi khó khăn, phần nhiều là với người da trắng... thời đó, bọn da trắng uy thế lớn lắm. Bây giờ thì hết rồi. Nhưng mãi tới năm 1940, những người da màu, tôi muốn nói những người chất phác, vô học, còn tin rằng không thể giết người da trắng được, đao búa không làm họ bị thương được. Nhưng rồi người ta dùng bọn người da màu đó để giết nhau và bọn người này nhận thay rằng viên đạn không biết phân biệt giai cấp, màu da. Kế đó, người Nhật truyền bá lòng câm phẫn người da trắng, họ dùng một câu rất bình dị để tuyên truyền, chứng minh rằng da vàng hơn da trắng. Họ phái những người khéo ăn khéo nói đi vào khắp các làng xóm thôn quê, tụ họp dân chúng lại, chìa ra những quả trứng sống, đập bể nó ra rồi hỏi: “Lòng trắng hay lòng vàng ngon?. Lòng vàng. Vàng thì ăn, còn trắng thì đổ xuống đất”. Vừa nói họ vừa húp lòng đỏ quả trứng mà liệng bỏ lòng trắng. Việc đó xảy ra trong những năm 1939, 40, 41. Lối tuyên truyền đó có lẽ chất phác quá, nhưng vì giản dị mà đập mạnh vào óc các người quê mùa và đạt được mục đích.

Người Nhật lúc đó có tiên cảm rằng người phương Tây sẽ thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki không nhỉ?

- Sau khi gặp các bộ lạc Dayak, bà còn đi đâu nữa?

- Đi thăm quần đảo La Sonde và nhất là Bali. Rồi tôi trở về Ấn để chuẩn bị một cuộc viễn du qua Ba Tư, Liban, Syrie, cuối cùng tới Jerusalem... Tôi thành gia thất vào cái thời đó. Nhà tôi là một nhà chuyên môn tìm mỏ và làm ở tòa đại sứ Pháp ở Bắc Thái Lan. Mà lúc đó quân đội Nhật xâm chiếm Thái Lan. Chúng tôi ở một nơi tưởng rằng có thể được yên ổn, nhưng chúng tôi là người Pháp trước hết và đã có nhiều lần tỏ rằng mình là người Pháp, vì vậy mà bị người Nhật bắt nhốt khám. Không có trái bom Hiroshima thì chúng tôi đã bị chúng bắn chết rồi.

- Tôi hỏi câu này, bà thứ lỗi cho nhé. Ít nhất là trước khi cuối, làm sao bà có đủ tiền để đi du lịch khắp nơi như vậy? Tiền đâu để mua sắm các hành trang, dụng cụ?

- Lúc đó tôi đã có tiếng tăm, báo chí phương Đông nhắc đến tôi, thuật những hành trình của tôi, khi thì đi bộ, khi thì cưỡi ngựa, hoặc ngồi thuyền độc mộc, mỗi khi đi thăm một miền nào về, tôi tổ chức các cuộc triển lãm, các buổi diễn thuyết, thu được đủ số tiền cần dùng rồi, tôi lại đi nữa. Chẳng hạn từ Thượng Miến Điện, tôi dự tính đi xuống Bangkok, một chuyến như vậy là vừa, mà theo cách đi của tôi thì mất chừng sáu tháng. Tới Bangkok tôi triển lãm, diễn thuyết rồi lại tổ chức cho chuyến đi sau. Cứ như vậy... Tôi lấy làm tự đắc về điều đó lắm: tự kiếm lấy tiền để sống cuộc đời mình đã lựa, như vậy trong ba chục năm, giỏi đấy chứ. Tôi nghĩ rằng ít có người đàn ông nào làm được như vậy, phải không bà?

- Lập gia đình rồi, bà chấm dứt cuộc đời lang thang đó chứ?

- Dễ không! Chúng tôi vừa mới cưới nhau xong là đã khăn gói lên đường thăm Thái Lan, Miến Điện, Trung Hoa, rồi tới miền mà hồi đó còn gọi là Đông Dương, sau cùng tới Xiêm(3). Chính ở đây, như tôi đã nói, vợ chồng tôi bị người Nhật bắt.

- Bà về Pháp hồi nào?

- Năm 1946. Nhưng sau đó chúng tôi đã qua Tích Lan, Hoa Kỳ. Cũng như trước, tới những nơi đó, tôi cũng triển lãm và diễn thuyết.

- Bà thích Hoa Kỳ không?

- Thích lắm chứ. Hễ nói tới cái gì liên quan với phương Đông là người Huê Kỳ mê liền. Tôi thấy họ rẩt niềm nở, hiếu khách, ân cần, nhã nhặn.

Câu chuyện lý thú nên tôi thấy thì giờ đi qua mau quá. Nhưng tôi vẫn còn một câu hỏi nữa.

- Tại những nước phương Đông mà bà đã đi qua, bà thấy phụ nữ nước nào dễ thương nhất?

- Phụ nữ Ấn Độ. Ngay những bà những cô trong các giai cấp cao nhất cũng không có một vẻ nào là kiêu căng, mà trái lại rất tự nhiên. Rất tự do, cởi mở. Tôi vô những lâu đài lộng lẫy của họ để vẽ chân dung cho họ. Tôi đã sống suốt mấy mùa đông với họ trong cái khung cảnh Ngàn lẻ một đêm. Rồi tới mùa hè, tôi lại trở về cái lều của tôi, như một dân du mục... Một hạng phụ nữ nữa làm cho tôi rất chú ý tới: hạng phụ nữ Tây Tạng đa phu.

- Họ đa phu có phải vì trai thiểu gái thừa không?

- Tuyệt nhiên không, vì số đàn ông và đàn bà gần ngang nhau. Chính vì vắng đàn ông thì phải hơn. Một ông làm chủ một bầy cừu phải vắng nhà nhiều tháng đằng đẵng vì phải dắt cừu đi rất xa, từ bình nguyên này đến bình nguyên khác: một người trong một thương đội chở len qua Ấn Độ bán, cũng phải xa nhà hằng mấy tháng; mà khách sạn lại không có. Họ phải ở trọ trong một gia đình nào đó mà chính người chủ gia đình cũng lại thường đi xa như họ. Chỉ có mỗi một căn cho mọi người. Rồi cái gì phải xảy ra tự nhiên sẽ xảy ra, nhưng một cách rất đàng hoàng đấy nhé. Trẻ con rất được yêu quý và chỉ nghe lời mẹ thôi, vì chính người mẹ mới thực sự làm chủ trong nhà. Ngôn ngữ Tây Tạng không có tiếng “cha” nữa, chỉ có tiếng “cậu” mà tiếng này trẻ dùng để gọi mọi người đàn ông.

“Những người đàn bà đó thường là những nữ chủ thông minh, rất hiểu bổn phận của mình đối với chồng, con và người ở. Họ để mặc cho đàn ông lo các việc mua bán ở ngoài. Ra khỏi nhà, người đàn ông hoàn toàn tự do, mà ở trong nhà thì người đàn bà làm chủ, hễ quyết định điều gì thì chồng nghe răm rắp...

“Có lẽ, thời buổi mới này đã làm hoặc sẽ làm cho sự tình đó thay đổi... Ngay châu Á cũng đương biến đổi rất mau”.

Rồi cũng nhận định như Alexandra David-Neel, bà Lafugie nói thêm:

- Nhưng không phải là lần này là lần thứ nhất mà Tây Tạng bị Trung Hoa xâm chiếm đâu; sự thật thì người Trung Hoa vẫn chính thức làm bá chủ Tây Tạng mặc dầu cho tới khi xảy ra những biến cố vừa rồi, họ để cho Đạt lai lạt ma và Ban thiền lạt ma hoàn toàn gánh lấy trách nhiệm về phần linh hồn dân tộc Tây Tạng...

Tin tức mới rồi cũng cho hay rằng Trung Hoa sẽ bỏ Lhassa mà lại đóng ở một thị trấn mới ở gần Lhassa, thị trấn đó sẽ là kinh đô hành chánh của Tây Tạng.

Như vậy có nên đoán phỏng rằng họ sẽ cho phép mọi người vô cấm thành đầy những kỳ diệu, bí mật đó không? Ai mà biết chắc được?

Trên đường La Tour, ánh chạng vạng đã vào các cửa sổ mở rộng, làm cho nét mặt trên các bức chân dung đã mờ mờ trong bóng tối.

Đã tới lúc phải cáo biệt.

Chú thích:

(1) Một giống người thời cổ ở Syrie và Mésopotamie, người Do Thái thuộc giống đó.

(2) Chúng tôi không tra được tiếng này, chắc là một tiếng Tây Tạng phiên âm theo Pháp.

(3)Bà Lafugie có lầm không? Thái Lan với Xiêm chỉ là một, xưa gọi là Xiêm, nay gọi là Thái Lan.