TINH THẦN GIA TÔ GIÁO
Xinppelelto giả thú tội và đánh lừa một vị giáo sĩ. Sau khi suốt đời đã là một tên kẻ cướp tệ hại nhất, đến lúc chết y trở thành một vị thánh: người ta gọi y là Thánh Xiappenletto.
(Păngfin kể chuyện).
Các bạn rất thân mến, để mở đầu bất cứ công việc gì của con người, ta nên viện tới Đấng Sáng tạo vũ trụ, dưới cái tên chí lý và chí tôn người ta tặng người. Bởi vì tôi được khai mạc loại truyện ngắn, tôi sẽ xin mở đầu bằng một phép màu của Chúa. Tôi có chủ định gắn, trên một cơ sở vững chắc, lòng mong đợi mà chúng ta đặt vào Đấng Chí Tôn. Tên của Người phải được chúng ta sùng kính mãi mãi.
Vạn vật trên thế giới này bản chất vốn tạm thời và phải chết thì lẽ tất nhiên vạn vật, trong bản thân và ngoài bản thân, đều là mầm gây nên buồn phiền, lo lắng hay khổ cực và phải chịu ngàn nỗi gian nguy. Do đó, điều tất yếu là sống hòa vào vạn vật như một phần của toàn thể, chúng ta sẽ không thể nào duy trì sự giải thoát lâu được, nếu như Chúa, bằng một thánh sủng rất đặc biệt, đã không ban cho chúng ta sức lực và trí tuệ. Nhưng buộc phải chấp nhận một chân lý, Chúa không ban cho ta những năng lực ấy để thưởng một công đức nào của chúng ta cả; tự lòng tốt của Người ban cấp chúng cho ta, và ta cũng cầu xin được chúng qua những lời cầu khẩn của những người, xưa kia cũng là phàm trần như chúng ta, nhưng vì vâng theo ý muốn tối cao, nên bây giờ đã tìm thấy ở trên trời, sự vĩnh cửu và hạnh phúc. Các vị được ưu đãi này, do kinh nghiệm đã biết sự yếu đuối của ta, chúng ta trao cho họ như cho những người ủy quyền, việc chăm lo những gì cho là lợi ích của ta, và chúng ta gửi họ những lời tự cầu khẩn - tới vì lòng sợ hãi đã không cho phép ta tự cầu khẩn - tới vị Quan tòa Tối cao. Điều này càng tỏ rõ hơn nữa lòng từ bi rộng rãi của Chúa đối với chúng ta. Con mắt phàm trần của chúng ta khó có được đủ các sắc sảo để hiểu những lời khuyên nhủ thầm kín của Thượng đế. Có thể, vì bị dư luận đánh lừa, chúng ta trình trước Đấng Chí tôn một người được ủy quyền đã bị vĩnh viễn đầy xuống địa ngục. Tuy nhiên, không có cái gì che giấu được Chúa! Người quan tâm tới những ý định trong sáng của kẻ cầu khẩn, hơn là đến sự dại dột của anh ta, hoặc đến tội lưu đày của kẻ trung gian bị kết án. Do đó, Người chấp nhận những lời cầu xin cho kẻ không được chia sẻ cảnh cực lạc của Người. Truyện ngắn tôi sắp kể với các bạn là bằng chứng nổi bật của việc này, dĩ nhiên không phải là nổi bật đối với Chúa, mà đối với lời xét đoán của con người. Xuất thân là nhà buôn giàu và có thế lực. Muyxiattô Frăngzêxi được cất nhắc ở Pháp lên hàng hiệp sĩ. Ông phải đi sang Tôxcan theo Saclơ - không - đất, hoàng đệ của nhà vua Pháp, do giấy triệu tập của Giáo Hoàng Bônifaxơ. Thấy các công việc của mình ở khắp nơi đang rất bê bối - điều đó không có gì là lạ đối với một người ở địa vị như ông - và vấp phải những khó khăn không thể giải quyết nhanh được, theo người ta nói, ông tính chuyện giao phó các công việc đó cho nhiều người. Đâu đâu ông cũng lo thu xếp, nhưng ông do dự chọn một người quản lý có khả năng thu hồi nhiều vốn bị mắc ở Buôcgôhơ hay sinh chuyện, xảo trá, quay quắt. Nhưng lục trong trí nhớ, ông không tìm ra một tên ba que của họ. Ông suy nghĩ lâu về chuyện đó, và sau cùng, nhớ ra một tên Xepparenlô đa Pratô thường đến Pari luôn và ở nhà ông. Đó là một người thân hình bé nhỏ và ăn mặc khá cầu kỳ. Vì không hiểu nghĩa chữ "Xepparenlô", và tướng theo tiếng nước mình. chu đó nghĩa là "Cappen- lô", tức là "sapen", những người Pháp, vì thấy thằng cha người nhỏ nhắn gọi tên y không phải là "Cappen-lô", mà là "Xiappenlettô"; đâu đâu người ta cũng gọi y dưới cái biệt hiệu ấy, là rất ít người biết Xeppa- renlô".
Có phải mô tả với các bạn cách sinh hoạt của Xepprenlô không nhỉ? Xuất thân làm thương khế. y xấu hổ nhất khi nào một trong các tờ giao kèo của y (vả chăng y làm ít thôi) lại không phải là thứ giả mạo. Về mặt gian lận, lòng ham thích của y thật vô bờ bến. Y có thể làm giấy tờ giả không lấy công và còn thích thú hơn là được trả công hậu hĩ. Bịa ra những bằng chứng giả là điều khoái trá nhất của y, dù y có được yêu cầu hay không. Vì hồi bấy giờ người Pháp rất coi trọng các lời thề, còn chính y thì lại chẳng ngại phản bội lời thề: nên y đã làm cho cho sự dối trá thắng cuộc trong tất cả những vụ kiện người ta yêu cầu y lấy danh dự nói lên sự thật. Y khoái trá khôn xiết và dồn cả tâm trí vào việc gây ra những đau thương, những tai tiếng và căm thù giữa các bạn thân, các thân thuộc hay bất cứ ai và càng nhìn thấy mình gây nhiều tai họa, y càng vui sướng. Khi người ta yêu cầu y giúp một tay vào một việc giết người nào hay một hành động mật của các tửu quán và các nhà chứa. Y tìm đàn bà như một con chó đi tìm roi[14] là những hơn bất cứ kẻ gian nào, y thiên về tệ thủ dâm. Y sẽ ăn cắp và cướp bóc với ý thức mà một vị thính biểu lộ trong khi cầu lễ. Thêm vào đó, y ăn tục và nghiện rượu đến mức có khi bị những hậu quả sỉ nhục; cuối cùng, y là tay cờ gian bạc lận, thò lò giảo quyệt đại tài. Nhưng cần chi kể dài dòng như thế với các bạn! Đó là tên gian ác tệ hại nhất xưa nay chưa từng thấy trên đời, ác tâm và mưu kế của y đã từ lâu được uy tín và ảnh hưởng của Muyxiattô nâng đỡ. Nhà doanh thương đã nhiều phen bênh vực y, hoặc đối với các tư nhân mà y đã luôn luôn làm thiệt hại, hoặc trước công lý mà y đang nghĩ tới. Ông biết mọi tình tiết về đời y, và cho rằng y đúng là con người cần đến để đối phó với tính độc ác của dân Buôcgônhơ. Ông gọi y đến và nói với y như sau:
- Xiappenlettô, anh chẳng lạ gì là ta sắp rút lui hẳn khỏi nơi đây. Trong nhiều việc khác, ta có những lợi tức ở Buôgônhơ, người ở đấy đặc biệt danh ma quỷ quyệt. Ta không thấy có ai đáng mặt hơn anh để thu hồi về tất cả tài sản của ta đang ở trong tay họ. Hiện giờ anh chẳng bận công bận việc gì. Nếu anh muốn giúp ta một tay, ta định xin triều đình chấp nhận anh làm đại lý, và ta sẽ cho anh một số phần trăm thích đáng về các món thu hồi. Xiappenlettô lúc này đang thất nghiệp, và kiết xác. Y trông thấy người bao lâu đã là chỗ nương tựa và cứu tinh của y giờ ra đi. Y không phải nghĩ ngợi gì lâu để quyết định, là rút cục bị tình thế bó buộc thúc bách, y vội vàng nhận lời. Hai người bèn làm giao ước. Xiappenlettô nhận một giấy ủy quyền và các chứng thư của nhà vua ủy nhiệm y. Y từ biệt Muyxiattô và đi Buôgônhơ nơi có thể nói là không ai biết y. Ở đấy, trái với bản tính, y bắt đầu thu hồi tiền nong và làm nhiệm vụ mình một cách từ tốn khoan hòa. Hẳn là y để dành đến lúc cuối cùng mới ra tay sát phạt. Trong khi làm việc như thế, y đã định trú sở ở nhà hai thầy tu người xứ Flôrăngx, lập nghiệp ở đây bằng nghề cho vay nặng lãi, và rất quí trọng y, vì nể ngài Muyxiattô. Đúng vào lúc ấy thì y mắc bệnh. Hai thầy tu vội gọi các thầy thuốc và y tá đến bên giường y, và không bỏ qua việc gì không làm để phục hồi sức khỏe cho y. Song, mọi cứu giúp đều vô ích, vì thằng cha, theo lời của y gọi, đã già rồi và là nạn nhân của một lối sinh hoạt trác táng vô độ, bệnh tình y cứ mỗi ngày một nặng; đó là diều bình thường đối với một người bị bệnh phải chết. Hai thầy tu rất buồn bực. Một hôm, sát bên buồng Xiappenlettô ốm nằm, họ bàn nhau.
- Ta làm gì với lão này bây giờ? - thầy tu nọ bảo thầy tu kia. - Chúng mình thật đen đủi quá? Hắn đang ốm thế mà ta tống đi, mọi người sẽ chê cười hết chỗ nói và cho ta rõ ràng là nhẹ dạ, người ta đã thấy chúng mình mới đầu tiếp hắn, cho người hầu người hạ, trông nom, ân cần săn sóc, và hắn đã không làm gì thiệt hại bọn mình thế mà bỗng chốc thấy hắn ốm đến chết như vậy, mình lại đuổi hắn đi. Mặt khác nữa, hắn là một tên xỏ lá lõi đời nên chẳng chịu thú tội đâu, cũng không chịu một lễ nhỏ nào của nhà thờ. Nếu hắn chết không thú tội, sẽ chẳng có giáo khu nào nhận xác hắn; người ta sẽ quẳng hắn như một con chó xuống hào. Nếu hắn chịu thú tội mà lương tâm hắn có biết bảo là tội, và rất ghê gớm, thì cũng thế thôi. Thầy tu nào hay giáo sĩ nào lại muốn hay có thể tha tội cho hắn. Không được tha tội, hắn cũng sẽ bị quẳng xuống hào, như thế thôi. Vì cái nghề của chúng mình: mà người ta chê là bất lương, và nói xấu cả ngày, vì người ta thèm cướp bóc chúng mình, dân xứ này lúc đó sẽ đồng tình muôn người như một nhảy xô vào chúng mình, mà kêu la hò hét: "Những tên chó Lôngbacđi này, mà nhà thờ không muốn nhận, không nên chịu đựng chúng nữa". Người ta sẽ đổ xô đến nhà chúng mình. Và có lẽ, không những người ta liền lấy tài sản của chúng mình, mà lại còn giết mình nữa. Dù thế nào đi nữa chúng mình cũng sẽ gặp khó khăn nếu hắn chết. Chúng ta đã nói là Xiappenlettô nằm gần cho hai người nói chuyện. Y rất thính tai, như trường hợp nói chung của những người ốm. Y nghe các lời lẽ mà y là đối tượng; y cho gọi hai thầy tu và bảo họ:
- Tôi không muốn hai thầy sợ hãi chút nào về tôi. Các thầy cứ yên lòng; các thầy sẽ không bị thiệt hại gì hết. Tôi đã nghe những lời các thầy nói về tôi. Tất nhiên, nếu sự việc đi theo chiều các thầy đoán thì những lo sợ của các thầy sẽ là đúng thôi. Sống mọi sự việc sẽ khác hẳn. Trong đời tôi đã làm hại Chúa không biết bao lần thì, trước khi chết, thêm hay bớt một cái hại có làm gì đâu. Vậy các thầy hãy cố tìm cho tôi một cha, đức cha nào chí thánh và uyên bác nhất, các thầy có thể tìm được, nếu có người như thế và cứ để mặc tôi xử trí. Tôi hứa với các thầy sẽ thu xếp chu đáo công việc của các thầy và của tôi, khiến mọi sự sẽ như ý, và các thầy sẽ hài lòng.
Không đặt hy vọng gì lớn vào những lời hứa hẹn như thế, hai người cho vay nặng lãi cũng cứ tìm đến trụ sở một giáo đoàn và yêu cầu một người chí thánh và uyên bác đến nhà mình nghe một người Lôngbacđi ốm thú tội. Người ta chỉ cho họ một tu sĩ già, đời sống trong sạch và cao quý, rất tinh thông các Thánh thư, và được tất cả dân thành phố đặc biệt tôn sùng yêu quý. Họ đưa tu sĩ về theo. Đến buồng Xiappenlettô nằm, tu sĩ ngồi bên giường y và bắt đầu nói với y những lời khuyến khích, rồi hỏi xem lần cuối cùng y thú tội cách đây đã bao lâu. Và Xiappenlettô, cả đời không thú tội bao giờ, bèn thưa:
- Thưa cha, con có lệ mỗi tuần ít nhất thú tội một lần, nếu không hơn nữa, như khá thường xảy ra. Thực ra, từ khi con ốm nghĩa là từ tám hôm nay, con chưa thú tội vì nỗi đau đớn đã gây cho con quá nhiều phiền muộn.
Tu sĩ nói:
- Con ơi, con đã làm đúng, và từ nay con cứ nên làm như thế. Vì con năng thú tội, nên ta thấy những câu nói của ta và lời đáp của con sẽ không làm cho ta phải vất vả.
- Thưa cha, xin cha đừng nói thế. Dù con năng thú tội như vậy con vẫn cứ muốn tổng kết lại tất cả những tội lỗi mà con nhớ đã phạm phải từ ngày con ra đời cho đến ngày thú tội cuối cùng của con. Vậy xin cha cứ hỏi con về mọi chuyện. cũng hệt như thể con chưa thú tội bao giờ. Xin cha đừng nương nhẹ vì bệnh tình của con. Con rất muốn hành hạ cái xác thịt hèn hạ này, còn hơn là ở với nó một sự gượng nhẹ nào có thể làm con mất linh hồn, cái linh hồn mà Chúa cứu thế của con đã chuộc lại bằng máu quý hóa của người.
Những lời đó làm vị thánh nhân rất vui lòng và ông thấy hình như đó là bằng chứng của một đầu óc lành mạnh, ông căn dặn Xiappenlettô hãy kiên trì giữ những thiện ý ấy, và bắt đầu hỏi y xem đã có bao giờ mắc tội dâm dục với một người đàn bà không. Thế là Xiappenlettô thở dài não nuột:
- Thưa cha, con xấu hổ thưa với cha sự thật về việc này, vì sợ phạm tội kiêu hãnh.
- Con hãy nói không rào đón gì. Khi người ta nói thực, người ta không phạm tội bao giờ, dù là ở nơi thú tội hay nơi khác.
- Vì cha đã khiến con yên tâm về điểm đó, con sẽ xin thú với cha; con cũng trong sạch như ngày con ở bụng mẹ con ra.
- Cầu Chúa ban phúc cho con, ta sẽ kêu lên! Con đã làm rất phải! Sự dè dặt ấy càng đáng khen, vì nếu con muốn, con đã có nhiều dịp mắc tội hơn bọn chúng ta, cũng như tất cả những ai bắt buộc phải theo phép thánh.
Sau đó tu sĩ hỏi người sám hối xem y có làm phật ý Chúa về khoản ăn tham không, Xiappenlettô thú tội với một tiếng thở dài hơn. Có, y thường mắc tội luôn: vì có thói quen - ngoài tuần chay, mà những người sùng tín đều theo trong năm - chỉ ăn bánh mì với nước ít nhất ba ngày một tuần y đã ngốn nước - nhất là khi hành hương hay những lần cầu nguyện lâu làm y mệt - với lòng thèm khát dữ dội như kẻ nghiện rượu nặng thèm rượu. Ngoài ra nhiều lần y đã thèm những búp xà lách non mà đàn bà đi hái ngoài đồng. Cuối cùng, sự ăn uống đã đôi khi có vẻ là ngon lành quá mức phải lẽ đối với một người như y, vì sùng tín mà ăn chay.
- Con ạ, - vị giáo sĩ đáp lời y, - những tội đó là chuyện thường, và rất là nhẹ. Ta không muốn chúng đè nặng lên lương tâm con quá mức. Dù sống chí thành đến đâu, người nào cũng có thể thấy dễ chịu được ăn sau một hồi nhịn lâu và được uống khi mình mệt.
- Ôi! Thưa cha, xin cha đừng nói vậy để an ủi con. Xin cha biết cho rằng, không phải con không biết việc thờ Chúa bao giờ cũng đòi hỏi những tình cảm trong sạch, và không chấp nhận một vết hoen ố nào trong tâm hồn. Không giữ mình được như thế là mắc tội.
Vị tu sĩ sướng như lên mây xanh.
- Ta sung sướng được thấy ở con những tình cảm như thế. Lương tâm trong sạch và tốt đẹp của con khiến ta rất vui mừng. Nhưng này con, con có mắc tội hà tiện, vì quá ham muốn cầm hay giữ không mà không muốn phải cho không?
- Thưa cha, con không muốn việc con có mặt ở nhà những người cho vay nặng lãi này có thể ảnh hưởng tới xét đoán của cha. Con không dính líu gì với họ. Chủ ý con, khi đến đây, là quở trách họ, mắng bảo họ, dứt họ ra khỏi những lời nói đáng ghét của họ. Con nghĩ rằng con sẽ đạt được mục đích, nếu Chúa đã không tới thăm con như thế này. Nhưng, mong cha cũng hiểu rõ rằng cha đẻ con đã để lại cho con một tài sản lớn. Khi cha con qua đời, vì kính Chúa, con đã ban phát quá nửa số gia sản này. Rồi, để kiếm sống và giúp đỡ những người nghèo của Chúa Giêxu, con đã buôn bán lặt vặt, và nếu con cảm thấy mình hám lời, con vẫn luôn luôn chia sẽ lời lãi của con với những người nghèo của Chúa, dành nửa phần cho các nhu cầu của con, và đem cho nửa kia làm của bố thí. Về mặt ấy Đấng Sáng tạo đã nâng đỡ con rất nhiều, nên việc buôn bán của con bao giờ cũng ngày càng phát đạt.
- Làm thế là rất tốt - tu sĩ nói. - Nhưng làm sao con lại có thể hay nổi giận như vậy?
- Con thú với cha là con hay nổi giận. Nhưng làm thế nào kìm giữ được, trông thấy người đời làm những việc đê mạt từ sáng đến tối, nhạo báng những mệnh lệnh của Chúa và không sợ những phán xét của Người? Hàng ngày con nhiều lần chỉ muốn chết hơn là sống, khi thấy thanh niên đi tìm những cái hão huyền như thế và bội lời thề, chạy khắp các quán rượu, trốn các nhà thờ, và theo cách sống của thế tục đúng hơn là sống theo Chúa.
Thế là tu sĩ bèn nói:
- Đó là một sự nổi giận thánh thiện, con ạ, và ta không thể vì thế mà bắt con sám hối được. Nhưng sự giận dỗi ấy lỡ có khi nào đưa con đi tới cho phạm tội giết người, lăng mạ một người nào, hay phạm một sự bất công nào khác không?
- Ôi thưa cha! Con thấy cha là người của Chúa, làm sao cha lại có thể nói những lời như vậy? Nếu con đã có ý nghĩ xấu làm bất cứ điều gì trong những điều cha nói thì theo cha con làm sao trông đợi được Chúa giúp đỡ? Điều đó chỉ tốt cho những tên đểu cáng và những kẻ vô lại, những hạng người mà hễ gặp bao giờ con cũng bảo nó: " Xéo đi cầu Chúa cải tà qui chính cho mi."
Thế là tu sĩ nói:
- Con ơi, hãy cho ta biết. - và cầu Chúa ban phúc cho con! - Có bao giờ con làm chứng gian để hại ai không, nói xấu ai, hay cướp đoạt vật gì của chủ nó mà người chủ không ưng thuận không?
- Có thưa cha, con đã nói xấu người khác, con có một người láng giềng, anh ta hay đánh vợ mà chẳng có một lý do nhỏ nào đáng kể. Một lần, con đã nói xấu về hắn với cha mẹ của người vợ. Con quá thương hại cô vợ tội nghiệp! Cứ mỗi lần hắn say rượu, hắn lại hành hạ cô ấy như... để Chúa khiến cha hiểu?
- Được rồi. Nhưng con nói với ta rằng con đã là nhà buôn, con có bao giờ lừa dối ai theo thói quen của các nhà buôn không?
- Thưa, có ạ, của đáng tội. Nhưng ai? Con không biết nữa. Con đã nhận tiền trả cho con về một số dạ bán đi, và con bỏ tiền vào một cái hòm mà không đếm. Một tháng sau, con mới thấy là tiền thừa ra bốn xu. Con không gặp lại người khách hàng của con nữa. Con giữ tiền một năm ròng để trả lại người ấy, rồi mới đem nó làm của bố thí, vì lòng yêu kính Chúa.
- Chuyện nhỏ! Và sau đó, con đã làm đúng.
Vị tu sĩ chí thánh còn hỏi nhiều câu nữa, lời đáp đại khái cũng như thế. Nhưng khi ông sẵn sàng làm phép giải tội thì kẻ sám hối bỗng kêu lên:
- Thưa cha, còn một tội nữa mà con chưa nói với cha!
- Tội gì? - Tu sĩ hỏi.
Và Xiappenlettô:
- Con nhớ lại một ngày Chủ nhật, sau giờ quá ngọ, con đã sai người ở quét nhà, và đối với ngày thánh của Chúa con đã không có tất cả sự kính trọng đáng lẽ phải có.
- Ồ, con ạ, tất cả những chuyện ấy không có gì là quan trọng lắm.
- Không, không, xin đừng nói như vậy. Ngày Chủ nhật đáng lý phải được tôn trọng hết sức. Chính vào ngày đó Chúa chúng ta hồi sinh từ cõi chết.
Thế là tu sĩ nói:
- Có làm điều gì khác nữa không?
- Có, thưa cha. Một lần sơ ý, con đã nhổ ở nhà thờ của Chúa.
Tu sĩ bắt đầu mỉm cười.
- Con ạ, con chả đáng băn khoăn chuyện đó. Chúng ta là những người tu hành, chúng ta nhổ ở đấy cả ngày.
- Và các người làm thế là nhơ nhuốc lắm. Không có nơi nào phải giữ sạch sẽ cho bằng Thánh đường là nơi người ta dâng lễ lên Chúa.
Tóm lại Xiappenlettô thú ra nhiều tội đại loại như thế. Sau cùng, y bắt đầu thở dài, rồi khóc nức nở, như một diễn viên lúc nào muốn là tự khắc đóng kịch được. Và vị tu sĩ chí thánh:
- Vậy con có điều gì hở con?
- Hỡi ôi? Thưa Cha. Con đã quên một tội mà con chưa hề bao giờ thú, vì thú ra con xấu hổ quá. Mỗi khi nó trở lại trí nhớ con lại khóc, như cha thấy. Và con nghĩ rằng chắc chắn Chúa sẽ không thương con về tội đó.
- Thôi đi, con. Con nói gì? Nếu tất cả những tội lỗi, mọi người phạm phải từ trước cho đến bây giờ, hoặc sẽ phạm, chừng nào thế giới sẽ cứ là thế giới, đè nặng lên lương tâm một người duy nhất thôi, và người ấy tự buộc tội và ăn năn như ta thấy con làm đây thì Chúa là đấng khoan dung đại độ sẽ rộng lượng tha thứ cho người đó nếu người đó chịu thú nhận. Vậy con cứ nói thực.
Bấy giờ Xiappenlettô, mắt vẫn ướt:
- Hỡi ôi! Thưa cha. Tội này to quá. Và không có cha kêu cầu giúp cho, con khó tin được rằng Chúa có bao giờ tha thứ cho con được. - Con cứ hết lòng tin tưởng nói ra đi. Ta hứa với con sẽ cầu xin Chúa cho con.
Nhưng Xiappenlettô, mặc dù những lời khuyên khích của cha, vẫn khóc và lặng im. Nước mắt y hồi lâu làm chững lại sự chú ý của cha nghe tội. Cuối cùng, y thở dài não nuột:
- Cha ơi, vì cha hứa cha cầu xin Chúa cho con nên con sẽ nói tội của con với cha. Vậy xin cho hãy biết cho rằng hồi còn trẻ, một hôm con đã báng bổ tên mẹ con.
Nói xong y lại bắt đầu khóc, nước mắt tuôn trào như từ một con suối. Và tu sĩ nói:
- Ôi con ơi! Con coi đó là một tội lớn đến thế ư? Người đời báng bổ Chúa suốt ngày, và người ta dễ tha thứ cho kẻ nào ăn năn rằng đã báng bổ người. Và con không tin rằng Người sẽ tha thứ cho con lỗi đó ư? Con đừng khóc, hãy lấy lại can đảm, và hãy tin chắc rằng, dù con có tham gia vào việc đóng Người lên cây chữ thập, Người cũng sẽ tha thứ cho con, trước sự ăn năn mà con đã biểu lộ.
- Hỡi ôi! Thưa cha, cha nói gì vậy? Bà mẹ hiền từ và yêu thương của con, bà đã mang con, ngày cũng như đêm, chín tháng trong lòng? Bà đã hơn trăm lần nâng niu đỡ cho con cưỡi lên cổ bà! Báng bổ như vậy thực là khủng khiếp. Tội ấy to lớn quá! Nếu cha không đứng ra kêu xin Chúa cho con. Người sẽ không bao giờ tha thứ.
Thấy Xiappenlettô không còn gì nói nữa, tu sĩ làm phép giải tội rồi ban phúc cho y. Ông coi y như một người chí thánh chí thiện, và hoàn toàn tin những lời thú tội của y, và nghe những lời như thế ở miệng một người sắp chết thì ai mà không bị lừa cho được? Sau hết ông bảo y.
- Được Chúa phù hộ, Xiappenlettô ạ, ít lâu nữa con sẽ khỏi thôi. Tuy vậy, nếu ngẫu nhiên Chúa gọi cái linh hồn được ban phúc của con và đang rất sẵn sàng ra đi để về với Người thì con có nhận để cho thi hài của con được chôn trong giáo phận của chúng ta không?
- Thưa cha, vâng. Con sẽ không muốn nó ở nơi khác bởi vì cha đã hứa kêu cầu Chúa cho con. Vả lại, đối với người rất vui mừng về ý nghĩ ấy, rằng Xiappenlettô có lý, và người ta sẽ làm các lễ thánh cho y, ngay sau đó người ta đã làm.
Hai người cho vay nặng lãi, trước kia thực sự là sợ bị Xiappenlettô lừa bịp, đã đứng nấp sát vào tim vách ngăn căn buồng người sắp chết nằm với phòng bên cạnh. Lắng tai nghe nên họ nghe rõ tất cả những lời Xiappenlettô nói với tu sĩ. Những lời thú tội của y khiến họ cười rũ rượi, thậm chí mấy phen tưởng đến vỡ bụng. Họ bảo nhau:
- Thằng cha ghê thật! Tuổi già, bệnh hoạn, nỗi sợ cái chết đến gần, nỗi sợ Chúa, mặc dầu y sẽ ra trước tòa án của Người trong giây lát, không gì có thể làm lay chuyển sự tàn ác của y, không vì có thể ngăn y muốn chết như y đã sống.
Nhưng khi nghe người ta hứa cho y được chôn ở nhà thờ thì họ không còn quan tâm đến điều gì khác nữa. Ít lâu sau khi Xiappenlettô thú tội, và mặc dầu đã báng bổ Thượng đế hết mức y vẫn nhận lễ Xức Dầu tháng. Ngay hôm thú tội đẹp đẽ ấy y chết vào sau giờ nhập mộ một chút. Tự lo liệu mọi điều để được chôn cất tử tế hằng tiền của mình, y muốn đã bày tỏ ý của y với nhà tu yêu cầu người ta đến ban đêm coi xác, và sáng hôm sau cất xác. Hai người cho vay nặng lãi nhất nhất làm theo những lời dặn bảo. Khi nghe tin y chết, tu sĩ thánh thiện đã nhận lời sám hối của Xiappenlettô, liền nói chuyện với cha Viện trưởng, và cho gióng chuông họp tăng hội, rồi trước mặt đông đủ tu sĩ tụ họp, theo các dẫn chứng ông rút ra từ cuộc thú tội của Xiappenlettô, ông chứng minh rằng y đã là một người thánh thiện. Hy vọng Chúa sẽ thông qua y mà làm nên nhiều phép lạ, ông khẩn khoản khuyên họ nên nhận thi hài y vào giáo phận họ với tất cả niềm tôn trọng và kính tín. Cha Tu viện trưởng và các tu sĩ, vì cả tin, nghe theo ý kiến ấy. Ngay tối hôm đó, họ họp thành đoàn đi đến nhà tang lễ để canh xác y suốt đêm rất thành kính và long trọng. Và mọi người, sáng hôm sau, mặc áo trắng dài và áo lễ, sách cầm tay, đi trước là những người mang thánh giá, vừa đi vừa hát những thánh thi, họ đến đưa thi hài về nhà thờ của mình, rất oai nghiêm long trọng. Tất cả dân chúng thành phố đi theo, cả đàn ông lẫn đàn bà. Người ta đặt linh cữu trong nhà thờ. Vị tu sĩ thánh thiện đã nghe thú tội bước lên giảng đàn, và bắt đầu hết lời ca ngợi cuộc đời của con người đã sám hối với mình, về việc anh ta ăn chay giữ mình thanh tịnh, giản dị, ngây thơ và thánh thiện. Giữa nhiều điểm khác, ông nhắc lại câu chuyện Xiappenlettô, nước mắn giàn giụa đã thú với ông cho đó là tội lớn nhất của đời mình, ông nói ông đã phải vất vả hết sức mới khiến được y tin rằng Chúa sẽ tha thứ cho y, rồi quay lại cử tọa, ông nói rất dõng dạc:
- Còn các người, - ông quát. - các người, những kẻ bị Chúa nguyền rủa, chỉ còn một cái rơm cái rác làm vướng chân là đủ cho các người báng bổ Chúa, Đức mẹ Đồng trinh và tất cả các vị thánh trên thiên đường!
Tu sĩ còn nói dài về lòng chân thực và trong sạch của nhân vật. Tóm lại, một diễn văn như thế được lòng tin hoàn toàn của mọi người trong xứ. Những người dự lễ một mực sùng kính Xiappenlettô khiến sau buổi lễ, mọi người chen chúc xô đẩy nhau không thể tưởng tượng được. Tất cả đổ xô đến hôn tay và chân của con người cực lạc. Người ta giằng giật hết quần áo trên thi hài. Họ hết sức sung sướng khi kiếm được dù chỉ là một mảnh rách, phải để người chết nằm đấy cả ngày, để ai ai cũng được tới viếng.
Đến chập tối, thi hài y đặt trong một lăng cẩm thạch được đưa vào một nhà thờ nhỏ với mọi nghi lễ trọng thể. Hôm sau, quần chúng xếp hàng một nối đuôi nhau viếng y, và đốt những đèn đuốc tôn thờ y. Rồi người ta gửi tới y những lời chúc tụng, và người ta treo chung quanh những tượng nhỏ bằng sáp, biểu thị những cam kết người ta đã nhận với người chết. Tiếng đồn về sự thánh thiện của y và hiện tượng y được sùng tín tăng lên đến mức bất cứ ai gặp chuyện gì rủi ro cũng đều không kêu cầu đến vị thánh nào khác ngoài y. Người ta cho rằng nhân danh ý Chúa đã làm và hàng ngày còn làm nhiều phép lạ khi người ta cần nguyện Người với hết lòng thành tín.
Vậy Xepparenlôđapratô đã sống và chết như thế y đã được thánh hóa như các bạn đã nghe nói. Có thể là - tôi sẽ không dám liều cãi lại điều đó - y có được chỗ của y giữa những người cực lạc, bên cạnh Chúa chăng? Mặc dù cuộc sống y đáng ghét và tội lỗi, y có thể, vào lúc cuối đời, đã hết lòng ăn năn, khiến Chúa chính lại thương y và nhận y vào lòng mình. Song, đó là một điều thần bí. Tôi lý luận theo các vẻ bề ngoài, và tôi cho rằng y đã sa ngã, và nằm trong tay quỷ dữ chứ không phải là ở Thiên đường. Nếu tôi nhìn đúng, người ta sẽ nhận ra rằng Chúa tỏ ra cho chúng ta là một lòng khoan từ vô cùng. Người bỏ qua sự lầm lẫn của chúng ta và chỉ coi trọng sự trong sạch của đức tin. Mặc cho ta chấp nhận làm môi giới một đệ tử của Xatăng, mà ta tin là một nhân vật của thiên đình. Người vẫn chấp nhận, lời cầu an của ta, tựa hồ ta đã cầu viện đến một vị thánh chân chính để được ân sủng ấy của Người. Và để có được cái ân sủng ấy trong cảnh tai ương hiện tại, để cho một nhóm vui vẻ như nhóm chúng ta vẫn cứ vui vẻ mãi, an toàn thoát nạn và thịnh vượng, chúng ta hãy xưng tụng Chúa bởi vì nhóm của chúng ta hình thành là nhân danh Người! Hãy sùng bái Chúa, khi cầu Người trong các nhu cầu của chúng ta! Chúng ta tin chắc rằng lời của chúng ta nghe thấu. Nói đoạn, người kể chuyện im lặng.