← Quay lại trang sách

QUỶ CỐC TỬ ÔNG TỔ CỦA PHÁI BINH GIA MƯU SĨ

Quỷ Cốc Tử là một bậc kỳ nhân thời Xuân thu chiến quốc (bên Trung Hoa).

Ở đất Dương Thành, thuộc địa phận nhà Chu có một cái hang giữa chốn núi cao rừng rậm, đầy lam sơn chướng khí, người thường khó ở được, nên gọi là Quỷ Cốc (hang quỷ). Có vị đạo sĩ sống trong hang này, đạo cao đức trọng, vừa tu luyện vừa dạy học trò, nên người đời gọi ông là Quỷ Cốc tiên sinh.

Quỷ Cốc Tử tinh thông Nho, y, lý, số, đã mở rộng và phát triển Dịch học, lại còn sáng lập các môn như: số học (gọi là Nhật nguyệt tương vĩ, thu cả trong bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau rất linh nghiệm), Binh học (Cách hành binh, bày trận khôn khéo tài tình), Du thuyết học (học rộng nghe nhiều, hiểu rõ địch ta, thấy lẽ mạnh yếu, thời và thế của mình, buông lời hùng biện, thuyết phục và cảm hóa người nghe), Xuất thế học (bảo toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, đắc đạo thành tiên).

Học trò của Quỷ Cốc Tử có những người tài giỏi như: Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Quản Lộ, Dã Hạc... đều là kỳ nhân của các triều đại.

Người đời có 36 kế, Quỷ Cốc Tử đưa ra 72 pháp (cách _ mưu) để phá vỡ 36 kế. Người ta gọi 72 phép đó là Quỷ Cốc đấu pháp tâm thuật.

Bảy mươi hai phép này, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh. “Biến sinh ra sự, sự sinh mưu, mưu sinh kế, kế sinh nghị, nghị sinh thuyết, thuyết sinh tiến, tiến sinh thoái, thoái sinh chế (chế ngự sự việc).

Quỷ Cốc Tử cho rằng thiên hạ vốn không có việc gì khó, mọi chuyện toàn là do người ta đặt ra (bày đặt), bố trí mà thôi. Chỉ cần không ngừng nghiên cứu thực tiễn, thì có thể đạt được mục đích của mình.

Tương truyền rằng Quỷ Cốc Tử họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình Công, nguyên trước ở Vân Mộng Sơn. Cùng với người nước Tống là Mặc

Địch hái thuốc tu đạo tại đấy. Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân, còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỷ Cốc.

Quỷ Cốc Tử có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở tại cõi trần? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỷ Cốc để nương mình. Ban đầu, đôi khi Quỷ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người nói những điều tốt xấu, lành, dữ đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học. Tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao. Tiên sinh ở đó không biết bao nhiêu năm, học trò đến học không biết bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại.

Bàng Quyên muốn giã từ Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói. Nhưng Quỷ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng:

- Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà lấy giàu sang?

Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng:

- Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi nầy có được hài lòng không?

Tiên sinh nói:

- Nhà ngươi đi hái một cánh hoa đem về đây để ta xem cho.

Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa. Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng nực, cây ít có hoa nở, Bàng Quyên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu, không phải là vật quí giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa. Nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng:

- Trong núi không có hoa.

Tiên sinh nói:

- Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia?

Bàng Quyên không giấu được phải lấy ra đưa trình, nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ.

Tiên sinh nói:

- Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không? Đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lần nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm. Hoa này hái ở hang Quỷ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chử quỷ (鬼) có chử ủy (委), nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy (魏).

Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ. Tiên sinh lại nói:

- Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình. Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy đừng quên: “gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo”.

Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng:

- Lời giáo hóa của Tôn Sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ.

Bàng Quyên đi rồi, Tôn Tẫn trở về núi rơm rớm nước mắt.

Tiên sinh bèn hỏi rằng:

- Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không?

Tôn Tẫn nói:

- Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau!

Tiên sinh hỏi:

- Ngươi bảo cái tài của Bàng quyên có đáng làm đại tướng không?

Tẫn nói:

- Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được?

Tiên sinh nói:

- Không làm được! Không làm được!

Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói. Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng:

- Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta.

Học trò vâng lời. Khi đến lượt Tôn Tẫn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tẫn rằng:

- Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tôn Võ Tử. Xưa kia ông ngươi đem dâng vua Hạp Lư nước Ngô. Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân Sở. Sau Hạp Lư tiếc quyển sách này, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột đài Cô Tô. Từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa. Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy, ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho.

Tôn Tẫn nói:

- Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy nhưng không ai truyền bảo cho. Tôn Sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này?

Tiên sinh nói:

- Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to. Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được.

Tẫn bèn đem về buồng nằm ngày đêm nghiền đọc. Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy sách, Tôn Tẫn đem nộp. Tiên sinh theo từng thiên hỏi lại, Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào. Tiên sinh mừng mà nói rằng:

- Ngươi biết dụng tâm như thế, tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy.

Trong khi đó ở nước Ngụy, Ngụy Huệ Vương trọng dụng Bàng Quyên làm đại tướng. Lại được Mặc Địch tiến cử Tôn Tẫn là người tài giỏi trong thiên hạ nhờ được các điều bí truyền của tổ phụ, nên Ngụy Huệ Vương lập tức đòi Bàng Quyên vào hỏi:

- Ta nghe người cùng học với khanh là Tôn Tẫn, được riêng binh pháp bí truyền của Tôn Võ Tử, tài giỏi không ai bằng, sao khanh chẳng vì quả nhân mà triệu đến?

Bàng Quyên nói:

- Hạ thần không phải là không biết tài Tôn Tẫn, nhưng nghĩ Tẫn là người nước Tề, họ hàng đều ở nước Tề, nay làm quan với Ngụy, thì tất thế nào hắn cũng coi Tề hơn. Vì vậy hạ thần không dám tiến cử.

Huệ Vương nói:

- Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ, há cứ phải người bản quốc mới dùng được ư?

Bàng Quyên nói:

- Đại vương đã muốn triệu Tôn Tẫn, hạ thần xin viết thư triệu đến.

Bàng Quyên dẫu không nói gì, nhưng trong lòng trù trừ, nghĩ thầm binh quyền nước Ngụy ngày nay ở trong tay mình, nếu Tôn Tẫn đến thì e sẽ bị cướp mất. Nhưng Ngụy vương đã bảo thì thế nào cũng phải phụng mệnh, âu là đợi khi hắn đến sẽ lập kế ngăn trở đường tiến dụng của hắn lại càng hay. Nghĩ vậy rồi viết một phong thư trình Huệ Vương xem. Huệ Vương dùng xe tứ mã và nhiều vàng ngọc, sai người cầm phong thư của Bàng Quyên đi đến Quỷ Cốc đón Tôn Tẫn. Tôn Tẫn bóc thư ra xem, đại ý nói:

“Quyên này nhờ bóng đại huynh, đến yết Ngụy Vương thì được trọng dụng ngay. Mấy lời hẹn nhau khi từ biệt, vẫn ghi nhớ bên lòng, nay đã tiến cử đại huynh lên Ngụy Vương, vậy xin đại huynh mau mau phó triều để cùng lập nên sự nghiệp.”

Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỷ Cốc tiên sinh, tiên sinh biết Bàng quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thầy, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến. Tiên sinh nghĩ rằng: Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy Vương, thôi đành cứ để cho đi vậy. Liền bảo Tôn Tẫn cũng đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ là tiết tháng chín, Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm trả ngay vào trong bình.

Tiên sinh liền đoán rằng:

- Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tính chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tàn hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người người đều quí trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một loài với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng. Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình. Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được!

Tiên sinh bèn đổi tên cho là “Tẫn”. Theo nghĩa thì chữ tẫn (臏) là cái xương bánh chè ở đầu gối, nên dùng để chỉ một loại cực hình chặt bỏ xương này đi, khiến tội nhân không thể đi được nữa.

Quỷ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị hình phạt này, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết.

Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem.

Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi.

Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mộ, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh.

Tiên Sinh nói:

- Trong đời này thực hiếm có người thông minh. Lấy cái tư chất của hai người nếu chịu kiên tâm học đạo thì có thể thành tiên, cớ sao còn muốn dấn mình vào chốn trần ai, cam để cho danh lợi hão huyền bó buộc?

Tần, Nghi đồng thanh đáp rằng:

- Gỗ tốt không chịu mục nát ở dưới tảng đá, gươm sắc không thể giấu kín trong hòm, tháng trọn ngày qua, thì giờ khôn chuộc, anh em tôi nhờ ơn thầy dạy bảo, cũng muốn theo thời mà lập công danh hòng để tiếng lại đời sau.

Tiên sinh nói:

- Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không?

Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại. Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đoán rằng: Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành, Tần gặp gỡ ngay, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng. Tiên sinh lại nói:

- Ta xem Tôn, Bàng hai người thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau. Còn hai ngươi mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay.

Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy. Tiên sinh lại đem hai cuốn sách chia tặng hai người. Tần, Nghi cùng nhìn xem thì đều là cuốn “Thái Công âm phù thiên”, bèn nói rằng:

- Sách này đệ tử đọc thuộc lòng đã lâu, ngày nay thầy lại ban cho, chẳng hay có dùng vào việc chi được không?

Tiên sinh nói:

- Các ngươi dẫu học thuộc rồi, nhưng chưa nhận hết được chỗ tinh vi. Chuyến đi này nếu chưa đắc ý thì nên đem sách này mà nghiền ngẫm lại, tất có bổ ích. Ta từ đây cũng đi tiêu dao ngoài biển, không còn ở lại nơi Quỷ Cốc này nữa.

Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi thì vài hôm sau tiên sinh cũng bỏ Quỷ Cốc mà ngao du. Có người nói tiên sinh đã lên tiên rồi.

HẾT