Chương 1
Chương 1
5 giờ đúng, Rosa, chị gác cổng người Bồ Đào Nha ở số 21 Quảng trường Edmond Rostand mở toang cánh cổng gỗ. Từ trong sảnh nhà Jonathan đứng nhìn hai người thợ chuyển chiếc tủ lạnh của mình từ trên xe tải xuống. Chị phục vụ để ý một cách lộ liễu đến vẻ đẹp hấp dẫn của người mới đến thuê nhà.
- Nhà này yên tĩnh lắm, chị nói. Tầng hai có ông bà Martin, cả hai đều là luật sư. Bà Tison chủ nhà này ở tầng ba. Bà thường ở nông thôn lâu ngày, thỉnh thoảng có mấy đứa cháu của bà đến chơi. Ngay phía trên phòng anh có một cặp vợ chồng người Mỹ, họ đã mua cả tầng năm. Cách hai tháng họ mới đến Paris. Khi nào họ đến là biết ngay: cô vợ chơi piano, nhưng không bao giờ chơi vào buổi tối.
Có tiếng động từ phía cuối sảnh. Jonathan quay lại. Cửa thang máy bật mở. Một phụ nữ châu Á hiện ra. Cô ta còn trẻ, tóc đen dài bồng bềnh trên chiếc măng tô màu đen. Cô hoàn toàn khác với những tấm hình chụp lúc đang cười hay đang làm duyên. Một bộ mặt lạnh băng. Những đường nét cứng rắn. Chiếc mũi thon lộ vẻ kiêu hãnh đàn ông. Quần áo đen, chỉ có một chấm màu duy nhất là đôi môi tô son đỏ.
Jonathan hiểu rằng khuôn mặt rám nắng, mái tóc hoe vàng, thân hình cao 1m9 của mình và chiếc tủ lạnh to lớn đã khiến cho người phụ nữ bị bao nhiêu người săn đuổi kia phải quan sát rất kỹ. Anh tránh sang một bên. Chị gác cổng bước tới.
- Chào cô.
- Chào chị Rosa.
Như yên lòng khi thấy một người quen, người phụ nữ trẻ bước ra khỏi thang máy.
- Xin giới thiệu với cô, đây là anh Juilan, khách thuê tầng tư.
- Rất vui được làm hàng xóm của chị. Jonathan tươi cười nói.
- Xin chào, người phụ nữ lạnh lùng đáp. Chào chị Rosa
Đợi cô ta ra khỏi nhà, Jonathan mới đưa ra nhận xét:
- Cô hàng xóm của tôi đẹp quá. Cô ấy là người nước nào thế?
- Cô ấy là người Trung Quốc. Cô ấy ở tầng sáu, một căn hộ nhỏ hơn của anh nhưng nhìn ra Paris rất đẹp. Cô ấy ở đây đã bốn năm, dạy võ ở công viên Luxembourg, là bậc thầy về võ Thiếu Lâm, giống như Lý Tiểu Long.
- Một võ sư. Tôi sẽ phải đúng mực khi đứng trước cô ta!
- Cô Ayamei không phải người thường đâu – Rosa bảo vệ người khách thuê nhà của mình và giải thích – Cô ấy là một chính khách đấy! Cô là khách mời thường xuyên của chương trình thời sự truyền hình 8 giờ tối, cô ấy biết rất nhiều chính khách Pháp.
Rosa hạ giọng nói tiếp:
- Hôm nọ tôi thấy cô ấy đi cùng với ông chủ tịch Thượng viện ở công viên Luxembourg.
- Xin hứa với chị là tôi sẽ thể hiện sự kính phục của mình với khách của chị.
- Anh may mắn được ở căn nhà đối diện với công viên Luxembourg. Có nhiều người đến đây hỏi thuê. Nhưng anh biết đấy, đến đây ở rồi thì không ai muốn rời đi. Ở nhà này anh sẽ rất thích. Cần gì, cứ gọi tôi nhé, đừng ngại.
- Cảm ơn chị Rosa. Chắc chắn tôi còn làm phiền chị. Chào chị.
Jonathan đứng bên cửa sổ nhìn ra công viên Luxembourg. Anh thấy nó như một sân khấu khổng lồ. Những cây keo, cây tần bì, cây sồi nhô lên trên nền trời xanh xám. Một thứ ánh sáng dịu soi tỏ những bức tượng bên lối đi chính, và mái nhà Tòa Thượng viện làm cho nghệ thuật chiếu sáng lúc xa lúc gần thêm đậm nét, tôn vinh sự trù phú của thiên nhiên và trí tuệ con người. Dưới chân đài phun nước mang tên nữ hoàng Mesdicis, thần biển Neptune đang tạo ra một vòi rồng. Một lối mòn uốn lượn theo những hàng cây, và Jonathan thấy những người tập chạy, hay đi dạo. Một cặp người yêu dừng lại hôn nhau. Phía sau họ những chiếc ghế băng sơn xanh và những người đang mải mê đọc sách như được vẽ trên một bức họa mẫu, trong bức tranh đó khuất dưới lùm cây có bóng người cảnh sát. Xa chút nữa ở cuối sân khấu các ngả đường quy tụ về một hồ nước. Những tia nước trắng xóa song hành gợi ra ý tưởng về sự lấp lánh của mặt nước, những tia sẫm màu gợi nhớ những chú hải âu hay những con tàu nhỏ. Xa hơn nữa mái nhà cong cong của Đài thiên văn bồng bềnh trong sương sớm hút tầm mắt vào trong vô tận giả tạo.
Đâu là thế giới thực? Jonathan biết thật dễ dàng tạo ra một thế giới đánh lừa mắt người. Trong một thời gian ngắn ngủi con người đã vẽ ra một không gian, trồng cây, xây phố. Ở ngã tư, bóng hình của viên cảnh sát gợi cho ta sự đi lại, tiếng ồn ào âm ỉ liên tục của thành phố hiện đại. Chỉ vài ngọn đèn chiếu sáng mặt tiền của tòa nhà làm ta nhớ đến cuộc sống của cư dân, sự lặp đi lặp lại của những điều thường nhật, tiếng tích tắc của thời gian đang trôi.
Vào 7 giờ sáng, sau tấm rèm từ cửa sổ tầng tư, Jonathan quan sát công viên Luxembourg với sự tập trung của một bác sĩ pháp y bên một xác chết. Luồng sáng của cặp ống nhòm anh dùng lần lượt quét qua những lùm cây xanh vàng, những thảm cỏ xanh lam, những bước chân của những người đang chạy và những cái đầu của người đang đi bộ rồi dừng lại.
Trong công viên anh thấy một phụ nữ đứng dưới cây hạt dẻ già. Cô đang múa kiếm. Thứ vũ khí trong tay cô lấp lánh, động tác của cô từ tốn, gây ấn tượng rất mạnh cho người đi qua.
Thanh kiếm chậm rãi đâm tới với sự chắc chắn, nắn nót theo một ngôn ngữ đã mã hóa. Nghệ sĩ múa khi tiến, khi lùi, lúc quay người, lúc gập hai chân, lúc chân trụ, chân giương lên cao. Những động tác của cô bất chợt tăng tốc, lưỡi kiếm như hóa thành trăm lưỡi. Những từ ngữ chúng phác họa hóa thành những chùm sáng lấp lánh.
Jonathan nghĩ đến những thông tin anh được cung cấp về cô. Chưa bao giờ người ta nói cô là một võ sư. Phải chăng những chuyên gia nghiên cứu về cuộc đời cô đã không kiểm tra những việc cô làm ở công viên Luxembourg? Lập báo cáo về sự sao nhãng này bây giờ đã quá muộn. Tuy mắc sai lầm nhưng họ biết lập luận để thắng lý: “Chúng tôi không muốn cậu mất tập trung với những chi tiết vô ích đó’’.
Cô ta là người gốc Bắc Kinh. Quá khứ của cô tóm tắt trong 10 trang đánh máy. Jonathan và một vài người được biết bí mật về thế giới của cô đã đọc tài liệu đó. Cô sinh vào 6 giờ sáng ngày 23 tháng 12 năm 1968, tại bệnh viên Hai Dian, phía tây Bắc Kinh. Mẹ cô đã mang nặng đẻ đau ra sao, niềm vui của cha mẹ cô thế nào, những khuôn mặt nào đã in dấu trên đôi mắt lần đầu mở ra của cô? Đôi tai cô đã nghe được chuyện gì? Bình minh dậy chào đón cô mang sắc màu gì? Người ta đã cảm nhận được tiếng ồn nào, mùi vị gì, sự rung động nào, niềm hy vọng hay nỗi thất vọng khi cô chào đời?. Những chi tiết này cho đến giờ vẫn không ai biết. Chúng giống như những bong bóng xà phòng, dâng tặng hào quang chớp nhoáng của mình cho quên lãng, vị khán giả duy nhất của thế giới không ngừng biến đổi này. Chỉ đáng kể là ngày tháng, sự kiện, một số lời nói thu thập được hay thuật lại đây đó lập ra lý lịch của một cuộc đời.
Năm 1968, cách mạng văn hóa diễn ra dữ dội ở Trung Quốc, mặt trời đã xế bóng ở đất nước này trong khi đó ở Âu châu nó đang mọc. Cha mẹ Ayamei là giáo viên đại học, phải đi trại cải tạo nhiều lần và phải giao đứa con gái độc nhất của mình cho bà nội chăm sóc, 6 tuổi đứa trẻ được đi học ở trường Đông Phương Hồng, ngày nay đã bị phá bỏ, nhường chỗ cho một cửa hàng lớn. Trong bản tiểu sử không chính thức này không một dòng nào nói về cơ thể đang lớn của cô, không một lời về việc cô học võ, về việc cô học tập kỷ luật, những bài tập rèn luyện lý trí đầu đời. Giới tình báo cũng bỏ qua chi tiết về quần áo. Nhưng Jonathan đoán rằng chịu ảnh hưởng cách mạng của nước Liên Xô láng giềng, chắc cô ta cũng mặc đồng phục Thiếu niên Tiền phong, sơ mi trắng, quần xanh, khăn quàng đỏ, tất cả đều bằng vải bông vì đất nước ấy bị nạn đói đe dọa nên không còn bóng dáng của lụa là. Tuy nhiên anh hoàn toàn không biết cô bé thích chơi thể thao gì, ăn uống hàng ngày như thế nào. Anh cũng không thể hình dung được tiếng reo vui, hay tiếng nức nở của cô bé. Anh không thể nói cô bé có đọc truyện cổ tích hay không, trong những đêm thanh tịch cô có mơ thấy cây cối biết hát, chim chóc mang mặt nạ, những con mèo chúa của một vương quốc giầu có và vô tư.
Anh chỉ được quyền biết một cái mốc: ngày 9 tháng 9 năm 1976, Ayamei bước vào năm thứ hai trường trung học cơ sở. Chủ tịch Mao từ trần. Cách mạng văn hóa chấm dứt.
Năm ấy một điệp viên hoạt động ở Bắc Kinh đã để lại một bản báo cáo, 30 năm sau tài liệu ấy còn giúp cho Jonathan biết được những điều thú vị về mục tiêu của mình. Báo cáo cho biết vào đầu tháng 11, khi cái gió lạnh từ Xiberi thổi về quất vào da thịt, người dân bị cuốn vào một công việc gấp gáp, như thể họ phải chuẩn bị chống lại sự vây hãm thành phố. Đàn ông, đàn bà chuyền tay nhau những bắp cải được đội sản xuất chia cho. Họ để bắp cải vào hầm chứa, trên mái nhà, cầu thang, ban công. Chỉ trong vài ngày thành phố đã phru lên mình toàn bắp cải, thứ rau duy nhất dùng cho mùa đông dài khắc nghiệt. Nhờ đoạn miêu tả này, Jonathan hình dung được một cô bé gái bước đi khó nhọc trong gió, khệ nệ bê những cây bắp cải to. Anh thấy trong mắt cô bé một bầu trời trong pha lê, những cái hồ đóng băng, những ngôi chùa bất động và một vùng đất trắng vì gió lạnh. Ayamei trở nên to tròn với chiếc áo khoác với chiếc quần nhồi bông đã vượt qua sự khắc nghiệt của cuộc sống và trưởng thành.
Năm 1980-1981, ở trường trung học phổ thông. Mặt trời mọc, cô bé là một học sinh giỏi. 6 năm trôi qua, không một sự kiện nào được ghi lại. Đây chỉ là vấn đề ngân sách. Những người nắm quyền quyết định không muốn lãng phí tiền bạc, vì vậy điều tra viên cũng không phải chịu nhọc nhằn. Jonathan biết trong 6 năm ấy Trung Quốc đã có những bước chuyển biến diệu kỳ. Các cửa hàng thực phẩm đã đầy ắp hàng hóa, các cửa hàng buôn bán nhỏ mọc lên như nấm. Sự kiểm duyệt về ý thức cũng đã giảm nhẹ. Với vài đồng, học sinh trung học có thể mua được ảnh in lậu của các ngôi sao điện ảnh, và rụt rè bắt chước kiểu tóc của họ. Jonathan cho rằng Ayamei vẫn chăm chỉ học hành mặc dù cả dân tộc cô đang sôi động, đang bừng tỉnh nhờ chế độ chính trị đã mềm dẻo hơn. Thực vậy mùa hè năm 1986 cô vượt qua kỳ thi tuyển quốc gia trong đó hơn một trăm triệu thí sinh dự tuyển để bước qua cánh cửa hẹp của trường đại học. Cô là một trong số “trăm triệu" đỗ vào trường đại học Bắc Kinh, một trường nổi tiếng, một con tàu vàng cho một tương lai hồng.
Vào những năm 80, công cuộc cải cách bị bế tắc với sự kiện Thiên An Môn. Mùa xuân 1989, Ayamei đang là sinh viên năm thứ ba khoa Luật, trở thành lãnh tụ của phong trào sinh viên. Vì sao lại là cô? Vì sao một thiếu nữ sau 10 năm học tập miệt mài và cạnh tranh quyết liệt đã quyết định đánh cược tương lai của mình trong may rủi? Vì sao cô thành kẻ phản bội khi mà chính cô là con cưng của chế độ? Cô đã nhìn thấy gì, nghe thấy gì, đọc tài liệu gì, đã tham dự bao nhiêu cuộc họp bí mật, bao nhiêu hội nghị không công khai? Những chi tiết này dường như không ai quan tâm, không ai tìm lời giải đáp.
Thế mà Ayamei đã bước từ trong bóng tối ra ngoài ánh sáng. Cô trở thành nữ anh hùng xuất chúng. Vì vậy trong hồ sơ của cô có thêm nhiều bức ảnh. Chúng được cơ quan lưu trữ quốc tế cung cấp. Một lần nữa Jonathan lại tỏ ra khâm phục những người phụ trách điều tra, họ đã hoàn thành công việc mà không hề tốn sức.
Ayamei, tay cầm máy thu thanh, diễn thuyết trước đám đông sinh viên. Ayamei tại bàn đàm phán với các nhà lãnh đạo, đầu ngẩng cao, vẻ mặt cương quyết. Người ta cũng không do dự chuyển cho anh một tấm ảnh đã lưu truyền khắp thế giới: quảng trường Thiên An Môn, hàng nghìn sinh viên biểu tình tuyệt thực, dưới mưa lạnh run người. Giữa quảng trường, nước mưa chảy từng dòng xuống bia tưởng niệm những người Anh hùng đấu tranh vì tự do. Trên bậc đi, một cô gái ngồi lên trên những chiếc túi nhựa, tay trái cầm ô, tay phải cầm thuốc lá. Khói thuốc cuộn thành vòng bay lên nhảy múa trước nụ cười của cô, nó vừa thất vọng vừa cuồng nhiệt. Đôi mắt đen chăm chú nhìn về phía xa nơi cô đoán có xe tăng chở đầy binh sĩ. Vào 21 tuổi, Ayamei đã trở thành huyền thoại.
Jonathan có quá nhiều thông tin về giai đoạn này. Đêm 4 tháng 6, quân đội bắt đầu trấn áp và Ayamei trốn khỏi Thiên An Môn. Ngay từ sáng mùng 5, cô nằm trong danh sách tội phạm bị truy nã hàng đầu của chính phủ. Ảnh của cô dán khắp Trung Quốc. Nhiều đơn vị quân đội được điều động truy bắt cô. Phương Tây tưởng cô đã chết. Hai năm sau cô bơi qua biển đến Hồng Kông. Nước Pháp đón nhận cô. Hai năm nữa trôi qua, Thiên An Môn không còn là sự kiện thời sự. Sự nghiệp của người Tây Tạng được Hollywood hậu thuẫn nổi lên như diều gặp gió. Paris lịch sự đón tiếp người phụ nữ đến cư trú chính trị. Ayamei học tiếng Pháp, bảo vệ thạc sĩ và tiến sĩ xã hội học tại khoa Khoa học chính trị. Cuộc sống mới của cô bình lặng, cô ít khi trả lời phỏng vấn, từ chối lời mời viết sách của các nhà xuất bản. Trong hai năm cô giữ cương vị chủ tịch của Hội đấu tranh vì dân chủ ở Trung Quốc, sau đó giải tán Hội do thiếu ngân sách. Tuy nhiên cô không từ bỏ hoạt động chính trị. Năm 1996, cô thành lập Câu lạc bộ những người bạn của nền dân chủ Trung Quốc, một tổ chức tự nguyện thường tổ chức các cuộc gặp gỡ, thảo luận hay hội nghị.
Vì sao cô dám thách thức Trung Quốc, một đất nước đã chữa trị chấn thương Thiên An Môn cho cô khi nó chôn vùi cả sinh viên, lý tưởng dân chủ lẫn lý tưởng cộng sản? Những năm 90 diễn ra bùng nổ kinh tế. Bắc Kinh phá bỏ các tòa nhà xây theo kiểu Liên Xô trước đây và cho mọc lên những cao ốc chọc trời. Thượng Hải tham vọng trở thành thủ đô tài chính châu Á. Quảng Đông thu hút luồng đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài. Ở Mỹ những lãnh tụ phong trào sinh viên đã trở thành kỹ sư tin học, thương nhân, giáo sư hay cha cố. Tất cả đều đã đi tìm một đức tin mới. Những người anh hùng Thiên An Môn đã bị cuốn trôi bởi con sóng Lịch sử, và thời đại mới vẫn tăng tốc dửng dưng với nỗi đau của con người.
Năm 2005, Ayamei tròn 35 tuổi. Không kết hôn, không con cái, không việc làm ổn định. Đối với người Phương Tây, cuộc sống chưa bắt đầu. Nhưng với người Trung Quốc tên cô chỉ còn là dư âm của thời tiền sử.
Có tiếng chuông reo, Jonathan ra mở cửa.
- Ông đã đặt mua giường?
- Vâng đúng, anh mỉm cười đáp.
Những bức thư đã đọc hết, hóa đơn cũng xem kỹ. Giờ đi giờ về của đối tượng đều được ghi lại. Thời gian thang máy dừng lại ở các tầng được đo chính xác. Đoạn đường mục tiêu di chuyển trong xe điện ngầm cũng đã được quan sát kỹ, tâm trạng của cô ta cũng được phân tích. Các kế hoạch A, B, C được vạch ra. Jonathan bắt đầu sắp đặt sự tình cờ.
Ngày 20 tháng 2, trên hè phố Medicis họ chào nhau. Trước con mắt vô cảm của người phụ nữ, anh đáp lại bằng một nụ cười chừng mực, phô hàm răng trắng.
Ngày 21 tháng 2, gặp nhau trước nhà, cô hỏi thăm anh về tiện nghi trong căn hộ anh ở. Anh hỏi cô về đất nước quê hương. Mắt họ không rời nhau trong vài giây. Cô thăm dò ý định của anh. Anh thì cố đi vào chiều sâu ý nghĩ của cô.
Ngày 23 tháng 2, vào 7 giờ 26 phút, họ cùng qua phố Medicis và vào công viên Luxembourg.
Thứ bảy, vào 4 giờ chiều anh bí mật theo cô đến hiệu sách La Procure. Cô đi hết quầy này sang quầy khác. Anh xuất hiện. Ngạc nhiên, cô đặt lên giá quyển sách đang cầm trong tay. Anh liếc mắt nhìn: một tác phẩm của John Le Carre. Anh đã đọc tất cả các tiểu thuyết của nhà văn này. Cô bảo mới chỉ đọc một nửa cuốn tiểu thuyết. Anh tóm tắt nội dung phần còn lại cho cô nghe. Giọng anh ấm và cuốn hút. Cô chăm chú nghe, rồi cầm cuốn sách đi ra quầy thu tiền. Anh tiếp tục nói với cô. Cô mải nghe, không di chuyển. Người thủ quỹ tỏ vẻ sốt ruột. Anh làm cô yên lòng bằng một nụ cười duyên dáng và thanh toán tiền sách. Ayamei muốn thối lại anh tiền cuốn sách, nhưng anh không nhận. Cô thì quyết tâm trả. Cứ thế họ ra khỏi hiệu sách, mọi người quay lại nhìn họ. Cuối cùng anh bảo: “Cô mời tôi uống một ly vậy".
Bên ngoài mặt trời tỏa sáng. Paris không còn lạnh. Người Paris cởi bớt quần áo. Trước quán cà phê gần Tòa thị chính, mấy cô thiếu nữ phô bày cơ thể trước những tay chim gái đang rình rập. Anh không muốn cô mời anh ngay mặc dù biết cô đang rỗi. Đến Quảng trường Saint – Sulpice, họ ngắm các bức tượng sư tử đá phun ra tia nước. Những chú bồ câu nhặt thức ăn. Một con chó đuổi theo một quả bóng. Anh dừng lại trước đài phun nước mỉm cười cất giọng ấm áp chào tạm biệt cô. Có vẻ như cô vẫn muốn trò chuyện tiếp. Hai người gật đầu chào nhau rồi mỗi người đi một ngả.
Ngày 1 tháng 3, anh đi làm về muộn và gặp cô trước cửa thang máy. Hôm ấy trời nóng chưa từng thấy. Đêm vẫn còn nóng. Ayamei trang điểm. Đôi mắt tô màu của cô có vẻ nhiều nếp nhăn hơn. Cặp môi đỏ tươi tạo ra nét bí ẩn cho khuôn mặt. Cô kết tóc thành bím dài, đeo đôi khuyên tai bằng pha lê. Họ chào nhau. Anh chăm chú nhìn đôi giày xinh xắn nhọn mũi của cô. Cô đi về phía cửa ra vào, còn anh về chỗ thang máy. Tiếng gót giày của họ vang lên trong tòa nhà như một khúc song ca trầm bổng. Anh ngoái đầu lại. Cô cũng thế. Hình như cô cười khi bước qua bậc cửa của tòa nhà. Cô vén áo măng tô, chiếc juyp đỏ sẫm chìm dần vào bóng tối.
Ngày 2 tháng 3, anh gặp cô ở nơi để thùng rác, hỏi cô chỗ tầng hầm. Cô rút chìa khóa và mở một cánh cửa khuất sau chậu cây của chị gác cổng. Họ cùng xuống một cầu thang cuốn. Ở tầng hầm thứ nhất, họ thấy các trụ nhà bằng đá, và quần áo của người gác cổng phơi trên dây tạo ra bối cảnh hoàn hảo cho tác phẩm “Những người khốn khổ" của V.Hugo. Đến tầng hầm thứ hai, họ thấy một hành lang dài chăng đầy mạng nhện.
- Cuối hành lang này có một gian nhỏ không có cửa, không có ánh sáng. Tôi nghĩ nó dành cho anh. Anh có muốn xem không?
- Không.
Cô nhìn anh rất nhanh.
- Ở bên cạnh có cửa thông sang tầng hầm nhà hàng xóm.
- Vậy sao? Jonathan làm ra vẻ ngạc nhiên.
Ngày 5 tháng 3, lúc rạng sáng, Jonathan mơ thấy mình đóng vai trong một vở diễn mà bối cảnh là một tầng hầm. Trên sân khấu anh bật công tắc và chiếc đèn màu vàng tỏa sáng. Ayamei quấn chăn len đang nằm co ro trên một tấm nệm. Cô ho, cơ thể cô gầy yếu, tóc bẩn, khuôn mặt nhem nhuốc, sự cực khổ lên đến đỉnh điểm. Cô chìa tay về phía anh.
- Anh đã ở đâu thế? Em chờ anh lâu quá!
Anh lùi một bước, cảm thấy trong lòng mình hình thành một quả cầu nhiệt. Anh để cho quả cầu di chuyển lên lồng ngực, và kín đáo hít một hơi dài. Hai lá phổi đã căng phồng ô xy, anh đáp bằng một giọng xúc động lãng mạn:
- Đã xảy ra chiến tranh. Anh phải ra trận!
- Đừng bỏ rơi em! Cô nức nở khóc.
Anh đóng vai kẻ bất hạnh buồn chán, bước đến bên cô cúi người xuống để chứng tỏ anh muốn ôm hôn cô. Nhưng anh bình tĩnh lại và đứng lên. Giọng anh xẵng tương phản với cái nhìn thương cảm:
- Xin lỗi, anh phải đi. Anh là một người lính!
Cô lao tới anh:
- Đừng bỏ mặc em một mình trong gian hầm này!
Anh lùi lại, cô ngã dưới chân anh. Hoảng sợ về hành động tàn nhẫn của mình, anh đưa bàn tay ôm lấy mặt cô, xoay người rồi bỏ chạy. Đèn lại bật sáng. Mặt trời. Một con phố xa lạ. Lóa mắt, Jonathan không còn nhớ đâu là hiện thực, đâu là tưởng tượng. Anh hiểu mình và Ayamei từ nay sẽ sống trong hai thế giới song hành và sẽ không bao giờ gặp nhau.
Jonathan tỉnh giấc.
Mưa bụi trên công viên Luxembourg. Anh tập chạy. Những pho tượng nữ hoàng, tượng nhà thờ mỉm cười bằng đá hoa in trong mắt anh. Anh thấy một phụ nữ da nâu mặc may ô xanh sáng đang sải những bước chạy mạnh mẽ, cơ bắp chân săn chắc, một người đàn ông dắt ba con chó giống husky và vô số những người đầy sức lực và sống động khác. Tất cả đều di chuyển bên trong hàng rào sắt của công viên theo chiều ngược kim đồng hồ. Trừ anh.
Phía xa, đám học trò của Ayamei bắt đầu mặc lại quần áo và tản ra mỗi người một phía. Jonathan nhìn đồng hồ: 9 giờ 3 phút. Ayamei đã xong buổi dạy thứ nhất. Anh chạy chậm lại và triển khai kế hoạch A.
- Chào cô!
- Chào anh! Hôm nay anh chạy như bị ma đuổi.
- Đêm qua tôi gặp một cơn ác mộng. Cô đoán xem? Gian hầm số 21…
Một thanh niên người Hoa xen vào giữa họ.
Ayamei giới thiệu.
- Anh Jonathan, đây là Lin, học trò của tôi. Lin à, giới thiệu với em, đây là Jonathan, hàng xóm của tôi.
Cậu thanh niên người Hoa có thân hình tầm cỡ như anh, mặc áo ba lỗ màu đen, phô ra hai bắp tay căng phồng như diễn viên phim kiếm hiệp.
- Chào cậu.
Jonathan chìa tay. Gã thanh niên ném cho anh một cái nhìn ác cảm và không nhúc nhích.
- Lin mới từ Trung Quốc sang đây được một năm, chưa hiểu phép lịch sự, Ayamei giải thích. Anh cho phép tôi nói với cậu ta bằng tiếng Trung Quốc nhé?
Cô kéo cậu học trò sang một bên và đột ngột đổi giọng, tiếng Hoa của cô mang âm sắc đàn ông đầy uy lực.
- Cậu phải học thêm tiếng Pháp. Một tháng nay không hề tiến bộ chút nào. Không thể chấp nhận được.
Cô lấy từ trong túi xách tay ra một cuốn sách và đặt vào tay chàng trai. Jonathan nghe thấy nó lầu bầu:
- Ai thế?
Cô ngắt lời:
- Cậu không phải quan tâm đến việc của tôi.
- Anh ta cần gì ở cô?
- Cậu phải học thêm tiếng Pháp. Hẹn cậu thứ ba.
Ayamei quay lại với Jonathan. Anh chờ cô với một câu hỏi để gợi chuyện.
- Cô tập võ đã lâu chưa?
- Tôi bắt đầu hơi muộn, vào năm 22 tuổi.
Jonathan nhẩm tính. Hai hai tuổi, khi ấy cô ta đang rong ruổi ở đâu đó bên Trung Quốc, quân đội luôn ở đằng sau cô. Cô ta được học võ để tự vệ.
- Cô học võ ở Pháp à?
- Không, ở Trung Quốc.
Ayamei không nói gì thêm.
- Cô gặp được một võ sư?
- Chuyện dài lắm, tôi sẽ kể với anh sau.
Cách né tránh không bộc lộ mình của cô ta thật thông minh.
Jonathan thử lần nữa. Để khám phá được thế giới thầm kín của cô, cô cần phải cởi mở với anh.
- Thế vì sao cô đến Pháp?
- Người Pháp rất hay đặt câu hỏi đó, cô đáp. Anh không nghĩ nước Pháp đẹp và có truyền thống văn hóa nên việc nó thu hút người nước ngoài là bình thường sao? Nếu anh sống ở Trung Quốc anh sẽ thấy không ai hỏi anh vì sao.
Jonathan khâm phục câu trả lời của cô, nó mù mờ, mở ra tranh luận, nhưng đã khép lại câu hỏi ban đầu. Ayamei xử sự đúng khi từ chối tiết lộ sự thật với người mới gặp. Nỗi đau của cô, người khác không thể hiểu cũng như không thể chia sẻ. Người phụ nữ từ chối lòng thương hại là người kiêu hãnh. Anh quay sang phỉnh nịnh cô.
- Cô có lý. Trung Quốc là nước lớn và tin chắc vào tương lai của mình. Nước Pháp nhỏ bé lọt giữa châu Âu. Người Pháp thường bị mặc cảm và âu lo cũng là thường. Câu hỏi của tôi không rõ ràng. Tôi chỉ muốn biết làm sao một phụ nữ Trung Hoa lại đủ dũng cảm để sống xa với nền văn minh của mình? Vì sao cô lại chọn đất nước nhỏ bé của chúng tôi?
Cô mỉm cười.
- Trong hai chúng ta, người nước ngoài chính là anh. Hôm đầu gặp anh, tôi thấy anh mặc sơ mi, xắn cao tay trong khi người Pháp ra đường vẫn phải mặc măng tô. Ở Paris mùa này mọi người đều có nước da trắng xanh, còn anh da nâu, tóc hoe vàng vì nắng. Anh không tỏ ra mệt mỏi vì phải dùng phương tiện giao thông công cộng, cũng không thấy kiệt sức vì một mùa đông dài. Anh có dáng dấp và điệu bộ của người từ nơi khác đến. Trước hết, hãy cho tôi biết anh là ai, từ đâu đến và vì sao anh đến Pháp.
Jonathan cười lớn. Cho đến thời điểm này cô chưa bao giờ trả lời theo chiều hướng anh mong đợi. Tính cách của cô làm anh vui. Không phải ngày nào cũng gặp được một kẻ nổi loạn ở Thiên An Môn.
- Không biết có thể coi những câu thẩm vấn của cô là một lời chúc không?
Hai người dừng lại trước hàng đèn tín hiệu giao thông ở phố Medicis. Cô ngước mắt về phía anh nhìn khiêu khích.
- Anh đừng cho đó là những lời xúc phạm. Tôi là người nước ngoài. Tôi nhận diện được họ.
Đèn bào tín hiệu xanh cho người đi bộ.
Anh im lặng bước. Kể về cuộc đời mình chính là làm suy yếu mình. Đàn ông cũng như đàn bà đều có xu hướng tự nhiên này. Chỉ cần một câu hỏi là họ tin cậy chia sẻ tâm sự của mình với bất kỳ ai. Jonathan thường gợi được chuyện của những người không quen biết khi anh gặp họ. Mỗi khi phép thuật của anh có hiệu lực anh thấy mình ưu việt hơn người khác. Ayamei không thuộc loại người anh gặp. Sự tổn thương của cô chắc sâu sắc mặc dù không biểu hiện ra mặt. Jonathan đành để mất niềm vui buộc cô phải nhanh chóng nói ra câu chuyện mà anh đã biết.
- Cô đoán đúng. Cô giỏi thật. Anh nói.
Quy tắc vàng cho một cuộc đối thoại là luôn tạo ra cho người nói chuyện với ta cảm giác thông minh hơn ta. Anh thoáng nhận ra một nửa nụ cười nơi khóe miệng người phụ nữ Trung Hoa.
- Tôi đến từ một vùng đất mà có thể cô đã biết. Đó là Hồng Kông. Tôi đã sống ở đó 10 năm. Trở về Paris tôi những tưởng có thể đặt một dấu chấm hết đối với Trung Quốc nhưng lại có một cô hàng xóm là người Trung Quốc. Cô đã đi Hồng Kông chưa?
Jonathan hy vọng cô sẽ tiếp nối câu chuyện của mình về hòn đảo mà cô đã đến năm 1991 sau khi bơi qua biển, nhưng cô vẫn yên lặng trước gợi ý của anh.
- Anh làm nghề gì nhỉ?
Anh phản đối:
- Cô hỏi cung tôi sao?
- Không có máy dò nói dối, cũng không bị tra tấn. Anh có thể không nói thật với tôi.
- Cô rất bi quan về con người. Vì sao thế?
Cô mỉm cười, trầm ngâm đáp:
- Cuộc sống vừa là một giấc mơ vừa là sự dối trá.
- Như vậy, dối trá chính là nói lên sự thật, anh nhận xét.
Jonathan đẩy cửa vào nhà. Tiếng anh âm vang trong sảnh:
- Tôi là kỹ sư làm việc ở công ty Heavens, số 240 phố Grande Armee, một công ty chuyên thiết kế phần mềm ba chiều. Công ty của chúng tôi đứng đầu nước Pháp, đứng thứ ba châu Âu. Cô có thể gọi điện đến số 080180203 để kiểm tra. Địa chỉ Internet của công ty là w.w.w.heaven.fr cô có thể truy cập vào trang thông tin đó để xem ảnh, và ngày tháng năm sinh của tôi.
Không chờ phản ứng của Ayamei, anh phản công luôn:
- Còn cô, cô làm nghề gì?
- Tôi không có nghề gì thực thụ, cô đáp với vẻ thờ ở. Tôi kiếm sống bằng cách dạy tiếng Hoa cho trẻ em, và dạy võ cho người lớn.
- Không nghề gì thực sự sao? Tôi không tin, cô có vẻ đang làm việc gì đó rất nghiêm túc.
Anh nhẹ nhàng hỏi tiếp:
- Sao không làm gián điệp cho Trung Quốc nhỉ?
Cô nghiêm giọng:
- Tất cả những người nhập cư đều bị nghi ngờ. Từ bỏ một cuộc sống chắc chắn để lao vào một cuộc sống khác bấp bênh hơn để làm gì? Người nhập cư tìm cách chiếm đoạt những gì của nước Pháp? Không biết tôi có hiểu đúng ý anh?
Jonathan thấy vui vì đã chọc tức được cô.
- Cô thật hấp dẫn.
Ayamei lạnh lùng đáp:
- Cảm ơn vì lời khen.
Cửa thang máy từ từ mở rồi khép lại. Không gian hẹp của nó ngập tràn cái mát lạnh của công viên Luxembourg còn vương trên quần áo của hai người khách. Nép sát vào tấm gương trong thang máy tránh không chạm vào người Jonathan, Ayamei đưa mắt nhìn xuống dưới. Bỗng anh cảm thấy mùi hương phụ nữ dễ chịu. Từ chiều cao 1m90 anh khám phá lại những đường nét của người phụ nữ mà lúc đầu anh không thấy thích. Chiếc mũi thon của cô không làm anh khó chịu nữa. Nhờ nó mà đôi lông mày rận, đôi môi dày, đôi mắt với hàng mi đen trở nên có hồn. Những bộ phận ấy cùng với chiếc mũi cao kiêu hãnh toát lên sự đa tình hiếm thấy.
Anh nhìn hình ảnh của chính mình trong gương. Mái tóc xoăn hoe vàng cắt ngắn, bộ râu con kiến khi sáng dậy, mắt xanh mơ màng. Anh mỉm cười với mình. Ai cưỡng lại được nụ cười hồn nhiên, sôi nổi và chiến thắng kia?
- Cho phép tôi ra một câu đố để thử trí thông minh của cô nhé, anh nói với cô sau khi tính toán thời gian còn lại trước khi thang máy đến tầng anh ở.
Cô ngẩng đầu lên. Dưới ánh sáng đèn nê ông, anh thấy những nếp nhăn và những vết nứt nhỏ xíu ở môi cô như trên một tấm bản đồ thế giới. Thang máy rùng mình dừng lại. Con số 4 bật sáng trên biển báo, cửa tự động mở. Jonathan dùng tay chẹn lại, đưa ra câu đố và chăm chú nhìn vào mắt mục tiêu của mình:
- Một cặp vợ chồng người Mỹ nhận nuôi một đứa trẻ ở trại mồ côi ngoại ô Paris rồi đưa nó về California. Theo cô nó trở thành người như thế nào?
- Một người Pháp ở Mỹ và một người Mỹ ở Paris, cô trả lời không do dự.
- Hoan hô, cô được thưởng một bữa sáng theo kiểu Âu châu.
Cô tỏ vẻ lưỡng lự.
- Cô nhận lời đi. Nếu không cô sẽ chết vì ý muốn lật mặt nạ của tôi.
Chìa khóa đã tra vào ổ khóa.
Cánh cửa mở ra trước mắt anh.
Cánh cửa khép lại đằng sau cô.
Ayamei đi thẳng ra cửa sổ.
- Đây là lần đầu tiên tôi ngắm công viên từ độ cao này ngang tầm với cây cối.
Cô nhắm mắt.
- Ở đây ta ngập chìm ngay vào rừng lá, vào bất tận. Công viên Luxembourg nhìn từ phòng của anh thật đẹp, một cánh rừng!
- Cảm ơn cô, Jonathan đáp không giấu vẻ tự hào.
Cô mở mắt và ngây ngất nhìn khu vường.
- Kia là đài phun nước Medicis… Anh có thấy cây hạt dẻ kia không? Sáng sáng tôi dạy võ ở đấy.
- Tôi biết. Tôi đã mua một cặp ống nhòm để quan sát chim chóc và tôi đã thấy cô. Đây cô xem thử.
- Mong rằng tôi không làm anh thất vọng.
- Trái lại tôi rất mê võ thuật của cô. Khi cô vung kiếm, cô như hóa thành rắn, thành báo, thành chim phượng. Tóm lại thành một loài vật mềm dẻo, nhẹ nhàng và nguy hiểm.
- Anh biết phỉnh nịnh đấy, cô nói, mắt không rời cặp ống nhòm quan sát phong cảnh.
- Nói dối, phỉnh nịnh, đàn ông xấu đến thế sao?
Cô trả lại ống nhòm, mỉm cười nhìn anh chăm chú.
- Còn anh nghĩ thế nào về đàn ông?
Anh phản ứng ngay:
- Ta hãy nói chuyện về cô. Càng im lặng cô càng để người khác hiểu sai về mình. Cô có lịch sử, có quá khứ. Từ cô toát ra một điều gì đó đặc biệt.
- Tôi là… gián điệp.
- Đúng vậy. Tôi quên mất.
Đúng là hết cách. Cô ta đã che chắn cho mình rất khéo. Jonathan thay đổi chiến thuật, chuyển sang đề tài mới.
- Mời cô đi xem nhà… Đây là phòng tôi.
- Lò sưởi trong tòa nhà này vẫn hoạt động tốt. Tôi sẽ cho anh số điện thoại của thợ cạo ống khói.
- Tôi có ba lò sưởi, sẽ cho hoạt động ngay… Đay là gian chứa đồ. Hiện tại nó lộn xộn quá. Tôi sẽ để một tủ sách ở đây. Cô có thấy tháp Effeil không?
- Cây hạt dẻ sắp mọc lá, anh sẽ không còn nhìn thấy tháp Effeil nữa đâu. Anh phải lên nhà tôi.
- Chẳng lẽ phải đợi lâu thế sao? Tôi muốn nói để thấy tháp Effeil từ nhà cô?
Cô quay mặt đi chỗ khác.
- Ảnh của anh đây sao? Tôi có thể xem không?
Cô dừng lại trước một tập ảnh mà Jonathan để bừa bãi trong khi chờ đợi chuyến viếng thăm “không hẹn trước" này. Ảnh chụp anh đứng trên ván lướt sóng, ngực rám nắng, bắp thịt săn chắc, đang lướt theo một con sóng.
- Đó là vào mùa hè năm ngoái, ở đảo Bali.
- Đẹp quá!
- Cảm ơn.
- Cơ thể anh rất đẹp, cô nói rõ hơn.
- Cảm ơn!
- Anh có phải là một lữ khách lớn hay một người mê lướt sóng luôn đuổi theo những con sóng lớn?
Jonathan thở dài.
- Cả hai đều không phải. Tôi thường xuyên phải đi công tác cho công ty, rất hiếm khi đi vì niềm vui của mình. Mỗi năm một lần, được nghỉ phép 15 ngày, tôi chơi thể thao, nghỉ ngơi bằng cách rèn luyện sức khỏe. Cô xem, cái ảnh này chụp ở Nepal vào một mùa hè. Năng lượng của dãy Himalaya thật phi thường, giống như một chùm sáng được trái đất hắt lên bầu trời.
Anh cho cô xem một tấm ảnh chụp anh đang leo lên một ngọn núi đầy băng.
- Lướt sóng, leo núi, anh tìm kiếm sự cân bằng trong sự mất cân bằng, sự hoàn tất trong sự thách thức vĩnh cửu.
Bối rối trước nhận xét này, Jonathan thấy hối tiếc vì đã đưa cô xem những tấm ảnh. Chúng đã phản bội lại nhân cách thực của anh.
Không để Ayamei nói tiếp, anh dẫn cô sang phòng bếp.
- Mời cô lại đây, tôi thích nhất gian phòng này.
- Phải nói đây là nơi được trang bị tốt nhất trong nhà anh.
- Văn minh đã thay đổi. Ngày xưa gian bếp thường chật hẹp, bám mỡ, tối tăm, dành cho người giúp việc hay những người mẹ trong gia đình. Bây giờ nó rộng rãi, sáng sủa và đầy đủ tiện nghi, một vùng biển thực sự dành cho những người đàn ông vội vã.
Jonathan mời Ayamei ngồi xuống một chiếc bàn kính và hỏi cô:
- Cô uống trà hay cà phê?
- Xin anh một ly trà.
Anh đổ nước vào ấm đun, không quay lại nhìn cô, nói:
- Cô nhầm rồi, tôi không phải là một diễn viên xiếc. Những môn thể thao mà tôi chơi giúp tôi hòa nhập thiên nhiên. Còn thiên nhiên thì truyền cho tôi năng lượng giúp tôi chống chọi với đời sống thường ngày. Có trà mạn và trà hiệu Early Grey, cô dùng gì?
- Vâng trà mạn, đương nhiên là thế, tôi là người Trung Quốc. Tôi không tin anh, có gì đó trong cái nhìn của anh mách bảo tôi anh là người thích phiêu lưu mạo hiểm.
Người phụ nữ này thông minh đáng sợ, nhưng Jonathan còn thông minh hơn khi anh bị mất thăng bằng. Anh cười phá, quay lại và chăm chú nhìn vào mắt cô.
- Ayamei này, có phải võ thuật đã dạy cô tấn công để tự vệ không? Cô không hé răng về cô trong khi đó cô lại muốn biết chân tơ kẽ tóc về tôi. Tôi làm cô sợ ư?
Cô khẳng định nhận xét của anh.
- Vâng, anh làm tôi sợ.
Jonathan cười mỉm.
- Cô ăn bánh mỳ nướng nhé? Mấy lát?
- Cho tôi hai lát. Bằng cách nào anh tìm được căn hộ này?
- Bằng quảng cáo trên Internet. Đây là căn hộ đầu tiên tôi tới xem. Từ Hồng Kông tôi đến thẳng đây, vào nhà, đặt vali xuống, ngạc nhiên vì nhìn qua cửa sổ không thấy nhà chọc trời, cầu vượt, cây leo, hay tàu chở hàng, mà là một công viên, công viên Luxembourg. Tôi mở toang cửa sổ, bất ngờ vì sự yên tĩnh của Paris. Một thành phố không tiếng còi gầm rú, không tiếng động rền vang của xưởng máy. Tôi quyết định thuê ngay và trả tiền nhà trước một năm
- Hôm đến, chắc anh chỉ có một chiếc vali nhỏ xíu. Trong nhà anh, mọi đồ dùng đều mới: giường, tràng kỷ, thảm, tủ lạnh, ấm pha trà, tách nước, cái thìa, lọ đường. Không một đồ vật nào có quá khứ ngoại trừ những bức ảnh. Một cuộc hồi sinh chăng?
Đến lượt Jonathan ủng hộ nhận xét của Ayamei.
- Cô tinh lắm. Cuộc sống của đa số mọi người gắn liền với những vật dụng cồng kềnh. Còn tôi đã quen không gắn bó với bất cứ thứ gì, và không sở hữu gì. Đồ gỗ tôi mua rồi lại bán đi. Sách vở thì khi chuyển nhà, tôi phân phát hết. Đồ dùng ư? Hầu như tôi không có.
- Chắc chắn đó là sự bắt buộc.
Lần này họ cùng chung quan điểm. Tận dụng cơ hội anh kể cho cô một câu chuyện hấp dẫn mà anh tưởng tượng ra.
- Khi bố mẹ tôi nhận nuôi tôi, tôi mới tròn bốn tuổi. Các cụ luôn tưởng rằng không một kỷ niệm nào về đoạn đời trước còn đọng lại trong tôi. Thực ra tôi vẫn nhớ chiếc gối nhỏ mà tôi không bao giờ rời xa. Tôi vẫn nhớ người mẹ khi bà đưa tay bế tôi và lấy mất chiếc gối của tôi. Tôi không dám khóc, thậm chí không dám thở. Bà đã vứt chiếc gối của tôi vào thùng rác khi ra khỏi cô nhi viện. Tôi lên xe với bà và sau đó lên máy bay.
Lần này có vẻ như cô tin câu chuyện anh kể. Một tia sáng trìu mến lần đầu xuất hiện trong ánh mắt cô.
- Từ đó anh đã mất đi lòng tin. Anh có lý, người ta không nên gắn bó với bất cứ thứ gì.
- Cô kết luận quá vội vàng. Tôi không gắn bó với các đồ vật, không sở hữu gì, nhưng tim tôi đầy kỷ niệm. Tôi có một an bum ảnh vô hình rất đẹp, tôi cất giữ ở đó những khuôn mặt, những giọng nói, những thành phố và luôn mang theo nó bên mình, thỉnh thoảng mở ra xem và thấy vui.
- Hay thật… Tôi rất thích cách anh kể chuyện. Anh nhìn cuộc đời từ trên cao, cái nhìn của vận động viên leo núi chuyên nghiệp. Một trong những người bạn gái của tôi cũng ở trong hoàn cảnh tương tự như anh. Bạn tôi tìm kiếm cha mẹ đẻ của mình một cách vô vọng. Anh cũng đã từng làm thế phải không?
Rồi cô thêm:
- Nếu anh thấy khó trả lời, ta có thể nói chuyện khác.
- Không đâu, anh đáp, trước khi bắt đầu một sáng tác mới. Tôi rất vui khi có dịp được nói về mình. Cha mẹ tôi đã hủy hồ sơ nhận tôi làm con nuôi. Họ bảo nhặt được tôi bên bờ sông Seine, trong một cái chậu gỗ. Ngay từ bé, tôi đã hứa với mình sẽ tiến hành một cuộc điều tra thực sự khi có điều kiện. Lớn lên tôi mất đi ước vọng đó và không thấy cần thiết nữa. Tôi sống tốt với sự bí ẩn là chính tôi. Việc không được biết bộ mặt, cơ thể, cuộc sống của người đã cho mình cuộc đời tránh cho tôi khỏi những nỗi khổ đau vô ích. Cứ hình dung nếu phát hiện ra cha mình là một kẻ lừa đảo, một tướng cướp hay một nhà quý tộc ích kỷ, mẹ là một gái bán hoa, một hầu phòng hay một nhà tư sản đã làm lại cuộc đời? Với những người bình thường, cha mẹ là một tấm gương. Nếu cha mẹ họ cuồng loạn, độc ác, luôn bị ám ảnh tình dục thì suốt cuộc đời, họ sẽ phải chiến thắng nỗi lo sợ sẽ giống những người đã sinh ra mình. Đôi khi vì gắng sức chống chọi họ bị gục ngã nhanh chóng. Còn tôi được tự do về cơ thể, về dòng máu. Tôi chính là người tạo ra tôi. Tôi không phải nhìn thấy tôi qua cha mẹ mình. Thực ra tôi may mắn.
Jonathan xúc động vì sự hùng biện của mình. Ám ảnh bởi người cha yếu kém, bởi người mẹ bệnh tật, có thể một ngày nào đó anh sẽ hóa thân vào vai diễn mà anh đang thể hiện: một người khỏe mạnh dũng cảm và biết quý bản thân.
- Bạn gái tôi cũng lớn lên trong cô nhi viện. Bạn ấy hòa nhập xã hội một cách khó khăn. Anh không nghĩ sự tự do mà anh nói đến cũng là sự cầm tù sao? Bạn ấy không thể cho cũng như không thể nhận. Bằng tuổi tôi nhưng chưa bao giờ được nếm hương vị của tình yêu.
Phải chăng cô ta đang nói về chính mình? Jonathan tự hỏi. Anh biết bố mẹ Ayamei đã qua đời còn cô thì chưa xây dựng gia đình. Anh tìm cách làm sáng tỏ điều nghi vấn này.
- Tình yêu là một chủ đề rộng lớn, cả đời cũng chưa đủ để khám phá hết nó. Bạn cô sống ở Paris phải không? Cô biết đấy, những người như chúng ta cần gặp nhau, chia sẻ cho nhau những chuyện xảy ra với mình, và có thể giúp được nhau.
- Đáng tiếc là bạn ấy lại ở Trung Quốc.
- Thế còn cô? Chắc cô đã có nhiều tình sử đẹp. Cô đã có ai trong cuộc đời chưa?
- Tôi không có ai cả. Còn anh?
- Tôi độc thân như cô. Lẽ ra tôi đã kết hôn cách đây 4 năm nhưng cô ấy bỏ đi, để lại trong ký ức tôi một vài hình ảnh đẹp. Từ đó, tôi vẫn chèo thuyền vượt biển đi tìm một miền đất mới… Cô uống thêm trà không? Bây giờ cô đã biết rõ về tôi, tôi có thể hỏi cô một câu không?
- Anh hỏi đi.
- Cô từ đâu đến Pháp?
- Từ Bắc Kinh, tôi đã nói với anh điều đó. Anh không nhớ sao?
- Tôi nhớ chứ. Thế bố mẹ cô làm gì?
- Các cụ là giáo viên đại học.
- Tôi nghĩ bây giờ hai cụ đã nghỉ hưu.
- Vâng, đại loại như vậy.
- Cô có anh chị em không?
- Tôi là con một.
- Lần cô trở về Trung Quốc gần đây nhất là khi nào?
Lần này cô không trả lời mà hỏi lại anh:
- Còn anh lần đầu đến Trung Quốc là khi nào?
- Hè năm 1992. Thành phố đầu tiên tôi đặt chân đến là Bắc Kinh, Jonathan mệt mỏi đáp.
Cô ta không muốn kể về bản thân ư? Được, anh sẽ nói về mình nếu cô ta muốn. Dù thế nào thì mục đích duy nhất của anh là chinh phục trái tim cô.
- Khi ấy trời rất nóng, phố xá rất đông người. Người thì chơi cờ tướng dưới cột đèn đường, người thì nằm dài trên chiếu trúc trò chuyện, tay phe phẩy chiếc quạt nan. Trẻ con thì vui đùa, người đi xe đạp cứ diễu qua, người bán hàng rong mời tôi mua dưa hấu, đào, mận, cào cào để trong những chiếc lồng tre.
Khi Jonathan bịa ra một cốt truyện, anh luôn tiếc vì đã không làm nghề viết văn. Tuy nhiên anh và nhà văn đều sử dụng một kỹ thuật. Đó là thêu dệt câu chuyện tưởng tượng trên nền hiện thực.
- Tôi đã để cho ngôn ngữ giàu nhạc điệu của đất nước cô ru tôi. Còn nhớ, tôi đã ngắm nhìn những cửa sổ sáng đèn trên các tòa nhà và tự hỏi cuộc sống của những con người sau tấm kính kia như thế nào nhỉ. Họ nghĩ gì vào thời điểm ấy? Họ nói với nhau những lời yêu thương như thế nào? Bọn trẻ làm gì sau giờ tan trường? Chúng mơ ước gì?
Cuối cùng Ayamei cũng bị chinh phục bởi năng khiếu thi ca của Jonathan. Cô bắt đầu cởi mở với anh.
- Khi tôi đến Paris lần đầu năm 1991, tôi cũng đi chơi phố và cũng ngắm nhìn những cửa sổ sáng đèn. Đó là đêm Noel, đường phố ngập hoa dây. Đại lộ Champs-Elysees biến thành một dòng sông sáng lấp lánh. Trong các tủ kính của cửa hàng Bon Marche những người máy nhảy múa dưới mưa tuyết nhân tạo. Tôi đến từ một nước xã hội chủ nghĩa với những đường phố tối tăm và nghèo nàn. Tôi đã từng biết những ngôi làng không có ánh điện, các thị trấn đầy bụi than, những trường học không bàn không ghế. Chưa bao giờ tôi hình dung ra sự giàu có được phô trương như thế. Tôi đã khám phá ra cuộc sống của Paris: nó trù phú, hoang phí, vô lo, ngạo mạn. Thời ấy tôi rất ngây thơ. Tôi nghĩ người Pháp thật sung sướng và họ có quyền như vậy.
- Nhưng buồn thay họ không được như thế!
- Tôi hiểu ra điều đó khi lần đầu xuống xe điện ngầm và nhận thấy những bộ mặt mệt mỏi, nhăn nhó, thù hận…
Rõ ràng cô không kém anh về tài kể chuyện. Jonathan thấy hứng thú với cuộc thi tài năng văn học này.
- Tôi may mắn hơn cô. Khi tôi đến Bắc Kinh năm 1992 tôi còn lưu giữ hình ảnh về Thiên An Môn. Tôi chuẩn bị gặp gỡ một dân tộc bị áp bức và bất hạnh, nhưng tôi lại thấy một thành phố sôi động, những người dân luôn bận rộn, biết nuôi dưỡng những niềm vui nho nhỏ thường ngày: nuôi cá vàng, chọi dế, thả diều, bình minh thì tập võ, chiều thì dạo phố.
Dù sôi nổi với đề tài trên nhưng anh không quên lái người nghe vào sự kiện Thiên An Môn. Cô tiếp tục câu chuyện mà không hề mất cảnh giác.
- Sự kiện ấy diễn ra từ 12 năm trước. Bây giờ các công trình xây dựng đã hoàn thành, Bắc Kinh đã thay da đổi thịt, không còn như trước. Đã sạch bóng những con phố nhỏ, những người bán rong cào cào, đã hết trò chọi dế. Lần sau anh đến, anh sẽ thấy không còn cả sao trên trời.
Đây là thời điểm gây bất ngờ cho đối thủ. Lấy vẻ vô tư của người Mỹ anh hỏi:
- Năm nào cô cũng về Trung Quốc sao?
Im lặng. Hài lòng về hiệu quả của câu hỏi, anh tiếp tục khai thác:
- Hè này cô có về Trung Quốc không?
Im lặng. Jonathan vẫn bền bỉ.
- Cô có nhớ bố mẹ không?
Bỗng cô mỉm cười với anh.
- Anh làm ơn cho tôi một tách trà nữa được không? Loại trà “Giếng rồng” của anh ngon lắm. Anh mua ở Hồng Kông à?
Cô ta kiên cường phản công. Đó là hành động tự vệ cuối cùng.
- Anh có nói tiếng Trung Quốc không? Cô hỏi anh.
- Không, anh đáp kiên quyết, và nói thêm.
- Tôi sẵn lòng đi cùng cô về Trung Quốc.
- Có thể.
Ayamei đứng dậy.
- Cô về sao?
- Tôi dạy buổi thứ hai vào 10 giờ, tôi phải đi đây, cảm ơn anh đã mời ăn sáng.
- Xin lỗi cô vì đã hỏi những câu tò mò.
Cô đi ra cửa, anh đi theo.
- Thực sự là cô không giống với bất kỳ phụ nữ nào mà tôi từng biết.
Ayamei cầm lấy thanh kiếm của mình và mở cửa.
Jonathan rất tức giận. Chưa bao giờ anh cảm thấy mình nực cười thế.
- Cảm ơn cô đã đến chơi!
Cô bước về phía thang máy và quay lại nói.
- Bố mẹ tôi đã mất. 15 năm nay tôi không hề đặt chân lên đất Trung Quốc.
Jonathan làm ra vẻ không biết gì.
- Vì sao thế?
- Hôm nào mời anh qua nhà tôi chơi, anh sẽ thấy công viên Luxembourg nhìn từ nhà tôi như thế nào.
Cánh cửa khép lại
Jonathan ngả người xuống tràng kỷ. Danh dự vẫn được bảo toàn.
Tàu chạy, phát ra những tiếng động ầm ĩ, rồi rúc còi. Jonathan trèo lên giường nằm, kéo chăn đến tận cằm. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dùng khi đọc sách anh thấy Ayamei từ giường tầng trên chúc anh ngủ ngon. Anh nắm lấy tay cô kéo xuống. Không cưỡng lại, cô để anh kéo ra khỏi giường và ngã vào vòng tay anh. Anh ghì chặt sợ cô tuột khỏi tay mình. Lạ lùng thay cô không chống cự. Anh thận trọng luồn tay vào trong chiếc áo ngủ và vui sướng bất ngờ khi tìm được cặp vú cương rắn chắc của cô. Anh cởi quần áo cô. Anh sờ soạng, hài lòng thấy một thân hình phụ nữ tuyệt đẹp. Anh bốc lửa. Anh hôn nghiến ngấu lên cổ, lên cằm, lên môi, lên mắt cô. Tay anh nắn bóp cô. Anh trườn lên người cô, dùng hai đầu gối banh đùi cô ra. Lồng ngực đàn ông của anh đè xuống đôi vai người phụ nữ, và thỏi sắt của anh tuồn sâu vào trong cô. Chính lúc ấy anh nhận ra sự bất thường. Không một tiếng thở gấp, không một tiếng rên, cô để cho chuyện ấy diễn ra mà không chút đồng cảm. Cơ thể ấm nóng của cô tỏa ra một luồng khí lạnh băng. Mồ hôi nhễ nhại, Jonathan cố gắng làm cô rung động cùng anh và phát ra những âm thanh hạnh phúc. Cô vẫn vô cảm. Không một thớ thịt run rẩy, không một tiếng tim loạn nhịp, không một cử chỉ thỏa mãn.
Nhưng sao cô dâng hiến cho anh? Sao cô quyết định phơi bày cho anh sự vô cảm của mình trong khi cô có thể tiếp tục chinh phục trái tim anh mà không phản lại chính mình? Cô hiến thân cho anh để từ chối anh. Lại một cú xấu chơi? Bây giờ cô không còn là bí mật với anh nữa, anh thấy gắn bó với cô. Vô tình anh đã ký với cô một thỏa ước về im lặng. Để không thành kẻ nực cười, và gìn giữ danh dự của người phụ nữ đã đặt niềm tin vào mình, từ nay anh buộc phải sống trong sự giam cầm lạnh giá.
Tàu chạy, phát ra những tiếng động ầm ĩ. Từ đâu đó trong đêm vang lên một hồi còi dài ai oán. Con tàu này đi đâu? Họ về đâu?
Jonathan giật mình tỉnh giấc.
Trong bếp, kim đồng hồ nhích dần.
Tại trụ sở công ty, ngày tháng trôi theo tờ lịch treo trong sảnh. Sáng nào Jonathan cũng tập chạy ở vườn Luxembourg. Bốn vòng. Bốn lần anh chạy qua chỗ cô nhưng cô không biết anh, không chào anh. Từ xa anh thấy cậu thanh niên người Hoa trả cô quyển sách, và cô đưa cho cậu một quyển khác. Chưa lần nào họ gặp nhau trước nhà.
Ở công ty, Jonathan làm việc nhởn nha. Anh biết để thăng tiến trong một doanh nghiệp Pháp thì không được bộc lộ hết năng lực mà phải tỏ ra vừa đủ. Người Pháp ghét kẻ mạnh, nhưng lại thích giúp những kẻ hèn yếu, nghèo khó. Tỏ ra không thông minh bằng người đồng nghiệp ngồi đối diện, anh được người ta để yên thân và nâng đỡ. Chăm chỉ, trung thực, chậm rãi, và không tham vọng, anh hòa hợp với tất cả mọi người. Ban lãnh đạo đã định cất nhắc anh thành nhân vật thứ ba của công ty và sẽ bổ nhiệm anh vào vị trí mà hai kỹ sư khác tranh giành nhau từ vài tháng nay.
Bữa trưa anh ăn ở nhà ăn của công ty, đắm mình trong khói thuốc lá, thiu ngủ trong tiếng trò chuyện ồn ào những vẫn mở mắt. Đồng nghiệp của anh tự hào là con cháu của Descartes, Rousseau, Voltaire, Sartre, họ tranh luận với nhau. Trong một giờ họ tái hiện lại cả thế giới: những vụ bắt con tin, nhân bản người, hôn nhân của người đồng tính, bảo hiểm xã hội, bầu cử tổng thống, hiến pháp châu Âu, thợ nước người Ba Lan, mối hiểm họa Trung Quốc, và những kỳ nghỉ.
Rút cuộc vai diễn đã đồng nhất với hiện thực. Sự hiện thân đã bắt rễ trong lòng anh. Như một người cận thị quên mang kính, Jonathan không còn nhận ra chính mình nữa, anh ban phát những nụ cười ngơ ngác, những lời nói không rõ ràng và sự dễ thương giả tạo. Anh hành xử theo kiểu tự động, nghe thấy mà như không nghe, đáp lại người ta trong khi nghĩ đến chuyện khác. Anh đã di trú sang nơi khác mặc dù vẫn hiện diện ở đây. Anh đã tự xóa mình khi đang diễn xuất.
Buổi tối anh về phố Edmond Rostand. Ra khỏi ga tàu cao tốc B anh ngẩng đầu ngắm nhìn mặt tiền của ngôi nhà số 21. Cửa sổ căn hộ của Ayamei sáng đèn. Cô ta đang nghĩ đến điều gì? Cô ta đang làm gì? Khối năng lượng mà xe điện ngầm đã lấy mất của anh đã hoàn nguyên. Sự đờ đẫn tan biến. Anh trở nên tỉnh táo.
Tra chìa vào ổ khóa, quay một vòng. Sau cửa kính, công viên Luxembourg là cánh rừng hoang tràn đầy bóng tói.
Sự chờ đợi không bao giờ nhàm chán.
Sự chờ đợi tạo ra khoái cảm của người chơi.
Chiếc chìa vạn năng ngập sâu trong ổ khóa. Jonathan để cho đôi tay đeo găng khéo léo của mình hoạt động. Mỗi ổ khóa là một mê hồn trận thu nhỏ, là khối óc của nhà hiền triết, là chỗ kín của người đàn bà.
Cửa mở. Anh nhẹ nhàng khép nó lại. Đi qua một hành lang anh đến phòng khách, bí mật nhìn qua cửa sổ. Trong công viên Luxembourg, Ayamei vẫn đang dạy võ. Anh quay lại quan sát căn nhà kỹ lưỡng: ba căn buồng dành cho người giúp việc hợp thành một căn hộ khép kín.
Sáng thứ bảy, vào 8 giờ 15 phút, chủ nhà đã thu dọn ngăn nắp trước khi đi. Báo chí, thư từ, hóa đơn đặt ngay ngắn trên chiếc bàn làm việc nhỏ. Một giá sách treo trên tường. Khoảng trăm đầu sách tiếng Hoa, tiếng Pháp, tiếng Anh, xếp theo ngôn ngữ và thể loại, đặt trên giá theo khổ sách, giống như những chú lính ở tư thế đứng nghiêm. Trong phòng tắm chỉ có một chiếc bàn chải đánh răng. Bề mặt bồn rửa trắng bong không tì vết. Những giọt nước đọng đã được lau hết. Những tuýp kem, mỹ phẩm để trong ngăn kéo phân loại theo công dụng và khối lượng. Những chiếc khăn vệ sinh trắng tinh đã dùng ướt phơi trên thanh sắt mạ crôm, hai nửa buông xuống thẳng nếp chằn chặn. Con mắt nghề nghiệp của Jonathan chỉ nhận thấy sự lộn xộn duy nhất là mấy cái bong bóng trên bánh xà phòng còn ướt và một vết kem đánh răng trắng trên vòi nước.
Anh mở cánh cửa. Một chiéc áo váy liền thân bằng lụa cỡ nhỏ thường bày bán ở cửa hàng Hữu nghị Bắc Kinh treo trên móc áo. Nếp nhăn của nó còn mới. Anh áp mũi mình vào đó. Hương phụ nữ làm anh quên cú sốc khi thấy căn nhà tường trắng, không đồ mỹ nghệ, không hoa, không rèm che, chỉ có trang trí duy nhất là bầu trời, một đại dương bao la trên đó bồng bềnh những mái nhà Paris. Anh quấn chiếc áo quanh mặt, hít mạnh. Cái mùi anh cảm nhận được không gợi nhớ đến đất nước Trung Hoa mà anh từng biết. Đó không phải mùi gỗ đàn hương, mùi hương nhài, không phải mùi hương xạ trắng mang nữ tính truyền thống, cũng không phải mùi nước hoa Chanel số 5,1’ Angel, hay Eternity, mà người Trung Hoa hiện đại hay dùng. Cái mùi ấy không gợi lên những thành phố đang mở mang kinh tế, những vùng quê bụi bặm và ngày càng thưa dân. Chỉ đơn giản là một thứ nước thơm, thầm kín và cá tính.
Trở lại phòng khách, anh nhìn sang công viên Luxembourg lần nữa. Cô ta vẫn còn đấy. Anh khẩn trương lục soát ngăn kéo bàn làm việc. Ở đây vẫn ngự trị sự ngăn nắp. Giấy tờ, phong bì, tem thư, bút viết, cục tẩy, ghim giấy, kẹp giấy, dây cao su, tất cả để trong hộp. Hồ sơ liên quan đến Hội của Ayamei, hóa đơn tiền nhà, tiền điện, tiền ga, thẻ ngân hàng, tờ khai bảo thuế, mỗi thứ được để vào một bìa bọc khác màu, đánh số và xếp theo thứ tự thời gian. Ở hai ngăn kéo dưới anh tìm được một tập ảnh và nhận thấy chưa bao giờ cô khoác tay chụp ảnh với một người đàn ông.
Căn bếp sạch sẽ đến lo ngại. Không một hạt mỡ bám, không m