Chương 3
Chương 3
hững căn hầm không người ẩn nấu nối tiếp nhau, rồi một chuỗi gạt tàn đầy mẩu thuốc lá diễu qua. Phòng khách sạn, gắn liền với những bữa ăn sáng của lục địa già biến thành chiếc xe cho thuê. Các thành phố huyên náo và ô nhiễm bung ra như những bông hoa chứa chất độc. Những đợt sóng người trở thành những tua xúc cảm khổng lồ với những ống giác có hình dạng giầy dép, quần âu, áo vét, khuôn mặt. Một người đàn ông vào thang máy, nhảy lên xe tắc xi, chui xuống tàu điện ngầm. Đó không phải là bất kỳ ai. Ai chú ý quan sát sẽ thấy anh ta không bước đi giữa hè phố mà men theo những bờ tường có tác dụng che chắn sườn trái cho anh. Anh ta không ngớt nhìn những tia sáng hắt ra từ những chiếc tủ kính, theo dõi ánh sáng lấp lánh của thành phố. Anh ta chỉ đi vào những chỗ đông người, hòa vào dòng người một cách bình thản và cảnh giác. Vào một quán bar, anh ta chọn một bàn cạnh lối thoát hiểm. Một người đàn ông khác đến ngồi cùng anh có vẻ ngoài bình thường, nhưng cặp mắt thì luôn cảnh giác. Cả hai nhắm nháp rượu gin hương gừng với lạc và mắt luôn theo dõi cửa chính của quán bar.
- Trong đầu tôi có gì không ổn, tôi liên tục đếm. Ban ngày, tôi đếm xe cộ, đếm người đi dạo, và khách du lịch, ai cũng thấy khả nghi. Có tới chừng một trăm đối tượng. Buổi tối khi chỉ một mình, tôi cũng đếm: hai ghế bành, bốn chiếc ly, trang 10 của tờ báo, 12 giờ 10 phút đêm. Tony này, tôi sắp bị điên giống cậu Jack!
- Cậu đừng lo. Hiện tượng này cũng đã xảy ra với một vài người khác. Cậu bị mệt mỏi rồi. Đã hai năm nay cậu không đi nghỉ.
- Tôi không thể nghỉ! Ngừng làm việc là tôi bị trầm uất. Điều này còn tồi tệ hơn là điên.
- Đừng sợ. Cậu mạnh khỏe, cậu sẽ trụ được.
- Bằng cách nào?
- Câu hỏi hay! Tớ không biết, Bill. Trước kia thì tớ biết, bây giờ thì không biết nữa. Nhưng tớ vẫn trụ được.
- Cậu có tin tức gì về Jack không?
- Cậu ấy đang điều trị ở bệnh viện tâm thần, sức khỏe mỗi ngày một khá hơn. Đừng nhìn xuống dưới. Ngẩng đầu lên và nhìn trời chăm chú. Cậu sẽ không bao giờ bị chóng mặt.
- Trên trời… cuộc đời tớ là ở trên trời và trong những chiếc quan tài biết bay… Sẽ có ngày tớ không được đặt chân xuống dược mặt đất nữa.
Cuối phòng ăn, có người đánh rơi một chiếc dĩa. Hắn cuối xuống nhặt. Hắn đứng lên, và giương sung. Đạn nổ, ly cốc vỡ. Bill rên rỉ, mở mắt. Kẻ giết người đã tẩu thoát. Anh nghe thấy những tiếng vo vo liên tục và nhận ra tiếng động cơ máy bay đang ở độ cao chạy đường trường. Anh vừa có một cơn ác mộng.
Bill Kaplan đứng dậy đảo mắt nhìn khắp ca bin. Không có gì bất bình thường. Không dấu hiệu nào cho thấy mình đang bị đe dọa. Anh đến nhà vệ sinh rửa mặt cho tỉnh táo. Sau khi khóa cửa, bật đèn rồi đứng trước gương anh thấy trán mình đẫm mồ hôi. Anh gật đầu chào nhận vật trong gương. Xoa nước lên mặt, anh nhanh chóng nhớ lại ngày sinh của Jonathan Julian, phụ trách dự án của một công ty máy tính. Anh ngồi xuống bệ xí tiếp tục ôn lại những chi tiết về lịch sử bản thân, và của bố mẹ anh ta, ngày sinh, ngày mất của họ. Anh phát lại quá trình học tập, nghề nghiệp, và quá trình gia nhập giáo phái “ Sứ mạng địa cầu”.
Trở lại ca bin, anh đưa mắt nhìn khắp lượt các hành khách, trong đầu anh hình dung lại những cuộc chuyện trò của Ayamei.
Mấy cô tiếp viên đẩy xe phục vụ xuất hiện. Một cô người châu Á xinh đẹp da ngăm đen, cười với anh. Anh liếc vào tấm biển của cô: tên cô ta là Linda. Chắc cô ta phải có một thân hình tròn lẳn và cặp mông như hai trái xoài.
Hai mươi phút sau, đứng trước thiết bị cấp nước giải khát, Linda kể về cuộc đời mình cho Bill Kaplan nghe.
“Linda, cô có biết mình đang đứng trước một kẻ đã từng giết người?” Anh nói với cô trong tâm tưởng luôn pha trò, làm cô cười.
“Linda, cô có biết trò tán tỉnh này là cách tôi giải trí trước khi phải tiếp tục thực hiện bài tập rèn luyện trí nhớ nhằm chán vốn là môn thể thao hàng ngày của tôi? Cô có biết tôi quên đi bản thân mình và thấy vô tư khi nhìn thấy hàm răng xinh đẹp của cô?”
Linda xé một mảnh giấy và ghi vào đó số điện thoại di động, tên khách sạn nơi cô sẽ ở lại một đêm. Bill Kaplan đút mảnh giấy vào túi trong của chiếc áo vét. Anh đi mấy bước rồi quay lại. Cô cười với anh.
“Linda, cô có biết cô đang cười với một kẻ xa lạ, kẻ đó sẽ dành cho cô hai giờ trong cuộc đời của hắn để rồi vĩnh viễn biến mất không?”
Bill Kaplan đến gần cô nói bằng tiếng Anh.
- Tên tôi là Peter Schwab.
- Chào anh Peter, mong gặp lại anh.
°
Bắc Kinh. Một chiếc xe con hiệu Toyota màu trắng bon bon lăn bánh trên đường vành đai ba.
- Bill, trông anh thật đáng sợ!
- Tôi đang suy ngẫm.
- Vậy thế sao? Ổn chứ?
- Cũng không tồi để nói ra hết những suy nghĩ của mình. Helen khỏe chứ?
- Cô ấy đã bỏ tôi cách đây 6 tháng và đã quay về Boston.
- Tôi lấy làm tiếc.
- Cậu biết Helen mà. Cô ấy muốn có con, có một con chó, một ngôi nhà với hàng rào sơn trắng. Còn tớ thì chưa muốn về hưu.
- Tôi và Isabelle cũng gặp phải những vấn đề như cậu.
- Đừng lo cho tớ. Tớ ngủ với một cô người Hoa ở Bắc Kinh, một cô người Úc ở Thượng Hải, một cô Hàn Quốc ở Haerbin, một cô người Anh ở Quảng Đông. Cậu có nhớ đã nói gì với tớ khi Isabelle bỏ cậu không?
- Không, John, tôi không nhớ.
- “Chúng ta quá tự do nên hay chối bỏ tự do”.
- Tôi có nói thế à? Thực sự là bốn năm trước đây tôi rất lạc quan! Tưởng rằng chúng ra được tự do.
- Cậu có thấy tiếc Isabelle không?
- Tiếc ư? Tôi không biết. Một kẻ như tôi sống ngày nào biết ngày ấy. Hối tiếc là một tình cảm tốt. Tôi không xứng với tình cảm đó.
- Bill này, cậu đã thay đổi rồi. Trước đây cậu bớt khắc khe hơn với bản thân.
- Khi cậu Jack phát bệnh, tôi có mặt ở đó. Cậu ấy cắn những người qua đường. Việc ấy để lại cho tớ nhiều ấn tượng. Làm sao có thể quý trọng bản thân mình khi biết rằng ta cũng sẽ kết thúc cuộc đời giống như cậu ấy?
- Hình như cậu ấy ra viện đã được ba tuần, được vợ chăm sóc, và không cảm thấy buồn chán. Suốt ngày cậu ấy dùng các que diêm xây dựng các công trình, và đến cuối ngày thì lại phá đi.
- Có lẽ cậu ấy hạnh phúc hơn chúng ta.
- Chỉ có thượng đế mới biết điều ấy. Cậu từ đâu đến đây?
- Từ Kuala Lumpur.
- Cậu ở lại Bắc Kinh bao nhiêu lâu?
- Không quá một ngày. Hôn nay là thứ bảy. Tối mai tôi phải rời Bắc Kinh đi Singapore, Kuala Lumpur rồi về Paris. Sáng thứ hai tôi phải có mặt ở phòng làm việc.
- May mà tớ đang ở đây. Không ai có thể giải quyết giúp cậu vụ này đâu. Trung tâm có biết hành động của cậu không?
- Đương nhiên là không. Nếu tôi đề nghị, chờ họ nghiên cứu hồ sơ, thì sẽ mất thời gian và bị từ chối, cậu biết rõ người ta xử lí công việc như thế nào… Khi đề xuất không phải là của họ thì họ từ chối tất thảy. Chỉ để gây khó khăn và chứng tỏ họ mới là người quyết định.
- Bọn họ làm tớ phát chán. Họ ngồi chết dí ở văn phòng, và chơi game trong khi chờ điện thoại. Ở đây chúng ta làm việc như tù khổ sai và sắp chết vì mệt mỏi. Vừa rồi ba cộng sự của tớ đã bị thiệt mạng. Bọn Trung Quốc đã cử cao thủ võ lâm đến đánh vào yết hầu họ rồi vứt xác qua cửa sổ làm như đó là một vụ tự tử. Bây giờ cậu đã hiểu vì sao tớ để Helen rời xa mình. Tớ không thể giữ cô ấy lại.
- Cậu vẫn phải đối phó với mafia Trung Quốc chứ?
- Và những vụ khác nữa! Sẽ không bao giờ hết việc! Sau chiến tranh lạnh là chiến tranh giữa các vì sao. Phải chống lại tất cả: các bố già, các siêu gián điệp công nghiệp và đương nhiên cả bọn nội gián.
- Hãy lùi lại một chút đi John, đừng vội chết.
- Đúng, cậu có lý. Tớ luôn vội vàng. Điều đó không tốt. Đây là cặp kính màu, cậu đội chiếc mũ chơi bóng chày này nữa. Chúng không bắt bỏ mũ ra đầu. Năm nay tất cả các ngôi sao điện ảnh Trung Quốc đều đội loại mũ này khi họp báo. Mốt là thế. Cậu cũng đeo chiếc nhẫn cưới này vào. Danh thiếp của cậu đây. Khi gặp người Trung Quốc bao giờ cũng phải thực hiện nghi lễ trao đổi danh thiếp, không có gì thay đổi từ khi cậu sang châu Âu.
- “Christopher Lizard, nhà sản xuất. Nhà 2001, 10770 đại lộ Wilshire, Los Angeles, CA 90024”. Sao lại là Lizard[2]? Tớ rất ghét rắn giống thằn lằn.
- Đáng tiếc là nhiều khi tớ thiếu cảm hứng. Tớ tên là Georges Burner, trợ lý của cậu. Sau khi gặp lão, tớ thấy với loại người như lão cậu phải đi thẳng vào mục đích. Tớ đã thông báo cậu là nhà sản xuất độc lập, và đang chuẩn bị làm một phim tài liệu về Thiên An Môn. Tớ cũng đã giải thích là lão sẽ chẳng bị phiền hà gì. Chúng ta sẽ không quay phim lão. Tên lão cũng sẽ không xuất hiện ở bất cứ đâu. Chúng ta chỉ cần lão cho biết về Ayamei. Lão đã chấp nhận tất cả.
- Tiếng Anh của lão ấy thế nào?
- Lão xoay sở rất tốt. Còn cậu chưa quên tiếng Trung đấy chứ?
- Chưa.
- Lão là nhà thầu khoán bất động sản số một ở Bắc Kinh. Cậu sẽ thấy toàn bộ văn phòng của hắn được dát vàng 24 ca ra! Những trọc phú người Hoa không bao giờ e ngại những sở thích chẳng ra gì. Cậu sẵn sàng chưa? Văn phòng của hắn ở phòng 21. Tớ sẽ đến tìm cậu ở khách sạn lúc 19 giờ và sẽ đưa cậu đi chơi Bắc Kinh.
- Cảm ơn.
Jonathan vỗ vai người đồng nghiệp cũ.
°
Số 235, phố Trường An.
Tay vịn mạ vàng, gương sáng bóng, đá hoa màu hồng. Ánh sáng trong thang máy thay đổi theo tầng gác, rồi cửa mở êm như ru. Một con chim phượng khổng lồ giương đôi cánh vàng đứng uy nguy trước quầy lễ tân sang trọng. Đứng sau quầy là 7 cô người Hoa xinh đẹp đeo tai nghe và micro.
- Xin chào, tôi là Christopher Lizard, tôi có hẹn với ông Zhang Ying.
- Chào ông. Chúng tôi sẽ báo cho văn phòng của ngài chủ tịch. Xin ông vui lòng chờ một chút.
Một cô đưa anh đến một góc gian sảnh dùng để tiếp khách.
10 phút sau, một cánh cửa sơn bóng lộn mở ra, một phụ nữ Hoa khác mặc đồng phục xuất hiện.
- Chào ông, ngài chủ tích Zhang Ying đang đợi ông.
Theo người hướng dẫn, Christopher đi vào một hành lang im ắng trong đó có đặt nhiều camera theo dõi. Bên trái bên phải hành lang ở khoảng giữa những chiếc cửa bọc da có treo ảnh của các tòa nhà cao ốc dán trên những tấm pano dài hai mét. Anh lên một thang máy khác ốp gỗ mun. Người phụ nữa Hoa bấm mã số cho nó khởi động.
Cửa mở, anh lại thấy mình trong một căn phòng rộng, tràn ngập một thứ anh sáng kỳ lạ bảy sắc. Thứ ánh sáng đó được tạo nên bởi ba nguồn sáng. Đó là một cái cửa sổ rộng 20 mét, cao 5 mét, những bức tường dát vàng và 4 chùm đèn bằng pha lê treo thẳng hàng ở giữa trần nhà. Một người đàn ông đang nói chuyện điện thoại sau chiếc bàn làm việc được cấu tạo bởi những bức tượng đồng các vũ nữ Trung Hoa trong trang phục áo dài truyền thống, tay nâng một chiếc mâm dày bằng đá hoa. Chủ tịch Zhang người mảnh dẻ nhỏ nhắn trong bộ com lê kẻ sọc, ca vát tím, khăn tay cài túi áo màu vàng. Tóc ông xịt gôm rẽ ngôi giữa. Ông đeo kính gọng vàng, sau cặp kính là một đôi mắt thâm quầng đuôi nhăn chân chim. Cặp ria thanh mảnh, mốt của thời kỳ tươi đẹp những năm 90 của thế kỷ trước, miệng nhỏ như miệng phụ nữ. Ông gác máy vào tiến về phía Christopher Lizard, chìa tay cho anh.
- Tôi là Zhang Ying, ông nói tiếng Anh một cách tự nhiên. Rất vui được gặp ông.
Christopher Lizard đáp lại bằng tiếng Hoa:
- Cảm ơn ngài chủ tịch đã tiếp tôi, nhất là vào một chiều thứ bảy.
Thích thú thấy một người nước ngoài nói tiếng mẹ đẻ của mình, chủ tịch Zhang Ying cười hết cỡ và nói tiếp bằng tiếng Hoa.
- Tôi luôn làm việc vào thứ bảy và chủ nhật. Cạnh tranh trong khu vực của chúng tôi rất khốc liệt.
Zhang Ying rút trong túi áo vét ra một cái hộp bằng vàng, lấy ra một chiếc danh thiếp đưa cho Jonathan. Anh đưa lại cho ông danh thiếp của mình. Sau khi kết thúc các nghi lễ xã giao, hai người ngồi xuống ghế bành đối diện với nhau.
Thời gian qua Christopher Lizard ít dùng tiếng Trung, nên bây giờ anh nói không được nhanh.
- Thưa ông chủ tịch, cảm ơn ông đã nhận lời cộng tác với chúng tôi. Xin ông tin rằng tôi rất khâm phục sự dũng cảm của ông. Như ông đã thỏa thuận với trợ lý của tôi, tôi đến đây không mang theo sổ ghi chép, và máy ghi âm. Những gì ông nói với tôi sẽ chỉ có ông và tôi biết.
- Ông nói tiếng Trung tốt quá. Đáng khen. Đại học Đài Bắc đúng không?
- Xin lỗi vì giọng của tôi.
Zhang Ying cười độ lượng.
- Có gì ông cứ hỏi, tôi sẽ trả lời trong chừng mực có thể. Chỉ có điều, xin lỗi ông trước, tôi không có nhiều thời gian. 30 phút nữa tôi có một cuộc hẹn khác.
- Tôi xin ông nửa tiếng là đủ và cảm ơn ông vì điều đó. Trợ lý của tôi đã trình bày với ông. Trong phóng sự mà tôi đang thực hiện, tôi muốn giới thiệu chân dung của Ayamei. Không phải với tư cách là một gương mặt chính trị mà là một thiếu nữ đã chứng kiến những biến động ở Trung Quốc. Tôi được biết ông có quen biết cô Ayamei. Xin ông hãy nói cho chúng tôi nghe về cô ấy.
- Để tiếp cận được tôi, chắc ông đã phải tìm hiểu thông tin. Có phải cô ấy đã nói về tôi với ông?
- Ayamei có kể cho tôi nghe về Min, em trai ông.
- Ông uống gì? Cô nhắc, hay uýt ki? Hay ông thích dùng cô ca, trà hoặc cà phê?
- Xin ông một cốc trà.
Ying đứng dậy, gọi điện thoại và yêu cầu. Ông lấy từ trong ngăn kéo văn phòng ra một tấm ảnh.
- Người bên trái là Min, em tôi.
Giấy ảnh đã chuyển sang màu vàng. Tấm ảnh được chụp trong một ảnh viện, đề ngày 1 tháng 6 năm 1980. Hai thiếu niên, đầu gần như trọc, mặc sơ mi trắng, quấn khăn quàng đỏ đội viên thiếu niên. Bên phải là Ying, không mang kính, cười hết cỡ, Min có đôi tai to, bộ mặt co rúm. Nhìn cậu người ta như thấy ánh sáng đèn dùng cho máy ảnh và tiếng người thợ giục cười. Cặp mắt của Min âm thầm nhìn Christopher Lizard hay Jonathan Julian hay Bill Kaplan. Cậu bé như muốn kể với người anh cuộc đời ngắn ngủi của mình.
- Xin ông cho biết về người em trai.
- Cha mẹ tôi là kỹ sư. Khi chúng tôi còn nhỏ, họ thường vắng nhà. Tôi hơn Min hai tuổi và từ rất sớm tôi đã ý thức mình phải có trách nhiệm làm anh. Min không nghe lời tôi. Sau buổi học ở trường, nó không làm bài mà dành thời gian để viết cái gọi là thơ hay vẽ tranh. Kết quả học tập của nó rất kém. Nó luôn đứng cuối lớp. Năm 1982 cha mẹ tôi quyết định chuyển chúng tôi đến trường Mặt trời mọc. Ở đấy tôi đã gặp Ayamei lần đầu tiên.
Chuông điện thoại reo, ông đứng bật dậy, và rời chiếc ghế bành.
- Xin lỗi ông.
Ba phút sau ông ta gác máy và lại ngồi xuống ghế.
- Tôi đang nói gì nhỉ?
- Trường trung học Mặt trời mọc.
- Từ năm 1983, đây là lần đầu tiên tôi nói về chuyện này với người khác. Hai mươi hai năm…
Có tiếng gõ cửa. Một phụ nữ trẻ mang bộ đồ uống trà đặt xuống chiếc bàn thấp.
- Đây là trà Cao Sơn. Chắc anh biết loại trà này. Đối tác của tôi từ Đài Loan gởi cho.
Christopher uống hết chén trà nhỏ xíu.
- Tuyệt vời!
- Trường Mặt trời mọc đào tạo được nhiều học sinh giỏi, thi đỗ kỳ thi tuyển quốc gia vào các trường đại học. Cha mẹ tôi đã phải nhờ cậy nhiều mối quan hệ mới xin được cho chúng tôi vào đó. Ở đấy, học sinh mỗi ngày phải học 10 tiếng, mỗi tháng phải thi một lần. Trước cổng trường treo một cái bảng lớn thông báo kết quả thi. Chúng tôi đến xem mà tim đập chân run. Tôi đau khổ khi không thấy tên mình đứng đầu bảng xếp hạng. Min thì không bao giờ bi quan mặc dù nó luôn là học sinh kém nhất lớp, tên nó bị viết bằng mực đỏ. Nó làm cha mẹ tôi thất vọng, các cụ muốn chúng tôi theo bước mình vào học trường Thanh Hoa, trường đại học bách khoa danh tiếng nhất Trung Quốc. Ngay cả khi đã vào trường Mặt trời mọc em tôi vẫn tiếp tục lười học. Một việc chắc chắn là không những nó không vào được Thanh Hoa mà còn sẽ trượt kỳ thi tuyển và sẽ không được nhận bất kỳ tấm bằng đại học nào.
Bỗng Ying thay đổi sắc mặt và để tay lên ngực trái. Ông lấy từ túi trong của chiếc áo vét ra một máy điện thoại di động đang đổ chuông. Ông trả lời rồi đi đến bàn làm việc bấm số máy cố định. Xong ông quay lại.
- Tôi xin lỗi. Khi ấy Min 14 tuổi. Ba năm sau nó sẽ phải dự thi. Nó không thể bắt đầu ôn tập vào những năm cuối. Với 12 cuốn sách giáo khoa mỗi môn trong sáu năm trung học cộng lại là 72 quyển phải học thuộc lòng. Tôi có làm ông sợ vì các con số không? Ông có biết vì sao Trung Quốc phát triển quá nhanh không?
- Đó là một vấn đề hấp dẫn. Ông nói đi.
- Ở nước tôi, nam nữ được rèn luyện để bước vào cuộc cạnh tranh ngay từ tấm bé. Khi tôi còn nhỏ, cha mẹ tôi đã phải vật lộn để có được mọi thứ, được cấp căn hộ, được mua ba mét vải, một chiếc máy thu hình màu, chưa nói đến việc tăng lương. Đó là cuộc chiến một mất một còn. Tôi nhớ lại những hành động xấu xa mà các đồng nghiệp của bố mẹ tôi gây ra cho các cụ vốn là những người hết sức lương thiện và hay lo lắng. Mẹ tôi hay khóc. Bố tôi thường nổi giận vô cớ. Ông cụ gầm lên rồi đập nát bát đĩa. Cha mẹ tôi hy vọng chúng tôi sẽ trả thù cho các cụ, thế mà Min đã gây thất vọng! Ông phải hiểu là ở Trung Quốc mọi việc rất đơn giản. Chúng tôi đông đúc quá nên không có lựa chọn, chỉ một con đường là chạy nhanh hơn kẻ khác nếu không sẽ bị loại bỏ.
Một cú điện thoại nữa lại ngắt lời ông. Trả lời xong ông nói tiếp.
- Ayamei tóc tết thành hai bím, người thấp và hơi béo. Trên đường về nhà, tôi thường gặp cô ta đi cùng em tôi. Hai đứa đạp xe, luôn miệng trò chuyện với nhau. Lúc đầu tôi thấy thế là tốt. Ayamei học giỏi, tên cô ta nằm trong số những học sinh đứng đầu lớp. Nhưng điểm yếu của em trai tôi vẫn không khá hơn. Vì thấy hai đứa lúc nào cũng bên nhau nên tụi bạn học của chúng bắt đầu đàm tiếu. Ngày nay cuộc sống ở Bắc Kinh đã thay đổi. Ở trường trung học của con gái tôi, tôi thấy bọn trẻ tay trong tay đi bên nhau trước mặt mọi người. Ở thời chung tôi, học sinh “quan hệ” với nhau là phạm tội, bị đuổi học ngay tức khắc…
Điện thoại di động kêu bíp bíp. Ying ngừng nói, nhắn tin trả lời, rồi lại trở về với kỷ niệm của mình.
- Ông có thể nghĩ điều ấy là vô nhân đạo… nhưng thế hệ của chúng tôi đã được nuôi dưỡng bằng biện pháp cứng rắn. Giải trí của chúng tôi chỉ là những bộ phim chiến tranh. Phim nước ngoài thì đếm được trên đầu ngón tay: phim Liên Xô, Nam Tư, Triều Tiên. Tất cả đều nhằm tuyên truyền lòng dũng cảm, tinh thần kỹ luật và hy sinh. Không ai được nghe nói đến Freud, Tocqueville hay Nietzsche. Người ta bảo nội quy học đường được soạn ra nhằm đem đến cho chúng tôi những điều tốt đẹp. Vì vậy phải chấp hành. Ví dụ quy định về quần áo: sáng sáng, bọn đại diện học sinh đón chúng tôi ở cổng trường, đo chiều dài mái tóc, đo chiều rộng ống quần của chúng tôi; chỉ cần sai so với quy định một tí là chúng cắt tóc và cắt quần ngay. Vì vậy ông có thể hình dung vụ “quan hệ: giữa em tôi và Ayamei gây tai tiếng như thế nào!
Điện thoại kêu bíp bíp. Ying nhắn tin trả lời rồi tiếp tục câu chuyện.
- Thầy giáo của chúng tôi báo cho cha mẹ tôi và cha mẹ cô bé biết. Tất cả được huy động để chia rẽ hai đứa bé đã vi phạm luật pháp.Vâng chúng tôi đã từng thuộc một chủng loại người khác. Ngày nay tôi và vợ tôi đáp ứng hết thảy những đòi hỏi đỏng đảnh của đứa con độc nhất. Thời ấy cha mẹ tôi cũng như tất cả các bậc phụ huynh khác theo truyền thống Trung Hoa rất khắt khe và vô cảm với con cái. Min và cô bạn gái đã bỏ qua mệnh lệnh của họ, sự cứng đầu của hai đứa đã làm cho người lớn vô cùng giận dữ. Cha mẹ tôi đã đề nghị với Đội sản xuất cử họ về tỉnh lẻ. Chúng tôi đã chuyển về một tỉnh phía Nam. Min trở nên kỳ lạ. Nó không nói chuyện với ai và rất dễ khóc. Tôi không ngớt mắng mỏ nó, vì nó tôi đã phải rời bỏ một trường trung học tốt nhất Trung Quốc để học một trường chẳng ra gì, và tôi sợ bị trượt kỳ thi quốc gia.
Điện thoại reo, Zhang Ying nhấp nhổm đứng lên nhưng ông lại ngồi xuống.
- Ayamei, cô gái đó ám ảnh tôi! Tôi rất căm thù cô ta vì cô ta đã cướp đoạt tâm hồn em tôi. Cô ta đã kể cho ông chuyện xảy ra chưa? Không biết chúng đã “quan hệ” với nhau chưa mà thằng bé quyết tìm đến cái chết?
- Tôi tin rằng chúng chưa làm gì cả.
- Không thể thế được. Vì sao em tôi tự tử?
- Tôi không biết. Min là người yếu đuối… hai đứa yêu nhau.
- Tình yêu ư? Chắc chắn ông từ Hollywood đến đây. Ở đấy những chuyện tình mang lại tiền. Ông tin có tình yêu giữa hai đứa bé mới 14 tuổi đầu? Năm nay tôi đã 40 nhưng chưa bao giờ yêu, ngay cả vợ tôi. Quá nhiều việc, quá nhiều sức ép, quá thiếu ngủ. Tình yêu chỉ để cho loại vật: chúng cắn xé nhau hoặc yêu nhau. Con người trong đầu quá phức tạp: họ yêu tiền, quyền lực, chiến tranh, tình dục, và rượu cồn…
Điện thoại lại reo. Ying đứng dậy nhấc máy, ra lệnh rồi cúp máy ngay. Ông không ngồi xuống nữa mà đi quanh Christopher.
- Một hôm tôi mở máy thu hình và thấy Ayamei. Cô thiếu nữ này đã thành phụ nữ làm thức dậy trong tôi một nỗi đau vô bờ. Tôi khóc khi nghĩ nếu Min còn sống năm đó nó đã 20 tuổi. Những ngày sau, tôi ghi lại tất cả những thông tin liên quan đến hoạt động của cô ta. Ban đêm tôi xem lại hình ảnh của cô. Tôi chăm chú quan sát những thay đổi của cô bé bằng cách cho máy quay chậm. Tôi thầm nghĩ có lẽ Min sẽ không yêu đôi mắt dữ dằn và giọng nói bây giờ của cô ta. Và tôi quyết định sẽ nói chuyện với cô ta.
Ying nới ca vát và cởi nút áo cổ, tháo kính lấy chiếc khăn dắt túi ra lau rồi lại đeo lên mắt.
- Hôm ấy mưa. Với chiếc giấy thông hành được một binh sĩ xin cho, tôi qua được hàng rào cách ly sinh viên, và vào được giữa quảng trường Thiên An Môn. Nước chảy thành dòng trên đài tưởng niệm những người Anh hùng vì Tự do…
Điện thoại di động reo ráo riết. Ying nhìn số hiện ra trên màn hình và trả lời.
- Tôi sẽ gọi lại cho cậu. Đúng… À không, 18 giờ rưỡi ở Hương Đông. Đến ngã tư Dong Dan thì rẽ về công ty Sunlight thì rẽ trái và đi về phía Tây, sau năm phút lại rẽ trái, đi vào một con phố nhỏ thì thấy một chiếc đèn lồng đỏ treo trên cây. Rõ chưa? Các vị lãnh đạo sẽ đến lúc 19 giờ. Cậu phải có mặt ở đó đúng giờ. Tôi sẽ đến chậm 10 phút.
Ông quay về phía Christopher.
- Ta đang nói đến đâu nhỉ? Trên bậc cấp có một chiếc lều mái lợp bằng những tấm mỏng phết nhựa đường dựng cho lãnh đạo phong trào trú mưa. Từ xa tôi đã thấy Ayamei. Cô ta đứng trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài bằng tiếng Anh. Quanh tôi có hàng ngàn sinh viên đang biểu tình tuyệt thực. Họ nằm trên những túi nhựa trải trên đất. Tôi nhận ra mình thật nực cười. Bây giờ có phải là lúc hỏi cô ta vì sao Min đã chọn cái chết không? Tôi lặng lẽ quay về.
Điện thoại cố định đổ chuông, ngừng một lúc, rồi lại reo tiếp. Ying nhấc máy.
- Sao? Đã đến rồi à? Bảo họ đợi. Hai phút nữa tôi sẽ xong.
Ông quay sang Christopher Lizard.
- Tôi xin lỗi, tôi buộc phải kết thúc cuộc nói chuyện ở đây. Tập đoàn của chúng tôi đang đàm phán mua một lô đất gần Vạn Lý Trường Thành để xây dựng 8 cao ốc và 50 tầng sang trọng nhất vùng bắc Trung Quốc. Tôi muốn biến nó thành một khu liên hợp gồm các cửa hàng lớn, văn phòng và nhà ở.
- Cảm ơn ông. Lời chứng của ông rất quan trọng.
- Ông dừng lại, hãy liên lạc với tôi nếu cần. Biết hôm nay ông sẽ đến, tôi đã chuẩn bị cho ông một thứ.
Ông cầm tờ giấy các tông trên mặt bàn lên.
- Ông hãy cầm lấy bức họa này và đưa cho Ayamei. Đây là chân dung cô ta do em tôi vẽ.
Bức tranh màu nước vẽ một thiếu nữ đang ngồi trên ngưỡng cửa. Sơ mi trắng, váy đỏ, cặp chân trần lười nhác duỗi trên nền nhà. Cô cầm một cuốn sách nhưng không đọc. Cái nhìn của cô hướng ra bên ngoài. Nơi ấy phác họa phong cảnh mờ ảo của một thành phố.
- Ông có thể lật mặt sau tấm chân dung này… Ông thấy không? Có lưu bút của Min và của Ayamei. Đây là chữ của em tôi “Ayamei là một mẫu hình xấu. Cô ấy rất hiếu động. Muốn giữ cô ấy ở một chỗ thì phải kể chuyện hay hát cho cô ấy nghe”. Ayamei thì viết vào góc này: “ Chúng tôi nhìn được toàn cảnh thành phố. Các đường phố dệt nên một cái mạng nhện lớn. Phía tây có Tử Cấm Thành và những mái nhà lợp ngói vàng. Phía đông là những tàn tích của cung điện Mùa Xuân. Tôi cũng thấy loáng thoáng ngôi trường của của chúng tôi, các bạn học trông nhỏ như những con kiến đen đang chơi bóng đá. Min bảo thế giới ở nơi ấy là một quyển sách đã mở, rằng để đọc nó, chúng tôi phải ngồi ở tít trên cao gần với bầu trời”.
- Ông hãy đưa bức vẽ cho Ayamei. Nước Trung Hoa ngày xưa đã chết cùng với Min. Ông hãy lại đây tôi cho xem nước Trung Hoa hiện đại.
Bên ngoài cửa kính, thành phố đang uốn mình dưới bầu trời nhợt nhạt, ô nhiễm. Cái mạng nhện không còn diện mạo như cô thiếu nữ Ayamei đã hình dung. Nó đã có thêm chiều thứ ba, đã tiến đến sát bầu trời và bám vào những tòa cao ốc nối tiếp nhau đến vô tận. Christopher tìm kiếm một vệt màu trong cái mênh mông kia nhưng vô ích. Đó là một thế giới làm bằng những đường thẳng màu bạch kim, những đường cong xám xịt và trăm nghìn những vệt đen nhạt.
- Tôi có một ý về nguyên nhân cái chết của em tôi, Zhang Ying nói, ông làm như đang chiêm ngưỡng phong cảnh. Vì sao nó đã chối bỏ tương lai khi mà chỉ cần một chút kiên nhẫn? Có thể nó sẽ trở thành nhà văn, họa sĩ hay doanh nhân, sẽ cưới Ayamei… Min là người yếu đuối. Nó không chịu được sự đua tranh nên đã chọn cái chết.
Ông quay sang Christopher.
- Chúng sẽ có với nhau một đứa con. Tết đến chúng tôi lại quay quần bên nhau… Mà thôi, nuối tiếc để làm gì. Min đã chọn con đường đào ngũ, còn tôi là người lính mẫu mực. Tôi sẽ chiến đấu đến cùng chống lại các đối thủ cạnh tranh, chống lại đổ bể tài chính, và khủng hoảng chính trị.
- Thỉnh thoảng ông cũng nên đi nghỉ, Christopher đưa ra một lời khuyên.
Zhang Ying mỉm cười. Trong cái cười của ông có niềm tự hào, sự nhẫn nhục và nỗi thất vọng. Chuông điện thoại di động của ông lại reo. Ông nghe máy. Vừa thương lượng về những thay đổi trong hợp đồng, ông vừa chỉ cho anh xem những tòa nhà mang tên ông. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… vô số những hình nón, hình khối, hình ống cao chót vót bám theo xa lộ, những cn đường ngoằn ngoèo trong mê hồn trận không lối thoát.
°
Giữa hồ Hou Hai, trên một chiếc xe đạp nước.
Phía xa, nhạc jazz, nhạc opera, nhạc rock phát ra từ những cánh tay. Bill và John đạp xe. Hai người bạn đã gieo xuống dưới chân mình một vòng tròn lon bia rỗng.
- Do you still believe in America, the world’s bright future, the bastion of democracy? ( Cậu có còn tin vào nước Mỹ, thế giới của tương lai tươi sáng, thành trì của nền dân chủ?)
- I don’t believe in anything anymore ( Tôi không còn tin vào bất cứ điều gì nữa), Bill đáp. Tôi có quá nhiều danh tính nên ngay cả bản thân mình cũng không tin.
- Bill à, tớ 39 tuổi mà đã thấy chán đến cổ! Không người nào biết tớ là ai. Khi tớ qua phố không ai nhận ra tớ. Khi tớ nhắm mắt xuôi tay cũng không biết báo tử dưới cái tên nào.
- Tất cả những người đang ăn uống kia, cậu có biết gì về họ không? Cậu tưởng họ sẽ để lại dấu vết? Cậu hãy nhìn lên trời. Thế, trời Bắc Kinh không còn vì sao nào. Cậu hãy nhắm mắt và tưởng tượng một bầu trời mùa hè đầy sao. Cậu hãy nhìn chăm chú và sẽ thấy những vì sao ở khắp nơi, trên khắp vũ trụ. Cậu chỉ biết một vài ông, vì các ông sao ấy được đặt tên. Con người cũng vậy. Chỉ là một vì sao vô danh trong đêm tối.
- Cậu có muốn biết vì sao Helen bỏ đi không?
Bill thở dài.
- Có, cậu kể đi.
John uống cạn lon bia rồi nhăn mặt.
- Chúng tớ dối nhau mọi lúc và về mọi thứ.
- Chuyện bình thường, nghề nghiệp nó buộc như thế.
- Nhất là chúng tớ dối nhau cả những chi tiết vô nghĩa để che giấu con người thực của mình: Anh có biết chơi cờ không? Không! Anh biết nói tiếng Hoa không? Không! Anh có uống bia rượu không? Không! Anh có biết Haerbin[3] không? Không! Anh biết nhảy không! Không!
Bill cười chua chát.
- Tôi cũng gần giống cậu, nhưng thỉnh thoảng tôi nói thật để tung hỏa mù.
- Cách đây sáu tháng, Helen làm món mỳ Italia theo kiểu Bolona. Cô ấy hỏi tớ có thích ăn không. Tớ rất khoái món ấy và Helen biết điều đó. Nhưng tối hôm ấy tớ bị mệt, và tớ trả ơn cô ấy không suy nghĩ: “Không!” Cô ấy đã đập tan bát đĩa rồi bỏ đi…
- Thôi John, hãy quên đi chị ấy đi. Phụ nữ biết họ có thể chịu khổ đến mức nào.
- Phụ nữa ư? Vì sao họ tồn tại? Cậu thấy không, bây giờ tớ đặt ra cho mình hàng tá câu hỏi. Còn cái chết? Cậu có hiểu nó là gì không?
- Thính thoảng tôi cũng nghĩ đến nó. Tử thần làm ta đau đầu, chỉ thế thôi.
- Từ ngày Helen bỏ đi, tớ không còn lo sợ như trước, không sợ mình chết đi để lại cô ấy một thân một mình trên thế gian này, hay không sợ thấy cô ấy bị kẻ thù sát hại. Nhưng ngay cả lúc làm tình tớ cũng không được bình yên. Nằm trên một cô gái nhưng tớ vẫn có cảm giác có kẻ nào đó đột nhiên hiện ra sau lưng và cho tớ một nhát dao. Cậu hiểu không, tớ chấp nhận tất cả trừ việc phải gục chết khi trên người không một mảnh áo quần, và của quý thì đang dựng ngược. Vấn đề không phải là khi nào, mà ở chỗ nào mình có thành trò cười hay không.
- Bây giờ mà cậu đã quan tâm đến việc sẽ chết như thế nào ư, John? Cái tuổi tứ tuần đã khiến cậu ra thế, cậu đang hoàn toàn khủng hoảng!
- Tớ không rõ. Tớ thấy chán. Cậu có nhớ năm ngoái trong một quán giải khát ở Băng Cốc, khi chúng ta nhảy lên một chiếc bàn và làm một màn thoát y vũ không?
- Bọn con gái sướng điên và chủ quán muốn thuê chúng ta làm việc.
- Cũng chính từ tối ấy tớ chợt nhận ra mình đã chán vui chơi. Từ đó tớ không thể vui vẻ hết mình. Có gì đó trong tớ bị đổ vỡ. Tớ không thể quên được mình. Tớ tồn tại… Khốn khổ, sao tớ lại tồn tại? Vào tuổi bốn mươi, tớ tin vào nước Mỹ, vào nền Dân chủ. Giờ đây mọi niềm tin của tớ đã lụi tàn! Tớ nói dối những kẻ giả dối dùng chúng ta làm công cụ, tớ chiến đấu với những kẻ dối trá không đồng tình với những lời nói dối của chúng ta. Bill à, tớ luẩn quẩn như một con kiến bò ra bò vô. Tớ đã chán ngấy!
John say, anh khóc nức nở.
°
Tại một phòng trong khách sạn Kun Lun.
Bill Kaplan tỉnh giấc, xem đồng hồ, 4 giờ 23 phút. Cuối giường, chiếc máy thu hình vẫn sáng nhưng không có tiếng. Trên màn hình có một người đàn ông đang thủ dâm trước cái miệng mở rộng của một phụ nữ.
Anh nhớ lại khi về đến đây anh đã say như chết và đã xem phim khiêu dâm và làm tình với cô tiếp viên hàng không. Anh nhìn lên giường. Cô gái người châu Á vẫn đang ngủ. Tên cô ta là gì nhỉ? Anh đã quên ngay rồi. Anh nhẹ nhàng mặc quần áo trong bóng tối rồi chuồn khỏi phòng như một tên trộm.
Bên ngoài Bắc Kinh, thành phố không bao giờ nghỉ. Qua đám mây mỏng hình thành từ bụi khí ô nhiễm ngưng đọng trên thành phố 17 triệu dân và người nhập cư, anh nhận thấy những công trường còn sáng đèn, nghe thấy tiếng âm vang không rõ rệt của một chiếc máy, thỉnh thoảng gián đoạn bởi những chiếc xe hơi đang lao qua những chiếc cầu vượt. Anh gọi một chiếc tắc xi. May là anh vẫn còn nhớ tên khách sạn của mình.
Đứng dưới vòi sen, anh xát xà phòng lên người rất mạnh. Chính lúc ấy khuôn mặt của Ayamei chợt hiện ra trong tâm trí anh. Anh hình dung rất rõ đôi mày rậm, hàng mi cứng làm cho cặp mắt cô mang dáng vẻ của một thiếu nữ còn hoang dại. Cô nhìn anh mãnh liệt. Cái nhìn của cô giống như cái nhìn của lũ chó săn nhìn chủ đầy say mê và độ lượng. Bill lắc đầu, hình ảnh ấy biến mất.
Trên giường, chiếc va li đã sẵn sàng. Anh xem lại lần nữa tấm chân dung Ayamei mà Zhang Ying đã cho anh trước khi bỏ nó vào cặp. Anh mỉm cười khi thấy đôi chân cô năm ấy còn nhỏ nhắn và ngực cô còn phẳng. Cô quay mặt không nhìn anh. Anh chỉ nhìn thấy gáy cô. Tuy nhiên, anh đoán ra vẻ hân hoan trên khuôn mặt ngập nắng đang hướng về một thành Bắc Kinh dù nó không còn tồn tại. Niềm vui thầm lặng đó cuốn hút anh đưa chân anh lên đỉnh đồi gặp người thiếu nữ. Cô lao tới anh, một tay ôm lấy cổ anh. Tay kia chỉ cho anh Tử Cấm Thành với mái ngói vàng và những di tích của cung điện Mùa Xuân.
Bill đóng cửa và bước vào thang máy.
Anh vẫy một chiếc tắc xi và nhanh chóng ra sân bay.
Vĩnh biệt Bắc Kinh, thành phố với sáu đường vành đai, thành phố đang kiên nhẫn chờ đợi Thế vận hội Olympic, thành phố mà John và Zhang Ying cùng chung sống, một là nhà xây dựng, một là điệp viên, và cả hai đều ngụp lặn trong sự mênh mông khó chịu đựng của nó.
°
Paris, số 21 Edmond Rostand, tầng tư.
Jonathan quẳng hành lý ở ngay cửa ra vào.
Anh mở tất cả các cửa sổ.
Trước mắt anh, một bầu trời đen xám. Mưa rơi dìu dịu trên công viên Luxembourg. Nó vắng vẻ, vì chưa đến giờ mở cửa đón khách. Chỉ một thay đổi duy nhất trong cái phong cảnh bất động kia: cây hạt dẻ to lớn đã mọc lại. Anh không còn nhìn thấy tháp Eiffel nữa.
Mưa rơi. Hàng nghìn, hàng triệu giọt như những chiếc kim trong suốt, những cặp mắt vô hồn. Mưa rơi trên đầu, lăn trên mặt, chảy vào miệng, luồn xuống ngực anh. Trên máy bay anh đã xây dựng kịch bản cùng những lời nói bóng gió dành cho Ayamei. Những lời hài hước quen thuộc của anh sẽ che đậy thông điệp anh nhớ cô. Anh ra khỏi phòng tắm và đến trước gương cạo râu. Bộ mặt của anh làm anh nhớ đến khuôn mặt người cha. Sao anh có thể không khinh bỉ chính mình? Không gì cả. Anh sẽ không làm gì nữa. Không lên nhà cô ta, không ôm chặt cô ta trong vòng tay. Anh sẽ chỉ gọi điện thoại cho cô ta từ văn phòng để báo mình đã về. Căn hộ này không phải của anh. Cái tên Jonathan chỉ là tên giả. Anh không biết năm sau mình sẽ ở đâu và sẽ tên là gì. Thậm chí bây giờ anh cũng còn tin chắc hôm nay là sinh nhật anh.
Anh nhớ lại ngày sinh của các nhân vật mà anh đội lốt. Anh thuộc làu sinh nhật của những ông bố, bà mẹ mà anh tưởng tượng ra. Không ai hiện diện để nhắc anh ngày anh đã cất tiếng chào đời. Không ai cả kể từ khi bố anh, điệp viên cũ của CIA đã biến khỏi Viên, sau đó lại xuất hiện ở Matxcơva, và kể từ khi mẹ anh bị bệnh Alzheimer và mất hẳn trí nhớ.
“Con người sẽ được cứu thoát nếu ngừng soi gương”, mục tiêu của anh đã có lần bảo thế. Cô ta có lý. Đằng sau tấm gương là một thế giới của những cô Ayamei đang sống mà những cậu Jonathan không bao giờ đặt chân.
°
Ayamei ôm hôn anh, xiết chặt anh, dụi đầu vào người anh rồi chạy đi. Rồi cô trở lại. Mặt ửng hồng, cô ngồi xuống đối diện với anh.
- Anh về sáng nay à?
- Ừ.
- Hôm nay anh đi làm?
- Ừ
- Anh có mệt không?
- Không.
- Đáng lẽ anh phải để em nấu bữa tối.
- Anh đi qua cửa hàng bán thức ăn sẵn. Thế nhanh hơn.
- Anh có vẻ kỳ lạ… anh buồn. Sao thế?
- Anh, buồn? Có thể… Anh hơi mệt một tý.
- Để em xoa bóp cho anh.
Cô đứng lên đi ra sau lưng anh. Cô bóp vai, bóp đầu cho anh. Anh để cho đôi tay của cô gái Hoa xoa hai thái dương và nhắm mắt. Anh muốn dễ thương với cô, muốn kể với cô về chuyến đi của mình, chia sẻ với cô những gì đã thấy, đã biết, đã trải qua từ khi sinh ra cho đến hôm nay. Anh muốn nói với cô về những người đàn ông đặc biệt mà anh thường lui tới, những phụ nữ kỳ lạ đã quyến rũ anh, muốn kể về những nguy hiểm mà anh đã vượt qua, những nguy khốn mà anh đã thoát. Có lẽ anh sẽ không dối trá mà chỉ bốc đồng một chút để tô điểm cho sự việc nhằm làm lóa mắt cô. Có lẻ anh thích thấy cô hai mắt mở to, nghe cô cười và biểu lộ xúc động. Thấy cô điên lên vì khâm phục.
Nhưng đáng buồn anh không phải là một người hùng. Thậm chí anh không đủ dũng cảm để thú nhận mình rất sung sướng khi được cô xoa bóp. Anh cảm nhận sự khoan khoái đến từng ngón tay nhưng không đủ sức để cảm nhận khoái cảm đó. Bằng một động tác anh nắm chặt lấy cổ tay cô làm nó bất động. Một câu nói dối lại buông ra từ đôi môi anh.
- Hôm nay là sinh nhật mẹ anh. Anh muốn cùng em kỷ niệm ngày này.
Anh ngửa mặt ra sau, và thấy khuôn mặt của Ayamei rất gần. Cặp mắt huyền của cô nhìn anh ngấu nghiến.
- Em rất hạnh phúc được cùng anh kỷ niệm ngày sinh của mẹ.
Anh cũng muốn cười nhưng lại nhíu mày và nói với cô bằng một giọng cục cằn.
- Ngồi xuống đi. Ăn đã, anh đói.
Trước mặt anh, cô cười nói ríu rít, bộc lộ niềm vui được gặp lại anh, và sôi nổi như một bé gái.
- Anh đi lâu quá! Em luôn nghĩ đến anh. Từng phút, từng giây. Có đến triệu lần! Anh đã làm những gì? Anh đi đâu? Anh ngủ có ngon không? Anh mơ thấy gì? Anh có lừa dối em đi với một cô tiếp viên hàng không xinh đẹp? Cứ hình dung ra những điều ấy em lại ghen. Nhưng không sao. Anh đã bảo tình yêu cho nhiều người không bị ràng buộc bởi sự sở hữu. Em phải biết điều đó, và phải ngang tầm với anh. Ngày nào em cũng đợi điện thoại của anh. Anh không gọi cho em lần nào. Anh biệt tăm! Em lo sợ khi nghĩ anh bị tai nạn, anh bị bắt cóc, giáo phái “ Sứ mạng địa cầu” yêu cầu anh ở lại Châu Á, và chẳng bao giờ em được gặp lại anh. Em đã đau khổ vì anh.
Cô thở dài rồi cười.
- Nỗi buồn của em ngất ngây….
Anh muốn có một cái nhìn yêu thương, muốn nói anh cũng đã nghĩ về cô, có thể không từng giây nhưng hơn một lần mỗi ngày, rằng anh đã đi Trung Quốc và đã đưa Min về cho cô. Nhưng một lần nữa giọng nói của anh lại trở thành đao phủ của những điều anh nghĩ. Anh khẽ nói:
- Khi đi công tác anh không gọi điện thoại.
Khuôn mặt của Ayamei tối sầm trong giây lát nhưng cô lại nhanh chóng nở một nụ cười.
- Anh có lý, chúng ta có thể bị nghe trộm.
Sao cô bé dễ thương đến thế? Sao có thể yêu một gã đê hèn như Bill Kaplan? Anh lại lấy giọng lạnh lùng:
- Có thể một ngày nào đó anh phải ra đi
Cô nhìn món thịt gà quay.
- Em biết, nhưng…..
Cô cắn môi. Bỗng cô tuyên bố:
- Hôm nay anh ở đây, em phải tận dụng sự hiện diện của anh! Em không muốn ân hận bất cứ điều gì khi ngày mai anh đi rồi. Em không sợ chia tay. Cuộc đời được tạo dựng bằng những cuộc chia tay mà anh.
Anh cảm động, thèm muốn có được lòng dũng cảm của người con gái này. Cô yêu một kẻ không yêu cả chính bản thân mình.
- Lần đầu thấy anh trước cửa thang máy, cô thẹn thùng nói nhưng nhấn mạnh từng lời, anh đã tước hết vũ khí của em. Jonathan, anh đã mang đến cho em một chút niềm vui! Khuôn mặt, tiếng nói làn da của anh ám ảnh em! Vì sao em đã ngủ với hắn dù không có một chút tình cảm nào? Em sẽ nói thật với anh. Không phải vì em tin vào những thuyết giảng của giáo phái “ Sứ mạng địa cầu”. Em làm điều đó vì anh! Em khao khát được phục vụ anh, được làm anh vui, được làm tổn thương sự kiêu hãnh của em, được bôi nhọ cái tôi của em một lần trong đời! Dâng hiến cho người đàn ông những gì tốt đẹp nhất mà em sở hữu, không đòi hỏi người ấy với đôi mắt ngắm nghiền dù có nguy cơ vấp ngã, và không thể gượng dậy. Đó là cách em yêu. Vì sao lại là anh? Em sẽ ra sao nếu anh đi rồi? Những câu hỏi này vượt quá sức của em. Em chỉ biết một ngày nào đó nếu em còn được sống đến ngày ấy, em sẽ lần giở từng trang trong trí nhớ và sẽ thấy hình ảnh của anh trong đó. Em sẽ nói: “Đây là người mình yêu bằng cả trái tim dù không biết tên tuổi, quá khứ, tương lai của anh ấy. Một người mà mình đã gặp ở gần công viên Luxembourg và trong những giây phút bên nhau mình đã yêu anh ấy với cả sức lực của mình!”
Đến lượt Jonathan nhìn món thịt gà quay chăm chú. Anh không đáp lại lời tuyên bố của cô.
Anh nghe thấy Ayamei cười.
- Chẳng lẽ anh không phải điệp viên? Tất cả những đổ dùng của anh chứng tỏ chắc chắn anh làm việc cho CIA. Bây giờ em đã trên cùng một con thuyền với anh, em không thể làm hại anh. Hãy nói cho em biết sự thật, anh là ai?
Jonathan không phản ứng gì. Anh chậm chập quay sang nhìn cô. Động tác này giúp anh có thời gian suy nghĩ. Sớm muộn CIA cũng sẽ cử người sang đây để biến cô vĩnh viễn thành một quân cờ trên bàn cờ của tình báo Mỹ. Nhưng sao không phải bây giờ? Sao không phải là anh?
Anh chăm chăm nhìn vào mắt cô, nhờ thế anh tìm được những lời nói dối hay nhất.
- Anh chỉ là một kỹ sư tin học, anh gia nhập giáo phái “Sứ mạng địa cầu” để có niềm tin, có ý thức và tín ngưỡng. Anh cố gắng làm những điều có thể để xã hội của chúng ta tốt đẹp hơn. Ngoài giáo phái ra anh chẳng là gì hết. Xin lỗi, anh không phải là một James Bond, một siêu anh hùng, cứu tinh của thế giới.
Cô hỏi anh dồn dập.
- Anh chuyển đến ở tòa nhà này với mục đích làm quen với em phải không? Anh đã lập trình cuộc gặp giữa chúng ta? Anh có quan hệ tình ái với em để tiếp cận Philippe Matelot? Phải chăng em chỉ là một công cụ của anh, anh có chút tình cảm nào với em không?
Cô bồn chồn ngồi trên ghế và lo lắng đợi anh trả lời. Lòng anh đau như xé bởi anh trả lời. Lòng anh đau như xé bởi cái nhìn của cô, nó van nài anh hãy dũng cảm nói ra sự thực. Anh nợ cô một lời tự thú: “ Đúng, anh đã chơi một ván bài với em và anh đã chơi gian. Anh là một kẻ mắc chứng tâm thần phân liệt, một diễn viên xiếc leo dây mà một ngày nào đó em sẽ khinh bỉ khi phát hiện ra bộ mặt thật của anh. Đúng, anh đã lợi dụng sự ngây thơ và nhiệt tình của em. Anh đã biến em thành gái làm tiền và gây cho em đau khổ. Ayamei, cảm ơn sự tồn tại của em. Cảm ơn em đã buộc tội lương tâm anh. Cảm ơn em đã yêu một kẻ cô đơn, điên khùng, đáng bị đày xuống địa ngục. Tha lỗi cho anh!”
- Không phải thế, anh vẫn dối lòng trả lời cô.
Nói dối có thể cũng là cách thể hiện sự đồng cảm.
- Anh có yêu em chút nào không? Cô gặng hỏi.
Trong quá khứ đã có vài người đàn bà hỏi anh điều ấy. Anh đã huyên thuyên để không phải trả lời ai bao giờ. Vì sao cô ấy, vì sao Ayamei, người nữ anh hùng Thiên An Môn cũng muốn nghe một lời hứa mà anh không thể nào thực hiện.
- Có, anh trả lời bất đắc dĩ.
- Cảm ơn, cô reo lên. Cảm ơn!
Cô lén lau nước mắt, rồi cười với anh.
- Nào bây giờ ta ăn. Anh thích gì, cánh hay đùi?
Jonathan nhai thức ăn một cách vô cảm. Tuy nhiên anh vẫn đủ sức để hài hước, để kể về những ngày anh ở Malayxia với hàng nghìn chi tiết bịa đặt. Cô cười. Anh tự hỏi có nên đưa cho cô xem tác phẩm của Min. Có cần phải nói anh đã đi Trung Quốc vì cô không? Sẽ phải giải thích với cô ra sao? Bằng mọi giá phải tránh để cô ta hiểu rằng mình đang yêu!
Quá muộn, ánh sáng gian bếp đã tắt, chiếc bánh sinh nhật được đặt lên bàn. Cô thắp nến.
- Năm nay mẹ anh bao nhiêu tuổi?
Anh bịa ra một con số.
- Anh thổi nến đi.
Anh làm theo lời cô.
Anh tìm được cô trong bóng tối. Quỷ tha ma bắt những thận trọng, tính toán, những che giấu. Anh muốn gây bất ngờ cho cô và cho chính mình. Anh muốn làm người tử tế trong ngày sinh nhật của mình. Cô phải gặp lại Min để đoạn tuyệt với cậu ấy. Bức họa sẽ giải thoát cô khỏi lời cam kết với người đã khuất. Được tự do, cô sẽ cảm nhận được cơ thể mình, sẽ biết đến niềm vui và anh, Jonathan sẽ có thể rút lui.
- Mình lại phòng khách đi em, anh thì thầm bên tai cô, anh có quà cho em.
Anh để cô ngồi xuống giữa tràng kỷ, đòi cô nhắm mắt lại và để bức màu nước của Min lên đầu gối cô.
- Cái gì thế anh?
- Em xem đi.
Cô cầm lấy bức họa, mỉm cười.
- Cô bé này là ai?
Anh bỗng thấy chóng mặt.
- Anh mua ở Malayxia à? Anh nghe thấy cô hỏi. Đẹp lắm. Cảm ơn anh!
Anh chợt nhận ra là phải lấy lại bức vẽ. Nhưng đã quá muộn. Cô đã lật mặt sau của nó và nhìn thấy những dòng chữ bằng tiếng Hoa.
Cô cúi mặt đọc chậm rãi, dồn hết tâm trí vào những dòng chữ dù chúng không dài.
Jonathan nín thở.
Cô từ từ ngẩng mặt lên. Anh phát hiện ra trong mắt cô một tia sáng tàn ác và cảm thấy cơ bắp và dây thần kinh của cô căng cứng. Trong sự bất động của cô có gì đó rất thú vật, giống như một con thú chuyên săn mồi chuẩn bị lao vào miếng mồi của mình. Anh cũng không nhúc nhích: không, anh không sợ cô, chính cô phải sợ anh! Cô không biết vì sao anh có được bức họa này. Cô không biết anh đã đi Bắc Kinh, không biết anh chắc chắn cô sẽ không nhận ra bức màu nước. Cô không biết anh đã không báo cáo với ai, và không ai đứng sau anh, không hề có kịch bản, cạm bẫy hay máy ghi âm.
Anh vẫn ngồi im mỉm cười với cô. Người đàn bà tự nhận là Ayamei nhìn anh dò xét. Chắc cô ta đang suy nghĩ về ý nghĩa nụ cười của anh và đánh giá sự nguy hiểm mà nó che giấu. Bỗng khuôn mặt cô giãn ra, cô đứng lên đi đến bên anh.
- Sao anh lại đưa Min về với em khi em đã quyết định quên đi bạn ấy? Anh đã đùa cợt với em. Anh không yêu em.
Chứng hoang tưởng bộ phận lại chơi khăm anh một vố nữa sao? Và nếu có Ayamei giả này là thực? Liệu cô ta đã quên một vài hình ảnh về một thời kỳ đau khổ trong cuộc đời mình? Xét cho cùng lúc ấy cô mới 14 tuổi, bây giờ cô đã ba mươi bảy.
Jonathan ngập ngừng bước đến gần cô và dang tay đón cô và dang tay đón cô. Anh phải giữ cô lại và phải kiểm tra sự thật. Cô không thể là một sự ngụy tạo. Điều ấy có thể sẽ là một tai họa đối vói anh, với chỉ huy của anh, với tất cả những người theo dõi họ từ trong bóng tối.
Cô đăm đắm nhìn anh da diết. Hai hàng nước mắt lăn trên má. Trời ơi, sao em khóc?
Bỗng cô xoay người và đi ra cửa. Anh không đủ dũng cảm để lao theo cô. Anh chưa kịp quyết định thì cô đã sập cửa và biến mất.
°
22 giờ 15 phút
Buổi sáng đầu tiên Jonathan thức giấc trên giường của một người đàn bà là khi anh mới 16 tuổi. Chồng của Jane đi công tác. Cô gặp anh lúc nửa đêm trong một cuộc vui với cặp vú trắng để hở, cô đưa anh về nhà cô trên một chiếc xe mui trần màu đỏ. Họ lên phòng, và vừa đặt cái của quý vào miệng cô, anh đã phóng ra ngay. Anh xin lỗi cô và cho rằng vì rượu nên anh không thể kiềm chế. Đấy là lời nói dối đầu đời thông minh của anh.
Sáng ấy trong vòng tay của Jane, anh đã mơ một giấc mơ kỳ lạ: chiếc xe ca đi Los Angeles chạy vào đường ngược chiều và người lái xe đã cho anh xuống một vùng xa lạ. Bầu trời xanh và rất thấp. Hai bên đường triệu triệu bông hoa súng màu đỏ tím, màu hoa cà, màu vàng, màu xanh khoe sắc trên những ao hồ bất tận. Tỉnh dậy anh kết luận đàn bà là một con đường lầm lỡ dẫn đến những bông hoa súng rực rỡ [4].
Jane ra sao rồi? Chắc cô ấy phải nói dối về tuổi tác, phải giao phó cơ thể và khuôn mặt mình cho các bác sĩ da liễu và các nhà phẫu thuật thẩm mỹ. Chắc cô ấy cũng giống như tất cả những phụ nữ khác, họ đều có chung nhiều điểm tương đồng. Hai mươi hai năm đã trôi qua nhưng anh chưa gặp lại cô. Không biết anh có nhận ra cô nếu có ngày gặp lại?
Mùi hoa xương rồng, hoa quế, mùi đại dương trong nắng trở về trong ký ức anh. Mười tám tuổi vào những ngày chủ nhật anh đã cùng Kate đi nghỉ trong một căn nhà nhỏ bằng gỗ cách bờ biển mấy bước. Thời tiết đẹp. Thời tiết quê anh lúc nào cũng đẹp. Hai đứa thả sức làm tình trong tiếng nhạc. Kate hơn anh ba tuổi. Cô bảo anh hai người phải có cảm giác sung sướng cùng một lúc. Anh còn nghe thấy những tiếng kêu thét của Kate hòa với tiếng rên của chính anh, nhưng không nhớ cường độ của sự khoái cảm mà lúc ấy anh đã cảm nhận được. Thời gian còn lại lưu giữ cái vỏ ngoài của sự vui thú nhưng đã xóa mất cái nội dung bên trong.
Sau Kate, anh không còn biết đến sự kiệt sức vô tư của ngày chủ nhật nữa. Khi gặp Cathy anh đã quay lưng với địa chỉ cần đến, và đi tới số phận dành cho mình. Anh nhớ lại thân hình to lớn với đôi mông nặng nề, mái tóc hung đỏ, cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống của cô to. Anh còn thấy cặp môi mỏng màu hồng dâu tây, nhưng đã quên những cái vuốt ve hay mùi vị của những cái hôn của cô. Cathy còn sống nhưng đã là bóng ma lang thang trong trí nhớ của anh.
Trong giảng đường đại học, cô thường ngồi bên anh. Lần đầu cô bắt chuyện với anh là trước quầy cà phê. Cô mỉm cười với anh. Nụ cười đã hằng sâu trong anh như một lưỡi dao găm. Tất cả đã bắt đầu với vết thương đầu tiên ấy.
Cathy xuất hiện rồi mất tăm. Cô vào phòng anh, rồi đi ngay, không tăm tích. Cô thay đổi giờ hẹn, hàng tuần liền không tung tích, bỗng xuất hiện khi anh vừa khởi động xe, khi anh vừa ra khỏi siêu thị, hay vào quán giải khát. Không còn nữa những buổi dạo chơi bên bờ biển, những lúc thức dậy trong vòng tay nhau, những cuộc nói chuyện ngập tràn lời yêu thương ngây thơ. Cathy là một phụ nữ đột biến, vội vã và chính xác, một sản phẩm của tạo hóa đã trải qua một đại phẫu cả về thể xác lẫn tâm hồn theo yêu cầu của ngành tình báo: sự trìu mến của cô ta chỉ là kết quả của sự điều chỉnh mô hình thành công, sự hài hước của cô ta là chất silicon của một trái tim khô cằn. Sự đa tình của cô ta chỉ là một thứ mồi nhử nhằm đưa chàng trai vào một mê hồn trận. Lạnh lùng và có phương pháp, cô ta đã làm anh mất lý trí cho đến ngày cô tiết lộ với anh về danh tính thực sự của cha anh mà anh tưởng đã qua đời. Ông là điệp viên CIA đang hoạt động ở Đông Âu. Cathy đã làm anh gục ngã rồi lại nâng anh dậy. Một buổi sáng, đứng trước gương, anh không nhận ra mình nữa. Anh không còn là sinh viên Davis Parkhill mà là điệp viên Bill Kaplan.
Bốn năm trước, anh đã nếm trải sự cô đơn đến nao lòng và muốn thành công trong lĩnh vực mà bố anh đã thất bại. Anh đã muốn xây hạnh phúc gia đình. Anh gặp Isabelle trên một chuyến bay. Cô làm anh nhớ đến mẹ: mảnh mai, da nâu, lịch thiệp và là người Pháp. Anh muốn cô là một điểm neo đậu trong thế gian, và là một nghĩa vụ phải sống của anh. Nhưng Isabelle không đủ sức chấp nhận lời cầu hôn. Sau nhiều lần điều tra, cuối cùng CIA cho phép anh được tiết lộ với cô tên thật và nghề nghiệp thật của mình. Mệt mỏi vì anh thường xuyên biệt tích, cô nhận lời yêu một anh phi công và kết hôn với anh ta.
Sau mối tình với Isabelle anh lao vào những cuộc truy hoan. Với anh, khuôn mặt, mái tóc, cặp vú nào cũng như nhau, chúng chỉ để lại một cảm giác mơ hồ về màu sắc và âm thanh. Anh không thể nói cơ thể nào đã trần truồng trước mặt anh và ở khách sạn nào. Singapore, Kuala Lumpur, Gia kac ta, Sê un, Hồng Kong, Tôkyô, Bắc Kinh, những thành phố ấy đều giống anh, đều toát ra mùi nguy hiểm pha hương đàn bà. Anh không biết đến tình yêu và không thấy hối tiếc. Trên trái đất này tình yêu chỉ là mặt trái của lòng căm thù và cả hai đều là sự điên rồ.
Vì sao Ayamei xử sự như một người xa lạ trước tấm chân dung của cô do Min vẽ? Vì sao Min phải chết? Vì sao Bill Kaplan, diễn viên xiếc leo dây, đi trên những ảo tưởng của thế gian, lại bị mê hoặc bởi mộ