Mùa xuân tang tóc PRINTEMPS STERILE
Vào một buổi chiều cuối tháng hai nóng bức, anh nông phu Xiêu ngồi trước thềm nhà, chỉ một gian duy nhất, cảm thấy mùa xuân sắp đến trong thân hình gầy gò của mình.
Làm sao anh có thể nhận ra mùa xuân, một mùa đánh thức sự sống trên mặt đất và khích động nhựa sống trong cây? Anh không thể nói được. Những năm khác chuyện đó rất dễ. Anh chỉ cần ngắm các chồi trên cành liễu chung quanh nhà. Nhưng bây giờ thì các gốc liễu ấy không còn nữa. Trong mùa hè ghê gớm này, khi người ta chết hàng loạt vì đói, anh đã phải đốn từng gốc liễu đem bán.
Ngày trước, ba cây đào và sáu cây mơ cha anh trồng quanh nhà cũng đánh dấu mùa xuân với những nụ hồng. Nhưng khi các cây đào đang độ phát triển và trổ trái nặng trĩu anh cũng phải hy sinh chúng nốt.
Những năm trước, anh thích nhìn ra những cánh đồng mà anh canh tác không ngừng, mùa đông anh ươm giống, mùa xuân anh cấy mạ. Nhưng bây giờ các cánh đồng đó trở nên câm nín.
Lúa không nẩy mầm vì sau mùa gieo mạ đã lâu, nạn lụt vẫn chưa chịu rút. Bây giờ thì mặt ruộng như đất sét nứt nẻ, mới vừa khô.
Vào một ngày tương tợ như hôm nay, nếu còn con trâu và cái cày, Xiêu sẽ đi cày. Dù cho không còn một hạt giống để gieo, anh cũng ham muốn cày trở để cho đất có bộ mặt của một cánh đồng.
Nhưng con trâu của anh không còn nữa. Anh sẽ cho là ngu ngốc kẻ nào tiên đoán anh sẽ phải ăn thịt con trâu đó, con vật mà năm này qua năm khác cày bừa thửa ruộng của anh, đạp lúa cho anh vào những ngày mùa. Vậy mà anh đã phải đi đến mức đó.
Anh, vợ anh, cha mẹ anh và bốn đứa con của anh, tất cả đều đã ăn thịt con trâu.
Còn cách nào khác để trải qua những ngày mùa đông thê thảm đó, khi mà lúa gạo trong nhà đã cạn và anh đã phải đốn cây chung quanh nhà bán cũng như những món còn sót lại trong nạn lụt. Họ chỉ có sườn nhà và các quần áo đang mặc.
Với lại con vật cũng đói như mọi người. Nước ngập các đồng cỏ và người ta phải đi thật xa mới tìm được chút ít cỏ khô để nướng thịt và xương con trâu. Ngày ấy Xiêu thấy gương mặt cha mẹ già yếu của anh tái ngắt như những kẻ sẳp chết. Anh cũng đã chứng kiến cảnh con gái bé nhỏ của anh hấp hối, nghe tiếng khóc của các con anh. Trong tình trạng quá tuyệt vọng anh đã mất trí, anh cố thu góp sức tàn, xách con dao bếp đâm chết con trâu của anh, một điều mà trước kia anh thề không bao giờ làm.
Dù đau khổ ghê gớm, anh vẫn rên siết vì anh có cảm tưởng như giết em ruột của mình. Anh vừa thực hiện một sự hy sinh cuối cùng.
Vậy mà vẫn chưa đã, gia đình anh vẫn đói và không còn gì để hy sinh.
Rất nhiều người tản cư bồng bế nhau đi xuống miền Nam hoặc theo con sông đi ăn mày ở các thành phố.
Nhưng Xiêu không hề đi ăn xin. Nếu phải chết hết tất cả thì dù sao nằm xuống trên mảnh đất của mình cũng là một điều an ủi. Người bạn năn nỉ anh tản cư với họ. Y cũng đã đề nghị rằng cha của Xiêu đi trong khi Xiêu có thể lo cho mẹ anh. Nhưng may thay, Xiêu đã từ khước vì hai ngày sau, mẹ anh mất. Nếu bà nhắm mắt trong lúc tản cư thì phải bỏ xác dọc đường nếu không muốn làm trễ nải mọi người và gây thêm những vụ chết chóc khác.
Nhờ vậy, Xiêu có thể chôn cất mẹ trên đất của mình. Nhưng anh đã quá kiệt lực nên phải mất ba ngày mới đào được một lỗ có thể chôn tấm thân nhỏ bé và sình thúi.
Vợ anh và anh đã gây lộn về những bộ quần áo rách nát dùng trong việc tẩm liệm bà cụ. Nếu anh không cản thì vợ anh đã chôn bà cụ trần truồng để lấy quần áo người quá cố cho con mặc. Xiêu bắt người vợ phải trả lại chiếc áo cánh và mấy chiếc quần rách nát cho mẹ khi thấy đất lạnh phủ lên xác mẹ. Còn niềm đau xót nào lớn hơn đối với một người đàn ông! Nhưng không thể tránh được.
Sau đó, Xiêu cố chôn cất ba người thân khác một cách chu đáo hơn. Ba người đó là cha anh, đứa con gái bé nhứt và thằng con trai bịnh hoạn.
Nạn đói mùa đông năm ấy đã gây bao nhiêu tai biến cho gia đình anh dân cầy. Nếu trong các ao do nước lụt tạo ra không có chút ít tép thì có lẽ cả gia đình anh sẽ chết hết. Những con tép đó, người ta ăn sống mặc dầu lúc bấy giờ có nạn kiết lỵ bất trị. Có những ngày vợ của anh lết ra ngoài, bứt mấy đọt cỏ đem về ăn sống vì không có cỏ khô để nấu. Nhưng vị đắng của mấy đọt cỏ đó rất hữu ích vì nó đánh tan được mùi tanh của tép...
Bây giờ mùa xuân đã đến. Xiêu tiếp tục ngồi một cách nặng nhọc, đôi mắt nhìn qua các cánh đồng. Nếu có thể tìm lại được con trâu và cái cày mà họ đã chụp trong thời gian lụt lội tràn lan, anh sẽ ra đồng cày bừa. Ý nghĩ đó luôn luôn lảng vảng trong đầu óc anh. Anh dân cày thấy mình bất lực như chiếc lá bị cuốn theo dòng. Con trâu đã mất cũng như tất cả công cụ bằng gỗ hay bằng tre. Bây giờ anh còn lại những gì?
Có khi, trong mùa đông ghê gớm đó, anh cảm thấy may mắn vì cơn lụt đã để cho anh ngôi nhà trong khi bao nhiêu nhà khác bị cuốn trôi. Nhưng anh vụt hiểu là anh chẳng may mắn gì cả khi qua nạn lụt, anh vẫn còn sống, cũng như vợ anh và hai đứa con lớn của anh. Anh cảm thấy đôi mắt cay cay. Anh đã không khóc nhiều lần khi lắp đất lên thi thể mẹ mà các mảnh áo rách không đủ che thân. Anh thấy được an ủi phần nào khi để cho bà cụ mang theo những mảnh dẻ đó qua cõi hư vô. Còn bây giờ thì anh không tìm thấy một sự an ủi nào. Anh lẩm bẩm:
- Mình không còn một hạt giống nào để gieo. Đây là đất. Nếu còn hạt giống mình sẽ cào đất với móng tay của mình. Đất sẽ lên mầm. Mình biết đất của mình tốt lắm. Nhưng mà mình không có gì để cho nó. Đất bỏ không. Mùa xuân đã về, nhưng chúng ta rồi cũng sẽ chết đói và tuyệt vọng, anh ngắm mùa xuân tang tóc.